Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục giới tính tại trường THCS

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục giới tính tại trường THCS hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm khóa luận thì với đề tài Luận văn: Thực trạng quản lý hoạt động giáo dục giới tính tại các trường THCS Thuộc Quận 4, TP. HCM dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.

2.1. VÀI NÉT TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI ĐỊA BÀN QUẬN 4

2.1.1. Về địa lý

Quận 4 là một Quận giáp ranh với trung tâm Thành phố, có hình dạng như một cù lao tam giác với tổng diện tích 4.181km2. Tỷ lệ diện tích so với Thành phố là 0,1995% (nhỏ nhất trong 24 Quận huyện). Tổng số dân khoảng 200.000 người. Dân tộc Kinh chiếm khoảng 92,91%, dân tộc Hoa chiếm 4,08%, còn lại là các dân tộc khác. Mật độ dân số 48.791 người/km2, đứng thứ hai trong toàn thành phố. Địa giới hành chính được chia thành 15 phường, 51 khu phố và 666 tổ dân phố.

2.1.2. Tình hình giáo dục

2.1.2.1. Số trường, số giáo viên, học sinh

Tình hình nhân lực giáo dục khối THCS trên địa bàn quận được trình bày trong bảng 2.1.

Như vậy có thể thấy so với toàn thành phố, tỉ lệ giữa cơ sở vật chất và nhân lực ngành giáo dục THCS của quận 4 là chưa tương xứng và chưa đồng đều ở các hạng mục.

Về chi tiết, phân tích tình hình giáo viên các môn trình bày trong bảng 2.2

Bảng 2.2. Tình hình giáo viên dạy các môn Sinh, GDCD và tình hình học sinh khối 8, 9 tại các trường THCS thuộc Quận 4

2.1.2.2. Điều kiện cơ sở vật chất phục vụ dạy học các trường THCS

  • Số phòng học : 161 Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục giới tính tại trường THCS.
  • Diện tích các trường nhỏ hẹp, chưa có trường nào có phòng tư vấn tâm lý.
  • Trang thiết bị đồ dùng dạy học phục vụ tốt cho giảng dạy.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ: 

===>>> Bảng Giá Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Quản Lý Giáo Dục

2.1.2.3. Kết quả xếp loại học lực- hạnh kiểm NH 2009-2010

Thống kê xếp loại học lực và hạnh kiểm được trình bày trong bảng dưới đây. Bảng 2.3. Thống kê xếp loại học lực và hạnh kiểm

Tỉ lệ học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở thuộc Quận 4 trong nhiều năm liền đạt 100 %.

Phân tích cho thấy, phong trào dạy và học đạt kết quả khá tốt, các trường THCS đều có quan tâm đến công tác giáo dục toàn diện cho học sinh song chất lượng hoạt động chưa đồng đều. Về mặt học lực, tỉ lệ học sinh giỏi còn chưa cao so với học sinh khá và xấp xỉ học sinh trung bình (28.16% so với 26.29%). Đây là một trong những thực trạng đáng quan tâm trong công tác quản lý giáo dục và nâng cao chất lượng giảng dạy hơn nữa tại địa bàn quận.

Biểu đồ 2.1. Phần trăm xếp loại học lực và hạnh kiểm

Trong 3 năm trở lại đây Quận 4 được công nhận là Quận nội thành của TP.HCM, tốc độ đô thị hóa nhanh, khoa học công nghệ phát triển, học sinh các trường THCS được tiếp cận với các hoạt động giao lưu văn hóa, tiếp cận tốt với phương tiện thông tin đại chúng như sách báo, internet, truyền hình cáp, các đài phát thanh …. Môi trường sư phạm lành mạnh là điều kiện tốt để học sinh phát triển nhân cách một cách đúng hướng.

2.2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC GIỚI TÍNH TẠI CÁC TRƯỜNG THCS THUỘC QUẬN 4, TP.HCM

2.2.1. Thực trạng quản lý việc thực hiện chương trình theo qui định của Bộ Giáo Dục và đào tạo (chương trình lồng ghép ở 2 môn GDCD và môn Sinh)

Việc thực hiện lồng ghép chương trình ở môn GDCD và môn Sinh hiện đã và đang được triển khai trên địa bàn quận. Tuy nhiên chưa có một sự đánh giá nào về hiệu quả của việc quản lý vấn đề này. Nhóm nghiên cứu khảo sát nhằm làm rõ đồng thời giúp cung cấp thêm dữ kiện để đánh giá nội dung giáo dục giới tính trong học đường. Kết quả khảo sát được trình bày trong bảng dưới đây. Bảng 2.4 Khảo sát việc thực hiện chương trình môn GDCD (các bài có nội dung GDGT)

Việc lồng ghép thể hiện trong 5 bài có nội dung tương ứng ở bảng trên. Qua khảo sát, giáo viên GDCD đã thực hiện đầy đủ 100% các bài theo quy định. Để xem xét nội dung giảng dạy đạt hiệu quả đến đâu, người nghiên cứu đã trực tiếp dự giờ và nhận thấy tiết dạy cũng không khác gì so với tiết dạy bình thường về các bước lên lớp, nội dung giảng dạy không thoát ly khỏi sách giáo khoa, không chú trọng nội dung giáo dục giới tính – quan hệ nam nữ để phòng tránh bệnh tật, tệ nạn xã hội, HIV/AIDS. Nhìn chung việc thực hiện chương trình lồng ghép ở môn GDCD trên bình diện của giáo viên đứng lớp là khá tốt và nghiêm túc.

Biểu đồ 2.2. Tỉ lệ phần trăm thực hiện chương trình môn GDCD (các bài có nội dung GDGT) Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục giới tính tại trường THCS.

Qua biểu đồ 2.2, so sánh sự nhận xét của học sinh với giáo viên có sự khác biệt về tỉ lệ phần trăm, trung bình chỉ đạt 70.3% ở các bài trong khi tỉ lệ này ở giáo viên là 100%, Quan sát ở cột Sig, ta thấy sự khác biệt không có ý nghĩa ở các bài 1,2,3,5 (Sig > 0.05) sự khác biệt có ý nghĩa ở nội dung bài “ Quyền và nghĩa vụ của công dân trong hôn nhân” (Sig = 0.001 < 0.05).Trên thực tế, bài này có được giảng dạy trên lớp nhưng kết quả khảo sát trong học sinh cho biết rằng các em gần như không nắm bắt được vấn đề, các nội dung giảng dạy không còn nằm trong kiến thức của các em. Học sinh sau khi học qua gần như đều không nhớ được, không ghi nhận được, không biến những điều đã học trên lớp thành kiến thức trong trí nhớ của mình. Chính vì vậy, điều này một lần nữa cho thấy hiệu quả của công tác giảng dạy còn chưa cao, chưa có tính sáng tạo nhằm nâng cao, đi vào tính ứng dụng của những nội dung giảng dạy.

Riêng đối với chương trình Sinh học, trong 2 khối lớp 8, 9 cũng đã phối hợp lồng ghép các vấn đề này. Kết quả khảo sát được trình bày trong bảng 2.5.

Bảng 2.5. Khảo sát việc thực hiện chương trình môn Sinh khối 8, 9 (đối với giáo viên Sinh 8, 9: các bài có nội dung GDGT)

Biểu đồ 2.3. Phần trăm thực hiện chương trình môn Sinh khối 8, 9 (đối với giáo viên Sinh 8, 9: các bài có nội dung GDGT)

Theo bảng 2.5 và biểu đồ 2.3, ta thấy có sự chênh lệch về tỉ lệ ghi nhận của giáo viên và học sinh.Tỉ lệ trung bình giáo viên có dạy các nội dung bài giảng theo quy định không phải là 100% (tỉ lệ 94.4% ở các bài 1, 2; 100% ở bài 4; 88.9% ở bài 3, 5, 6), còn tỉ lệ trung bình học sinh có học là 57.9%. Đặc biệt ở bài 3 (Cơ sở khoa học của các biện pháp tránh thai) chỉ có 24.5% học sinh cho rằng mình có học bài này, đây là một tỉ lệ quá thấp. Có thể do bài này quá tế nhị mà giáo viên đã không dạy, hoặc dạy sơ sài, lướt qua nên học sinh không có ấn tượng về việc đã học các nội dung như chương trình đã họach định.Quan sát ở cột Sig, ta thấy sự khác biệt có ý nghĩa ở các bài 2,3,4 (Sig lần lượt là 0.043;0.031;0.002 < 0.05) và sự khác biệt không có ý nghĩa ở các bài 1,5,6 (Sig > 0.05)

Qua phỏng vấn thì giáo viên Sinh, CD hầu như giảng dạy GDGT thông qua chương trình chính khóa thì tiết dạy được thực hiện một cách sơ sài, dạy qua loa vì thường những bài thuộc môn Sinh nằm cuối chương trình lớp 8, đề thi học kỳ thường không hỏi những vấn đề này, lại rơi vào giai đoạn thi, thi xong lo thực hiện điểm số rồi kết thúc năm học, BGH ít quan tâm kiểm tra việc thực hiện chương trình giai đoạn này. Vì vậy giáo viên dạy lướt qua không đào sâu.

2.2.2. Thực trạng quản lý việc giảng dạy của giáo viên

2.2.2.1. Quản lý việc phân công giáo viên giảng dạy Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục giới tính tại trường THCS.

Trong giáo dục giới tính cho đối tượng học sinh THCS, vai trò của chủ thể giáo dục rất quan trọng. Người thực hiện nhiệm vụ GDGT phải có đầy đủ những điều kiện như đã được đào tạo phù hợp, có tác phong đạo đức tốt, có lối sống gần gũi và hòa đồng với học sinh. Khảo sát về chủ thể giáo dục được tiến hành nhằm đánh giá gián tiếp hiệu quả của công tác GDGT

Bảng 2.6. Khảo sát tình hình phân công giáo viên giảng dạy giáo dục giới tính

Có 97.7 % giáo viên môn Sinh; 59.1 % giáo viên môn GDCD được phân công giảng dạy GDGT. Đây là yếu tố thuận lợi trong việc GDGT lồng ghép vào các tiết học Sinh và GDCD. Ngoài ra 25% giáo viên làm Tổng phụ trách Đội và 9.1% giáo viên là Bí thư Chi Đoàn cũng được phân công giảng dạy GDGT.

Biểu đồ 2.4. Phân công giáo viên giảng dạy GDGT

Giáo viên Tổng phụ trách Đội và giáo viên là Bí thư Chi Đoàn chủ yếu giảng dạy GDGT qua các hoạt động tư vấn cho học sinh. BGH các trường thường phân công cho các giáo viên này gần gũi tìm hiểu tâm tư tình cảm của các học sinh “có vấn đề” về học lực và hạnh kiểm, có biểu hiện “yêu sớm” để hướng dẫn các em chuyên tâm vào nhiệm vụ học tập. Từ thực trạng trên, có thể nhận thấy việc phân công giáo viên thực hiện công tác GDGT đúng chuyên môn, tuy sự quan tâm đến hiệu quả của công tác này chưa cao.

2.2.2.2. Quản lý việc chuẩn bị bài lên lớp và giờ lên lớp của giáo viên

Công tác quản lý chuẩn bị bài của giáo viên được đánh giá thông qua các tiêu chí về giáo án, thời khóa biểu, sổ đầu bài, việc dự giờ của ban giám hiệu, họp rút kinh nghiệm về công tác GDGT. Kết quả được trình bày trong bảng 2.7

Bảng 2.7. Khảo sát các biện pháp quản lý việc chuẩn bị bài lên lớp và quản lý giờ lên lớp của giáo viên

Biểu đồ 2.5. Các biện pháp quản lý việc chuẩn bị bài lên lớp và giờ lên lớp của GV

Tại các trường THCS của Quận 4, để quản lý việc thực hiện chương trình BGH đã tổ chức quản lý việc chuẩn bị bài lên lớp, ký duyệt giáo án định kỳ, có 61.4% CB-GV xác nhận điều này. Tuy nhiên khi được hỏi về phương pháp kiểm tra duyệt giáo án thì cũng không khác gì ký duyệt giáo án các bài khác, các môn khác nghĩa là mang nặng hình thức, chủ yếu kiểm tra việc giáo viên có soạn giáo án. Vì vậy giáo án các bài dạy GDGT cũng chưa được đầu tư đúng mức, chuẩn bị chu đáo về ĐDDH, tài liệu, tổ chức hoạt động để học sinh thật sự hứng thú với bài học. Khi lên lớp, BGH dự giờ chưa chú ý đến đặc trưng riêng của những bài dạy có nội dung GDGT. Giáo viên có kế hoạch giảng dạy, sổ báo giảng, có thực hiện đúng thời khóa biểu, ghi tên bài dạy vào sổ đầu bài (50% CB-GV nhận xét có thực hiện). Ban giám hiệu có dự giờ các tiết dạy có nội dung GDGT nhưng chỉ dự theo chương trình kiểm tra hàng năm (52.3% CB-GV nhận xét có thực hiện). Công tác rút kinh nghiệm về nội dung và phương pháp giảng dạy có thực hiện (34.1 % nhận xét có), nhưng chưa sâu, chưa chú ý nhắc nhở giáo viên về thái độ truyền thụ một vấn đề khoa học có tính “nhạy cảm”, giờ học chưa tự nhiên, chưa kết hợp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh.

2.2.2.3. Quản lý công tác bồi dưỡng giáo viên Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục giới tính tại trường THCS.

Công tác bồi dưỡng giáo viên trong GDGT luôn luôn là một vấn đề cần được quan tâm hàng đầu. Sự bồi dưỡng không chỉ mang tính chất cung cấp kiến thức mà còn phải đào tạo kỹ năng nói chuyện, kỹ năng nắm bắt tâm lý và tiến hành đào tạo lại định kỳ. Để đánh giá vấn đề này, nhóm nghiên cứu tổ chức khảo sát việc tập huấn trên đối tượng giáo viên lớp 8,9.

Bảng 2.8. Khảo sát về việc tổ chức cho giáo viên tham gia tập huấn về vấn đề GDGT

Tỉ lệ giáo viên chọn đôi khi (không định kỳ) tổ chức tập huấn nhiều nhất (61.9%) cách tập huấn là thông qua đội ngũ giáo viên cốt cán (nhóm trưởng nhóm Sinh, CD) của mỗi trường, sau đó thì các giáo viên này về triển khai lại trong đội ngũ giáo viên phụ trách bộ môn của trường mình. Đối với giáo viên cốt cán, 14.3% cho rằng 1 năm có tập huấn 1 lần, hai năm 1 lần là 9.5%.

Như vậy công tác tập huấn này tuy không tổ chức thường xuyên song các cấp quản lý giáo dục thể hiện có quan tâm có hướng dẫn và cập nhật cho giáo viên kiến thức. Trong tình hình bùng nổ thông tin như hiện nay, cách thức và thời gian tập huấn như trên có thể chấp nhận được, điều quan trọng là giáo viên nhận thức được sự cần thiết của vấn đề, của nhiệm vụ GDGT để giảng dạy đủ cho học sinh các bài mà chương trình có đề cập đến.

2.2.3. Thực trạng quản lý công tác tổ chức giáo dục giới tính Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục giới tính tại trường THCS.

2.2.3.1. Quản lý công tác tổ chức các hoạt động chính khóa

Giáo dục giới tính có thể được tiến hành dưới nhiều hình thức khác nhau, như có thể thông qua các bài giảng trên lớp, các hoạt động tập thể. Giáo dục giới tính càng tự nhiên thì khả năng đi sâu vào tiềm thức của học sinh và phát huy được hiệu quả càng cao.

Bảng 2.9. Khảo sát giáo viên về các hình thức GDGT trong hoạt động chính khóa

Có 97.7% CBQL-GV có ý kiến rằng các trường đã tổ chức GDGT lồng ghép vào môn GDCD và Sinh, xây dựng môi trường sư phạm lành mạnh. Qua phỏng vấn trao đổi với một số giáo viên về các hình thức sinh hoạt dưới cờ (63.6% cho rằng có thực hiện), các giáo viên nhận định các trường thường kết hợp với nhắc nhở nề nếp kỷ luật với những chuyên đề do học sinh sắm vai để lưu ý học sinh nam cư xử đẹp với học sinh nữ, giữ gìn đạo đức tác phong, chăm lo học tập.

Biểu đồ 2.6. Các hình thức GDGT trong hoạt động chính khóa

Hoạt động ngoài giờ lên lớp (47.7%) tiến hành có sự chỉ đạo từ Sở GD, Phòng GD nhưng chủ yếu tập trung giáo dục đạo đức, tác phong. Riêng đối với GVCN, 50% CBQL-GV cho rằng có thực hiện trong tiết sinh hoạt chủ nhiệm, tuy nhiên không có tài liệu nào hướng dẫn, phần lớn giáo viên dựa vào kinh nghiệm sống để giáo dục các em, điều này hoàn toàn tự phát, chủ yếu dùng lời lẽ khuyên răn, phối hợp cùng PHHS ngăn cản học sinh, không cho học sinh “yêu” mà lơi lỏng việc học. Một số giáo viên khối 7, 8, 9 đánh giá hoạt động GDGT trong giờ sinh hoạt chủ nhiệm của họ phát sinh do nhận thấy một số học sinh nam, nữ của mình bước vào tình yêu quá sớm, có những cử chỉ đôi khi thiếu văn hóa đối với bạn khác giới mà nếu không có sự chấn chỉnh kịp thời có thể dẫn học sinh đến những sai lầm lớn hơn.Như vậy đội ngũ giáo viên chủ nhiệm đã có quan tâm và chăm lo giáo dục, hướng dẫn, giúp đỡ để các em phát triển đúng hướng. Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục giới tính tại trường THCS.

2.2.3.2. Quản lý công tác tổ chức các hoạt động ngoại khóa

Các trường đều có thực hiện các hoạt động ngoại khóa về GDGT tuy chưa thường xuyên và đạt hiệu quả. Cả giáo viên và học sinh đều nhận xét các trường có các hoạt động do bác sĩ, chuyên gia tư vấn tâm lý tư vấn về tình bạn, tình yêu, tình dục, tuổi dậy thì, tư vấn về sức khỏe sinh sản. Bảng 2.10. Khảo sát các hoạt động ngoại khóa về GDGT đã được tổ chức ở trường

Chú thích: α ≤ 0.05 : Sự khác biệt có ý nghĩa > 0.05 : Sự khác biệt không có ý nghĩa

So sánh sự nhận xét của giáo viên và học sinh về việc tổ chức các họat động ngoại khóa ta thấy sự khác biệt có ý nghĩa ở họat động “Tổ chức các chuyên đề với đối tượng nam riêng, nữ riêng” (Sig = 0.031), và “thầy cô giáo trò chuyện và giải đáp thắc mắc về tình bạn, tình yêu, tình dục, tuổi dậy thì” (Sig = 0.048). Có thể giáo viên là những người cho số liệu đáng tin cậy vì họ là một trong các chủ thể tiến hành giáo dục giới tính, việc nắm bắt thông tin, tổng hợp những công tác đã tiến hành sẽ hợp lý và chính xác hơn. Mặt khác, nếu trường hợp này xảy ra, có thể nhận định học sinh chưa có sự quan tâm về vấn đề này, hoặc công tác giáo dục giới tính không để lại ấn tượng gì cho các em.

Biểu đồ 2.7. Tỉ lệ phần trăm các hoạt động ngoại khóa về GDGT đã được tổ chức ở trường

Đối với hoạt động “thầy cô giáo trò chuyện và giải đáp thắc mắc về tình bạn, tình yêu, tình dục, tuổi dậy thì”, kết quả cho thấy 72.7% nhận xét có trong khi ở học sinh là 40% đồng tình là giáo viên có thực hiện việc này. Nội dung tư vấn, giải đáp của giáo viên còn chung chung, giáo điều, chưa thật sự gần gũi đáp ứng các yêu cầu hiểu biết của học sinh. Có sự khác biệt giữa nội dung tư vấn của bác sĩ và chuyên gia tư vấn tâm lý với nội dung tư vấn của thầy cô giáo bởi vì khi gặp bác sĩ, chuyên gia tâm lý, học sinh được trình bày những vấn đề đang quan tâm và một điều các chuyên gia truyền lại để nhà trường tiếp tục giải đáp cho học sinh hiện nay là mối quan tâm về “giới tính thứ ba”. Đây cũng là một vấn đề của xã hội hiện đại mà xã hội cần quan tâm giải quyết. Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục giới tính tại trường THCS.

2.2.3.3. Quản lý việc tổ chức hoạt động của phòng tư vấn học đường

Qua phỏng vấn CB-GV và khảo sát thực tế cơ sở vật chất của 6 trường THCS trong Quận 4 thì chưa có trường nào có phòng tư vấn học đường vì vậy mà không có chuyên gia tâm lý tại trường thường xuyên. Trường THCS Khánh Hội A có một thời gian ngắn bước đầu giải quyết tình hình học sinh cá biệt bằng cách mời chuyên gia tâm lý mỗi tuần đến với trường vài buổi để tư vấn cho học sinh nhưng chủ yếu để tư vấn về hoàn cảnh gia đình, giải quyết các khó khăn về tinh thần của học sinh, không đi sâu vào vấn đề tình yêu, tuổi dậy thì. Công tác này chỉ thực hiện được một thời gian ngắn rồi ngưng vì không có kinh phí.

2.2.4. Thực trạng quản lý cơ sở vật chất phục vụ công tác GDGT

Ngoài phòng tư vấn học đường, còn có nhiều hạng mục cơ sở vật chất khác cần được trang bị để phục vụ tốt công tác GDGT trong học sinh THCS. Có thể kể đến các sách, vở tài liệu, tivi, các phương tiện multimedia, tranh ảnh, phòng ốc v.v… Kết quả khảo sát trên 44 giáo viên được trình bày trong bảng 2.11.

Bảng 2.11. Khảo sát cơ sở vật chất hiện có của các trường phục vụ công tác GDGT

Qua quan sát thực tế trang thiết bị ĐDDH, tất cà các trường đều có trang bị ti vi, đầu máy, máy tính, máy chiếu. Đây là các trang thiết bị phục vụ việc dạy học các môn nói chung chứ không phục vụ riêng cho công tác GDGT. Các trang thiết bị khác, các trường có trang bị nhưng chưa đầy đủ. Sách, tài liệu được 79.5% giáo viên trả lời có, băng đĩa phục vụ GDGT chỉ có 34.1%, tranh ảnh trực quan 45.5 %, phòng học phù hợp 29.5%.

Biểu đồ 2.8. Phần trăm cơ sở vật chất hiện có của các trường phục vụ công tác GDGT

Các ý kiến nêu ra là có cơ sở vì khi xem xét thư mục sách, tài liệu tại thư viện phục vụ công tác GDGT số đầu sách rất ít, số tựa sách đơn điệu, không đủ cho giáo viên tham khảo và thu hút học sinh tìm đọc, băng đĩa chỉ có vài băng đĩa nội dung phòng chống HIV/AIDS, tranh ảnh trực quan nghèo nàn, vài tranh ĐDDH phục vụ môn Sinh học (các bài GDGT). Còn phòng học thì không có sự khác nhau giữa các trường: không có phòng học phù hợp cho công tác GDGT hầu như chỉ có phấn trắng, bảng đen. Việc sử dụng ti vi, đầu máy, máy chiếu, rất hạn chế, có phục vụ được cho các môn học, ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học nhưng chưa nhiều, chưa có bài dạy nào về nội dung GDGT sử

Có thể thấy được đối tượng khảo sát tập trung lựa chọn “không đầy đủ” cho gần như tất cả các loại tài liệu. Đây là một minh chứng rõ ràng và định lượng cho sự đầu tư chưa đúng mức và chưa phù hợp với nhu cầu về trang bị tài liệu phục vụ giảng dạy GDGT trong nhà trường THCS. Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục giới tính tại trường THCS.

Biểu đồ 2.9. Phần trăm thống kê tình hình tài liệu giảng dạy GDGT

Về SGK, có 43.2% CB-GV nhận xét đủ, 56.8 % nhận xét chưa đầy đủ. Tìm hiểu ở CB-GV, các đối tượng khảo sát cho rằng học sinh có trang bị đủ sách giáo khoa tuy nhiên học sinh khi đi học ít đem đủ sách gây khó khăn cho việc giảng dạy. Tài liệu phục vụ GDGT (84.1%), giáo trình (81.8%) và tranh ảnh (81.8%) giáo viên nhận xét chưa đầy đủ. Cụ thể chỉ có một số loại tài liệu giáo trình giảng dạy phòng chống AIDS nằm trong chương trình dự án phòng chống HIV- AIDS có từ những năm 1995 đến năm 2001, hầu như không có một tài liệu nào nhằm giúp học sinh tìm hiểu về tình yêu, giáo dục kỹ năng sống về ứng xử trong tình yêu tình bạn. Tuy mỗi năm các trường có dành kinh phí mua sách bổ sung cho thư viện nhưng hầu như không bổ sung thêm tài liệu nào về GDGT để giáo viên tự cập nhật, bồi dưỡng chuyên môn. Điều này thể hiện sự thiếu quan tâm của giáo viên bộ môn Sinh, Công dân, không đầu tư sâu cho giáo án, còn BGH các trường hầu như thả nổi công tác GDGT, không tạo điều kiện không đầu tư về cơ sở vật chất, không kiểm tra thường xuyên, nâng chất lượng GDGT, giáo dục toàn diện cho học sinh. Tất cả hầu như chỉ chú trọng “dạy chữ” dạy cho hết chương trình, chưa chú trọng “dạy người”, giúp học sinh hoàn thiện nhân cách. Đây là hạn chế lớn các trường đều vấp phải mà nguyên nhân căn bản nhất là do thiếu kinh phí thường xuyên dành cho công tác này.

2.2.5. Thực trạng quản lý việc phối hợp với PHHS trong công tác giáo dục giới tính

2.2.5.1. Tư vấn cho PHHS về nội dung GDGT và thường xuyên trao đổi với con em về các vấn đề giới tính

Để thực hiện tốt công tác giáo dục nói chung, công tác giáo dục giới tính nói riêng, nhà trường cần phải phối hợp với gia đình, tư vấn cho phụ huynh những vấn đề cần thiết để phụ huynh cùng với nhà trường giáo dục, hòan thiện nhân cách cho học sinh. Nhằm tìm hiểu các trường đã tư vấn cho phụ huynh về các vấn đề giới tính để từ đó phụ huynh trao đổi, giáo dục con em, người nghiên cứu tiến hành khảo sát trong phụ huynh. Kết quả khảo sát được trình bày trong bảng 2.13.

Bảng 2.13. Khảo sát sự tư vấn của nhà trường và sự trao đổi của phụ huynh học sinh về việc GDGT cho học sinh.

Có đến 79.8% phụ huynh nhận xét “không có” và “đôi khi có” được nhà trường tư vấn, như vậy nhà trường đã bỏ ngỏ một kênh thông tin quan trọng để phối hợp GDGT dù đã nhận thức được trách nhiệm GDGT rất to lớn của cha mẹ. Bằng phương pháp tính điểm trung bình, với cách cho điểm “ Rất thường xuyên”:3; “Thường xuyên ”:2; “Đôi khi”:1; “Không có”: 0, chúng tôi có kết quả điểm trung bình nhà trường tư vấn chỉ đạt 0.89 tức là chỉ đạt ở mức “ đôi khi”, điều này phù hợp với kết quả phỏng vấn phụ huynh. Phụ huynh cho rằng một năm các trường đều họp PHHS 3 lần, đầu năm, cuối học kỳ I, cuối năm. Chủ yếu các lần họp thông báo kế họach tổ chức dạy học, thông báo kết quả học tập của học sinh. Các vấn đề về giới tính chỉ trao đổi, tư vấn với các phụ huynh mà con em họ “ có vấn đề”, không chăm lo học tập hoặc có biểu hiện yêu đương . Qua khảo sát ta thấy số phụ huynh có quan tâm trao đổi với con em các vấn đề giới tính “rất thường xuyên” có 6.1%, “thường xuyên” có 32.8% ; 55.6% “đôi khi” trao đổi với con về vấn đề này và 5.1% không nói chuyện, giáo dục con về quan hệ nam nữ, tình yêu, tình dục. Tính điểm trung bình như ở nội dung trên thì ở nội dung “phụ huynh trao đổi với con em các vấn đề giới tính” đạt 1.41 điểm ở mức “thường xuyên”. Đáng mừng là vẫn có một số phụ huynh đã bắt đầu quan tâm đến vấn đề giáo dục giới tính cho con em.

Biểu đồ 2.10. Phần trăm thống kê sự tư vấn của nhà trường và sự trao đổi của phụ huynh học sinh về việc GDGT cho học sinh Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục giới tính tại trường THCS.

Qua phỏng vấn để tìm hiểu phụ huynh trao đổi với con về những vấn đề gì thì những người mẹ thường hướng dẫn con gái giữ gìn sức khỏe, giữ vệ sinh cá nhân trong những ngày kinh nguyệt, chọn quần áo sao cho phù hợp thời trang, phù hợp lứa tuổi và đẹp. Những người mẹ biết chăm chút cho con gái khi các em đến giai đoạn dậy thì. Đối với những người mẹ có con trai, họ thường nói chuyện với con về những người bạn của con, giúp con chọn những môn thể thao phù hợp để phát triển cơ thể . Đối với một số em nam lớp 8, lớp 9 khi biết con có tình yêu, những người mẹ còn khuyên răn con chăm lo học tập, không đi quá giới hạn của tình yêu trong sáng. Những người bố gần như trở thành người bạn của con trai, người mẹ như người bạn lớn của con gái. Khi được thương yêu và hướng dẫn, chăm chút như thế, các em dần phát triển theo một đường hướng tốt. Tuy nhiên số phụ huynh có trình độ và phương pháp GDGT cho con như trên chỉ đạt ở mức 38.4% trong tổng số phụ huynh được hỏi ý kiến. Gần đây trên các phương tiện thông tin đại chúng xuất hiện dư luận về tình trạng “bạo lực học đường”, các trường Quận 4 khi đi vào tìm hiểu nguyên nhân, một số trường hợp do các xích mích nhỏ nhặt, đôi khi vì các em nữ cùng thích một em nam, hoặc hai em nam cùng thích một em nữ, đồng thời do không có ai hướng dẫn, giúp đỡ tư vấn để các em chọn được cách giải quyết thích hợp, các em đã chọn giải pháp “thượng cẳng chân, hạ cẳng tay” để giải quyết xung đột. Đây cũng là tiếng chuông cảnh báo chung cho các nhà quản lý giáo dục, các thầy cô giáo, các bậc PHHS cần quan tâm tìm biện pháp thích hợp để giáo dục học sinh, cần gần gũi, trao đổi với các em nhiều hơn để kịp thời uốn nắn khi các em có suy nghĩ và hành động sai lệch.

2.2.5.2. Nâng cao nhận thức cho PHHS quan tâm đến tuổi dậy thì và GDGT cho học sinh

Với những vấn đề xoay quanh phụ huynh học sinh như đã phân tích, mọi ý thức GDGT của đối tượng này đối với con em mình đều xuất phát từ mối quan tâm và nhận thức thật sự của họ. Trong trường hợp một số lượng lớn PHHS không quan tâm đến công tác GDGT, thì dù nhà trường có quyết tâm đến bao nhiêu cũng khó thể mang lại hiệu quả trong công tác này.

Bảng 2.14. Khảo sát về sự quan tâm của PHHS về tuổi dậy thì và việc GDGT cho con em

Như vậy có 54.5% phụ huynh rất quan tâm, 35.8 % quan tâm, tổng cộng có đa số phụ huynh (99.3%) nhận thấy cần thiết phải giáo dục cho con em các vấn đề giới tính tuy vẫn có một bộ phận nhỏ 8.6% cho là bình thường thậm chí 1.1% không quan tâm.

Biểu đồ 2.11. Phần trăm khảo sát về sự quan tâm của PHHS về tuổi dậy thì và việc GDGT cho con em

Phân tích biểu đồ còn cho thấy rõ sự tương đương trong lựa chọn của cả vấn đề “tuổi dậy thì” và vấn đề “giáo dục giới tính”. Điều này có nghĩa là các bậc phụ huynh xem đây là 2 khái niệm gắn liền với nhau, và nhất thiết phải được quan tâm như nhau, có những biện pháp giáo dục và chăm sóc đồng thời, không thiên về vấn đề nào. Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục giới tính tại trường THCS.

Qua phỏng vấn số ít phụ huynh không quan tâm đến vấn đề này, họ cho rằng “trăng đến rằm thì trăng tròn”, các em khi lớn đến một độ tuổi nhất định, tự các em sẽ hiểu không cần gì phải giải thích, dạy dỗ vì đây là vấn đề “nhạy cảm” khó nói. Phần đông phụ huynh (90,3%) đều có thái độ quan tâm đến việc GDGT nhưng điều mà PH còn lưu ý thêm: sẽ nói với các em điều gì? Nói như thế nào? Một số phụ huynh mong muốn nhà trường giáo dục cho học sinh hiểu để không sa vào con đường sai lầm trong tình yêu. Đối với một bộ phận phụ huynh trình độ thấp, là lao động nghèo thì vấn đề GDGT là điều quá xa lạ vì họ bận lo sinh kế, không có thời gian gần gũi con em, họ phó mặc cho nhà trường trong mọi họat động giáo dục .

2.2.5.3. Cung cấp kiến thức GDGT cho PHHS

Khi được hỏi những kiến thức về giáo dục giới tính của PHHS có từ đâu, chủ yếu các PHHS trả lời nằm ở bản thân, sách báo tài liệu, ngoài ra còn có nhiều phương tiện thông tin đại chúng khác như tivi, báo đài, bạn bè và nhà trường.

Bảng 2.15. Khảo sát nguồn cung cấp kiến thức GDGT cho PHHS

Đa số phụ huynh chỉ dựa vào kinh nghiệm bản thân để giáo dục con mình (72.2%). Nguồn kiến thức phổ biến nhất là sách báo, tài liệu thì 67.7% phụ huynh có tiếp cận, 49% nghe, xem đài, 18.7% tìm hiểu thông qua bạn bè đồng nghiệp. Nhà trường rất ít có dịp tư vấn cho phụ huynh về nội dung và phương pháp giáo dục (1.1%), một vài phụ huynh cho rằng họ chỉ nghe con mình nói về việc nhà trường có cho học sinh nghe các chuyên đề GDGT, chưa lần nào được nhà trường tổ chức những buổi hội thảo, báo cáo chuyên đề tư vấn cung cấp kiến thức GDGT cho PHHS. Điều này phù hợp với kết quả khảo sát về sự tư vấn của nhà trường với PHHS ở bảng 2.13 vì có đến 40.4% phụ huynh cho rằng không được trường tư vấn về phương pháp giáo dục các em khi bước vào tuổi dậy thì.

Biểu đồ 2.12. Phần trăm nguồn cung cấp kiến thức GDGT cho PHHS

Tương ứng với những sự chuẩn bị đó, phụ huynh có những thái độ và sự đáp ứng khác nhau khi được con cái hỏi về các vấn đề nhạy cảm này. Để đánh giá thực tế diễn ra, nhóm nghiên cứu khảo sát sự đáp ứng của PHHS, kết quả khảo sát được trình bày trong bảng.

Bảng 2.16. Khảo sát thái độ của PHHS khi con em có thắc mắc về giới tính

Biểu đồ 2.13. Phần trăm thái độ của PHHS khi con em có thắc mắc về giới tính

Có 1.1% phụ huynh không giải thích; 15.6 % né tránh, 47.5% giải thích qua loa, chỉ có 35.8 % phụ huynh có thái độ tích cực là sẵn sàng giải thích cho con em. Mỗi khi biết con em yêu đương sớm, thái độ thường thấy của PH đối với con cái là rầy la, đánh đập, tìm mọi cách ngăn cấm. Chính vì công tác tư vấn cho PHHS chưa tốt mà thái độ của phụ huynh chưa tích cực trong GDGT cho các em.

2.2.6. Thực trạng về nhận thức của phụ huynh và giáo viên, hiểu biết của học sinh về công tác GDGT Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục giới tính tại trường THCS.

2.2.6.1. Nhận thức của PH và giáo viên về sự cần thiết của công tác giáo dục giới tính

Kết quả khảo sát nhận thức của phụ huynh và giáo viên về sự cần thiết của công tác GDGT được trình bày tại bảng 2.17 cho thấy: cả phụ huynh và giáo viên đều đã có nhận thức khá tích cực và tiến bộ, đối tượng khảo sát đã thấy được sự cần thiết của công tác GDGT trong tình hình hiện nay. Bảng 2.17. Khảo sát nhận thức của PHHS và giáo viên về sự cần thiết GDGT cho học sinh THCS.

Có 40.9% phụ huynh và 68.2% CBQL, giáo viên nhận thức rằng công tác này hiện nay là “rất cần thiết”; 54.1% phụ huynh và 27.3% giáo viên cho rằng “cần thiết”.

Theo đối tượng khảo sát, qua quá trình phỏng vấn phụ huynh ủng hộ việc tiến hành GDGT cho học sinh THCS vì “Nếu chúng ta không cung cấp cho các em kiến thức thì sẽ có 2 trường hợp xảy ra. Một là tự tìm hiểu đúng thì tốt mà nếu tự tìm hiểu sai sẽ gây ra hậu quả là có những thái độ và hành vi không chuẩn. Nếu chúng ta có GDGT trong trường hoặc là tích hợp giáo dục, chúng ta sẽ cung cấp cho các em kiến thức chuẩn, các em sẽ không đi lệch nữa”…

Biểu đồ 2.14. Nhận thức của PHHS và giáo viên về sự cần thiết GDGT cho học sinh THCS

Theo biểu đồ cho thấy ở đối tượng khảo sát là giáo viên, tỉ lệ người được hỏi cho việc GDGT là rất cần thiết chiếm 68.2%, tức hơn 2/3 nhóm dân số khảo sát này. Sự đồng thuận cao có thể được giải thích là do giáo viên hiểu được môi trường sinh hoạt của thanh thiếu niên, môi trường làm việc gần gũi với các hoạt động xã hội của các em, thấy được các trạng thái bộc lộ cảm xúc cũng như nắm bắt được đầy đủ các mặt về tâm lý học sinh. Và trước những thực tế như vậy, đa số giáo viên cho rằng việc GDGT là không thể thiếu.

Trong khi đó, trên phương diện ngược lại, chỉ 40.9% số phụ huynh được hỏi cho rằng “rất cần thiết” (chưa đến ½ nhóm dân số này). Điều này cho thấy nhóm đối tượng chỉ gần như nhận thức hoàn toàn dựa trên các nguyên tắc về lý thuyết, “sự rất cần thiết” không xuất phát từ nhận định thực tế, có thể do không được chứng kiến những thay đổi tâm sinh lý và sự tương tác giữa các em học sinh khác giới. Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục giới tính tại trường THCS.

2.2.6.2. Nhận thức của PH, giáo viên về trách nhiệm GDGT cho học sinh

Phụ huynh và thầy cô giáo đều quan niệm rằng trong tình hình hiện nay, người gần gũi, quan tâm và có trách nhiệm cao nhất trong GDGT cho học sinh chính là cha mẹ (PH: 60.5%; GV: 59.1%), kế đến là trách nhiệm của nhà trường (PH: 58.5%; GV: 56.8%), cuối cùng là trách nhiệm của học sinh (81.5% PH và 95.6% GV quan niệm về điều này).

Bảng 2.18. Khảo sát nhận thức của PH, GV về trách nhiệm GDGT cho học sinh

Kết quả này phù hợp với nội dung sự quan sát khi xem xét các cách phối hợp giáo dục hiện nay các trường đang thực hiện. Trường hợp phát hiện các học sinh có biểu hiện yêu đương sớm, các thầy cô giáo thường mời PHHS vào trường trao đổi và nhắc nhở phụ huynh giáo dục con em, thầy cô giáo chỉ dừng ở mức độ khuyên răn, giáo dục còn cha mẹ phải có trách nhiệm nhiều hơn, kỹ lưỡng hơn trong các biện pháp tìm hiểu tâm tư tình cảm của con em để giúp con em có được tình cảm trong sáng, lành mạnh. Quan điểm này sẽ không có lợi cho học sinh khi các em có thắc mắc không biết hỏi ai, cha mẹ và thầy cô đều có thể làm các em ngại ngùng, lo sợ, các em phải tự tìm hiểu qua bạn bè, các phương tiện thông tin không chính thống. Qua phỏng vấn, một bộ phận nhỏ giáo viên xác định trách nhiệm là học sinh tự tìm hiểu (2,2%), vì hiện nay trên internet, trên sách báo không thiếu những thông tin này, có điều học sinh sẽ không biết lựa chọn thông tin sao cho phù hợp với lứa tuổi nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng sống mà e rằng sẽ làm cho các em thêm tò mò, không có lợi cho sự phát triển.

Để có thể lượng hóa nhận thức của giáo viên và phụ huynh học sinh về trách nhiệm GDGT trong học đường, người nghiên cứu tiến hành thống kê theo nguyên tắc bình chọn bằng cách chia điểm. Theo đó, mỗi sự lựa chọn đánh giá mức độ quan trọng sẽ tương ứng với một điểm số xác định, sau đó, tỉnh tỉ lệ số điểm đạt được của từng hạng mục chia cho số điểm tổng cộng.

Cụ thể nguyên tắc chia điểm: Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục giới tính tại trường THCS.

Kết quả phân tích được tổng kết trong bảng 2.19 có thể thấy trách nhiệm của công tác GDGT được nhận định như nhau trên cả 2 nhóm đối tượng khảo sát. Theo đó vai trò quan trọng nhất trong công tác GDGT được đặt lên các bậc cha mẹ với lần lượt 42.25% phụ huynh và 43.18% giáo viên lựa chọn. Tiếp theo là vai trò của nhà trường, của thầy cô.

Bảng 2.19. Lượng hóa nhận thức của giáo viên và phụ huynh học sinh về trách nhiệm GDGT trong

Biểu đồ 2.15. Tỉ lệ phần trăm nhận thức của giáo viên và phụ huynh học sinh về trách nhiệm GDGT trong học đường

Điều này cho thấy sự phù hợp với thực tế đang diễn ra. Việc giáo dục giới tính được cho rằng có thể tiến hành một cách thuận tiện và dễ dàng qua sự nói chuyện trao đổi, tâm sự giữa cha mẹ và con cái trong gia đình. Hơn thế nữa, thực tế cho thấy việc trao đổi những vấn đề về giới tính giữa thầy cô và học sinh trong nhà trường còn gặp nhiều trở ngại về mặt xã hội, do vậy sự lựa chọn gia đình là nơi chủ yếu để giáo dục và có trách nhiệm giáo dục là một sự lựa chọn hợp lý.

2.2.6.3. Nhận thức của học sinh về một số vấn đề của giới tính và giáo dục giới tính

Trong 200 học sinh được hỏi về sự hiểu biết về tuổi dậy thì, có 197 em trả lời “có biết” chiếm tỉ lệ 98.5% và 3 em trả lời “không biết” chiếm tỉ lệ 1.5%. Như vậy cơ bản học sinh đã nhận thức được đặc điểm về lứa tuổi của mình, tuy vẫn còn em trả lời ngây thơ rằng “tuổi dậy thì là cái gì?”, “em không quan tâm nên không tìm hiểu”.

Bên cạnh đó, để làm rõ sự hiểu biết của các em học sinh về những vấn đề có liên quan đến giới tính đồng thời cũng là đề tài thường xuyên được nhắc đến trên các phương tiện thông tin đại chúng, chúng tôi tiến hành khảo sát sự hiểu biết của các em về khái niệm giới tính và nguồn lây nhiễm HIV/AIDS. Kết quả khảo sát được liệt kê trong bảng 2.20. Bảng 2.20. Khảo sát học sinh có biết về khái niệm giới tính.

Có 5% xác định giới tính là giống đực và giống cái, 21% xác định giới tính là “con trai – con gái”, 28% xác định giới tính là “các đặc điểm khác nhau về sinh lý cơ thể”, chỉ có 46 % nhận thức khá đầy đủ về giới tính là “những đặc điểm khác nhau về tâm sinh lý nam nữ”. Học sinh còn mù mờ chưa hiểu rõ khái niệm “giới tính” vì thực sự các em chưa được trang bị kiến thức, các bài học có nội dung GDGT thuộc môn GDCD, Sinh, các em chưa được học về giới tính. Khái niệm này do học sinh tự suy luận từ những điều mà các em hiểu nên chỉ có 46% nhận thức đúng. Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục giới tính tại trường THCS.

Biểu đồ 2.16. Phần trăm học sinh có biết về khái niệm giới tính

Một điều đáng ngạc nhiên là còn một số lượng học sinh hiểu biết khái niệm về giới tính là sự phân biệt “giống đực và giống cái” chiếm 5% đối tượng khảo sát. Trong khi những nội dung còn lại có tỉ lệ khá cao. Điều này đã phản ánh một thực tế về sự mơ hồ trong giới thiếu niên, trên cơ sở đó, các nhà chức trách có thể nắm bắt và đề ra các phương hướng tuyên truyền giáo dục, thay đổi chương trình giàng dạy sao cho phù hợp với kiến thức của từng lứa tuổi, đồng thời cung cấp cho các em các hiểu biết hữu ích để áp dụng vào thực tế cuộc sống.

Về vấn đề nhiễm HIV/AIDS, nhóm nghiên cứu thiết kế các câu hỏi xoay quanh việc lây nhiễm trong cộng đồng, các nội dung đã được truyền tải rất nhiều trên mọi phương tiện thông tin đại chúng. Bảng 2.21. Thống kê hiểu biết của học sinh về nguồn lây nhiễm HIV/AIDS

Học sinh xác định nguồn lây nhiễm HIV/AIDS ở 3 nguồn là truyền máu (87.5%), quan hệ tình dục (96.5%), tiêm chích ma túy (85.5%), 1% xác định “nói chuyện, bắt tay với người nhiễm AIDS” cũng là nguồn lây nhiễm. Kết quả cho thấy hầu hết các em đều có những hiểu biết đúng đắn về vấn đề này. Đây dẫu sao cũng là một tín hiệu đáng mừng, cho thấy hiệu quả của công tác tuyên truyền kiến thức về đại dịch của cả nhân loại, qua đó các em sẽ tự xác định cho mình ý thức phòng chống .

2.2.6.4. Ý kiến của GV về thời điểm GDGT cho học sinh THCS

Bảng 2.22. Khảo sát ý kiến của giáo viên về thời điểm GDGT cho học sinh THCS

Có 61.4% CB-GV cho rằng nên bắt đầu từ khối lớp 6; 15.9% cho rằng nên bắt đầu từ khối 7 hay khối lớp 8 và 6.8% đồng ý nên bắt đầu từ khối 9.

Biểu đồ 2.17. Phần trăm ý kiến của giáo viên về thời điểm GDGT cho học sinh THCS

Qua phỏng vấn một số giáo viên, chúng tôi được biết nếu trước đây học sinh lớp 8, 9 mới bắt đầu dậy thì thì hiện nay chế độ dinh dưỡng tốt hơn, học sinh phát triển sớm hơn, từ lớp 6 một số học sinh nữ đã bước vào tuổi dậy thì. Nhà trường cần quan tâm GDGT sớm đến học sinh khối 6, 7 để các em có ý thức sớm hơn về bản thân mình, tự bảo vệ mình khi cần thiết.Đồng thời trong tình hình xã hội phát triển nhanh như hiện nay, tâm lý học sinh cũng có những diễn biến phức tạp, ngòai sự giáo dục của nhà trường, các em còn bị tác động bởi nhiều phía: bạn bè, xã hội, môi trường sống, internet…lứa tuổi các em lại đang tò mò, thích tìm hiểu những điều mới lạ …Việc GDGT bắt đầu từ khối 6 hòan tòan hợp lý .

2.2.6.5. Ý kiến của giáo viên về sự cần thiết có một môn học GDGT và thành lập phòng tư vấn học đường

Vấn đề này hiện đang là một trong những trọng tâm cần được cân nhắc trong vấn đề GDGT cho học sinh. Cần tìm hiểu liệu có cần tách riêng thành một môn học trong chương trình? Hoặc có thể bố trí thành một môn học ngoại khóa có tính chất bắt buộc? Kết quả thăm dò từ các giáo viên được trình bày trong bảng 2.23

Bảng 2.23. Khảo sát ý kiến của giáo viên về sự cần thiết đưa GDGT thành một môn học chính khóa và thành lập phòng tư vấn học đường Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục giới tính tại trường THCS.

Về mức độ “rất cần thiết” có 43.2% đồng ý đưa GDGT thành 1 môn học và 50% nhận thấy phải thành lập phòng tư vấn học đường. Thêm vào đó ở mức độ “cần thiết” đến 43.5% đồng ý với nội dung và 43.2% đồng ý với nội dung 2. Tuy nhiên cần phải cân nhắc thật kỹ lưỡng giữa các ý kiến với quản lý vĩ mô nền giáo dục

Một thách thức rất lớn nếu thành lập môn học riêng biệt cho nội dung này là ai sẽ là giáo viên giảng dạy chính thức môn GDGT trong học đường? và những đối tượng thầy cô này sẽ được đào tạo ra sao? Ai đào tạo giáo viên? Chính vì vậy, đây không đơn thuần là việc thành lập một môn học mới mà nó còn là sự điều tiết có tính chất vĩ mô nền giáo dục nước nhà. Do vậy, kết quả khảo sát đối với hạng mục này mang tính tập hợp ý kiến từ những người đang trực tiếp làm công tác GDGT hiện nay.

2.2.6.6. Ý kiến của giáo viên về các hình thức tư vấn cho học sinh Bảng 2.24. Khảo sát ý kiến của giáo viên về các hình thức tư vấn cho học sinh.

Đa số giáo viên (90.9%) tán thành hình thức tư vấn là mời báo cáo viên sinh hoạt chuyên đề, tư vấn tại trường, tiếp dến là thông qua phụ huynh (54.5%), thông qua báo đài, tivi, tờ rơi (43.2%), số giáo viên chọn hình thức tư vấn qua mạng internet (27.3%) và tại các trung tâm tư vấn còn thấp (31.8%). Lý do có thể nằm ở việc tư vấn qua mạng internet là một hình thức khó kiểm soát và khó đạt hiệu quả như mong đợi. Các em hoàn toàn có thể tham gia vào các trang web có nội dung không phù hợp với lứa tuổi, bên cạnh đó, người tư vấn qua mạng không được xác định một cách rõ ràng và trong quá trình nói chuyện tìm hiểu thì nhà tư vấn không thể quan sát hành vi và thái độ của các em. Đây là một trong những đặc điểm khiến ta không nên lựa chọn tư vấn qua mạng như là một hình thức phổ biến dành cho đối tượng này.

2.2.6.7. Ý kiến của giáo viên về những khó khăn trong công tác GDGT cho học sinh THCS

Công tác truyền thông GDGT là một lĩnh vực mới với nhiều thử thách. Những cá nhân và tổ chức thực hiện công tác này cần khắc phục và vượt qua những khó khăn nhất định trong quá trình làm nhiệm vụ. Do vậy việc tìm hiểu những khó khăn gặp phải trong tư vấn cho các em là một việc làm cần thiết để góp phần giải quyết tồn đọng, nâng cao chất lượng của chương trình.

Bảng 2.25. Khảo sát về nguyên nhân của những tồn tại, những khó khăn của các trường khi thực hiện giáo dục giới tính

Trong số các khó khăn được nêu ra, chủ yếu là việc kiểm soát các phương tiện truyền thông và thu xếp thời gian hợp lý cho các hoạt động ngoại khóa, cùng với kinh phí hoạt động v.v….ngòai ra tâm lý e dè trong giáo viên khi giảng dạy cũng là một khó khăn vì giáo viên đôi khi còn ngượng ngùng chưa thể tự tin giải thích đầy đủ cho học sinh các vấn đề về giới tính.

2.2.6.8. Đề nghị của giáo viên, phụ huynh và học sinh về công tác GDGT cho học sinh THCS trong tình hình hiện nay

Đề nghị của giáo viên: Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục giới tính tại trường THCS.

  • Thực hiện GDGT theo khối, nam, nữ riêng, có giáo trình phù hợp với lứa tuổi, giới tính trong đó đặc biệt chú trọng giáo dục cho học sinh nữ biết tự bảo vệ mình.
  • Sắp xếp chương trình và thời gian hợp lý, tăng thêm số tiết dạy GDGT. Trang bị tranh ảnh, tài liệu băng đĩa đầy đủ, dành một phòng nghe nhìn phục vụ công tác GDGT. Thường xuyên tổ chức chuyên đề, tư vấn về SKSS vị thành niên cho học sinh, phụ huynh, có thể tổ chức khoảng một lần/ học kỳ.
  • Có giáo viên chuyên trách giảng dạy GDGT hoặc bác sĩ, chuyên gia tâm lý tư vấn về tâm lý để kịp thời giải tỏa những khúc mắc của học sinh về giới tính.
  • Tăng cường hoạt động ngoại khóa, nâng cao trách nhiệm của GVCN trong công tác GDGT.
  • Tăng thêm kinh phí cho giáo dục trong đó có qui định tỉ lệ % kinh phí dành cho GDGT.
  • Phòng GD cần chỉ đạo sâu sát cho các trường về nội dung và hình thức GDGT, tạo điều kiện cho các trường mở phòng tư vấn học đường.
  • Nhà nước cần có biện pháp kiểm tra các chương trình dành cho tuổi teen trên các phương tiện thông tin đại chúng, chú trọng giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, tránh cho học sinh tiêm nhiễm lối sống tự do buông thả của phương Tây. Tăng cường kiểm tra mạng internet ngăn chặn những trang web xấu, nội dung không lành mạnh làm ảnh hưởng tâm hồn tình cảm của trẻ.

Đề nghị của phụ huynh:

  • Phụ huynh đồng tình với việc GDGT cho học sinh nhưng đề nghị cần có giới hạn khi giảng dạy cho học sinh những vấn đề giới tính. Nội dung giáo dục phải thận trọng, chọn lọc, tránh làm cho học sinh ngộ nhận, tò mò, tự tìm hiểu, phải đảm bảo mục đích nhằm giúp học sinh phòng tránh những sai lầm.
  • Đề nghị mở phòng tư vấn cho học sinh, có thể tư vấn trực tiếp hoặc tư vấn qua điện thoại. Tư vấn thường xuyên cho cả học sinh và phụ huynh. Mời chuyên gia tư vấn tâm lý để học sinh có thể thoải mái trình bày những vấn đề các em thắc mắc vì con cái ngại nói với cha mẹ.
  • Đề nghị cung cấp tài liệu GDGT để học sinh hiểu rõ hơn những vấn đề mà bản thân còn thắc mắc, tránh sự tò mò tự tìm hiểu ở những trang web xấu.
  • Tổ chức các chuyên đề GDGT nam riêng, nữ riêng và thầy thì dạy cho nam; cô thì dạy cho nữ, tổ chức các sân chơi lành mạnh, giúp học sinh nhận thức và cảnh giác với hành vi xấu. Giáo dục theo từng mức độ, theo độ tuổi.
  • GDGT phải kết hợp với truyền thống đạo đức của dân tộc và phong tục tập quán phương Đông.
  • Nhà trường nên đưa vào chương trình một môn học với phương pháp giảng dạy phù hợp nhằm giúp học sinh hiểu được vấn đề giới tính một cách trong sáng và lành mạnh.Cần dành thời gian trong tiết sinh hoạt chủ nhiệm hàng tuần để GVCN trò chuyện với học sinh về những vấn đề tâm sinh lý tuổi mới lớn.
  • Một ít phụ huynh lại đề nghị trường GDGT cần hạn chế thời gian để các em lo bài vở và nếu học sinh muốn tìm hiểu chúng sẽ hỏi giáo viên hoặc gia đình. Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục giới tính tại trường THCS.

Qua các nội dung đề nghị trên, nhận thấy bên cạnh sự lo lắng về sự lớn lên của con em, e ngại con em phạm phải sai lầm, phụ huynh muốn học sinh tập trung vào việc học không muốn con bị phân tâm vào những việc khác.

Đề nghị của học sinh:

Đề nghị nhiều nhất của học sinh là “cần có phòng tư vấn học đường” (48.5 %), tiếp đến “tổ chức các buổi nói chuyện, câu lạc bộ…” (46.5%), “có môn học riêng cung cấp kiến thức về giới tính” (44%), “mời chuyên gia tư vấn tâm lý đến nói chuyện với học sinh” (40.5 %), cung cấp tài liệu, sách báo GDGT (35.5%). Ngoài ra có 2.5% có đề nghị khác như khuyến khích học sinh mạnh dạn trình bày, tổ chức sân chơi cho giới trẻ để các em được gặp gỡ, tìm hiểu bạn khác giới một cách trong sáng, lành mạnh. Giảm tải các môn học, mở các trang Web do các chuyên gia tâm lý, bác sĩ về SKSS thường xuyên giải thích, tư vấn cho tuổi học trò để các em chủ động về học tập kiến thức GDGT. Bảng 2.26. Khảo sát những đề nghị của học sinh về công tác GDGT

2.2.7. Thực trạng quản lý việc học các kiến thức về giới tính của học sinh

2.2.7.1. Thái độ của học sinh khi học tập các bài có nội dung GDGT

Bảng 2.27. Khảo sát thái độ của học sinh khi học tập các bài có nội dung GDGT

Với cách cho điểm “Rất thích”: 3; “Thích”: 2; “Không thích lắm”: 1; “Hoàn tòan không thích”:

0, kết quả cho ra điểm trung bình 1.95. Đây là điểm số cho thấy trạng thái tâm lý “thích” học tập, tìm hiểu các nội dung về giới tính. Kết quả khảo sát cho thấy có hơn 75% các em khi được hỏi cho là cảm thấy rất thích và thích các bài giảng có nội dung GDGT (tỉ lệ lần lượt là 21% và 55.5%).

Biểu đồ 2.18. Tỉ lệ phần trăm thái độ của học sinh khi học tập các bài có nội dung GDGT

Đây có thể được cho là tín hiệu lạc quan đáng ghi nhận. Tuy các kết quả khảo sát trước đây cho thấy, công tác GDGT chưa đạt hiệu quả thật sự như mong đợi, kiến thức thầy cô truyền đạt chưa thấm sâu vào tiềm thức các em. Nhưng với một tỉ lệ cao các em thích thú với nội dung bài giảng, có thể thấy rằng các em hình dung những vấn đề đã được dạy là có ích, và tiếp nhận vấn đề một cách tích cực. một số ít các học sinh còn không thích, vấn đề hoàn toàn nằm ở chỗ các em cảm thấy khó nói, khó chia sẻ các khái niệm thuộc về riêng tư cá nhân. Về tâm lý học, đây là giai đoạn phát triển tâm sinh lý mạnh mẽ, các em có xu hướng giữ riêng cho mình các ý nghĩ cá nhân. Chính vì vậy, vấn đề đặt ra là cần phải có những phương án giảng dạy, truyền tải thông tin thích hợp và đa dạng hơn nữa, nhằm thu hút và nâng cao tỉ lệ học sinh có cái nhìn tích cực và chấp nhận chia sẻ những nội dung khó nói này. Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục giới tính tại trường THCS.

2.2.7.2. Hiểu biết của học sinh về tác dụng của việc học các bài có nội dung GDGT

Tìm hiểu việc thực hiện chương trình ở phần 2.3.1 ở trên, cho thấy chương trình có được thực hiện, chúng tôi tiếp tục tìm hiểu hiểu biết của học sinh về tác dụng của việc học các bài có nội dung GDGT.

Kết quả khảo sát thực hiện ở bảng 2.28.

Bảng 2.28. Khảo sát hiểu biết về tác dụng của các bài có nội dung GDGT

Đa số học sinh “biết những đặc điểm sinh lý cơ thể” (82.5%), “biết cách tự chăm sóc mình” (72.5%), “biết những đặc điểm về tâm lý” (59%). Ở các nội dung khác, sự hiểu biết của học sinh chưa cao như “biết cách phòng tránh thai” (37%), “biết cách giao tiếp với mọi người” (36%), “biết cách giao tiếp với bạn khác giới” (31%). Sở dĩ như vậy là do đặc điểm lứa tuổi học sinh THCS, các em chưa quan tâm nhiều về các nội dung này nên chưa đi sâu tìm hiểu tác dụng của các bài có nội dung GDGT.

Biểu đồ 2.19. Phần trăm hiểu biết về tác dụng của các bài có nội dung GDGT

Trong số những nội dung trên, việc tỉ lệ các em học sinh biết cách phòng tránh thai thấp (chỉ chiếm 37%) là một con số đang lo ngại. Như đã biết hiện nay, tỉ lệ thanh thiếu niên có quan hệ tình dục không an toàn dẫn đến hiện tượng nạo phá thai ngày càng gia tăng với một tốc độ khá cao. Trong đó, vai trò và trách nhiệm của công tác GDGT thiếu hiệu quả là không nhỏ.

Kết quả khảo sát gợi ý việc nhấn mạnh các nội dung mà các em chưa lĩnh hội một cách rõ ràng. Các thầy cô giáo nên dạy có chất lượng hơn bài “ Cơ sở khoa học của các biện pháp tránh thai” và thường xuyên giáo dục các em về cách giao tiếp với các bạn khác giới và giao tiếp với mọi người xung quanh. Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục giới tính tại trường THCS.

2.2.7.3. Hình thức tìm hiểu, học tập kiến thức GDGT của học sinh

Hiện nay học sinh học, tự bồi dưỡng, tự GDGT thông qua nhiều hình thức, không phải chỉ có kiến thức trong sách vở, các môn học. Ngoài ra các em còn tìm hiểu kiến thức về giới tính ở các hình thức sau:

Bảng 2.29. Hình thức tìm hiểu, học tập kiến thức GDGT của học sinh

Các kênh thông tin học sinh chọn nhiều nhất là báo đài, ti vi, tờ rơi (77%), nhà trường (71.5%), gia đình (62%), mạng internet (57%). Qua bảng này ta có thể lựa chọn các phương pháp tuyên truyền nâng cao nhận thức cho học sinh, cần thiết sử dụng các hình thức dễ thực hiện ít tốn kém mà hiệu quả cao như nâng chất lượng công tác GDGT tại nhà trường, phối hợp tốt hơn nữa với PHHS, sử dụng các phương tiện như báo, tờ rơi…để các em dễ dàng tiếp cận thông tin.

Có đến 94.5 % học sinh xác định chưa đến các trung tâm tư vấn tâm lý tình yêu, hôn nhân, gia đình. Ở lứa tuổi học sinh THCS, các em thường tìm hiểu kiến thức giới tính ở những nơi gần các em, các em cần được tư vấn nhưng không thể đến các trung tâm tư vấn vì nhiều nguyên nhân, cần thiết phải đưa các trung tâm tư vấn đến với học sinh ngay tại trường học.

Biểu đồ 2.20. Phần trăm hình thức tìm hiểu, học tập kiến thức GDGT của học sinh

2.2.7.4. Đối tượng chia sẻ tâm sự về giới tính của học sinh

Khi có các vấn đề thắc mắc về giới tính, học sinh thường chia sẻ tâm sự, kết quả khảo sát về đối tượng bày tỏ quan điểm của các em được trình bày trong bảng sau:

Bảng 2.30. Khảo sát những chia sẻ của học sinh về vấn đề giới tính

Với học sinh, đối tượng đáng tin cậy nhất để nói với nhau là bạn bè 60%, rồi mới tới cha mẹ 48 %, thầy cô giáo 18 %, những người khác 13 %. Từ đó, có thể thấy rằng học sinh có thể truyền cho nhau những “hiểu biết” của mình thật là có lợi. Nhưng cũng thật tai hại nếu những hiểu biết này chưa thấu đáo, lệch lạc. Cha mẹ cũng là người gần gũi để các em tâm sự nhưng chỉ có 48 %, còn 52 % các em lại cảm thấy khó thể thổ lộ với cha mẹ, tiếc là chỉ có 18 % các em chia sẻ thắc mắc với thầy cô giáo, 13 % với những người khác (anh chị, chú bác, người thân…).

Biểu đồ 2.21. Phần trăm chia sẻ của học sinh về vấn đề giới tính

Thầy cô giáo hàng ngày gặp gỡ nhưng các em không dám bày tỏ vì sợ bị đánh giá là “trẻ con tò mò chuyện người lớn”, “con nít mà bày đặt”… Người lớn chưa thật sự hiểu các em, cảm thông và sẵn sàng giúp các em tìm hiểu. Qua đó ta thấy đây cũng là một khó khăn trong việc triển khai một cách có hiệu quả công tác GDGT. Muốn cho thầy cô thật sự cởi mở với học sinh để các em sẵn sàng được giải bày tâm sự phải bắt đầu từ nhận thức của các thầy cô giáo. Điều ấy đôi khi bắt đầu từ việc “xây dựng trường học thân thiện”, người lớn cần hiểu học sinh, gần gũi để học sinh không e ngại khi trò chuyện tâm tình. Trong trường hợp chưa cải thiện được quan hệ thầy trò, cần thiết phải có các phòng tư vấn học đường để học sinh được giải bày trao đổi thắc mắc của lứa tuổi. Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục giới tính tại trường THCS.

2.3. NHỮNG ƯU NHƯỢC ĐIỂM CỦA THỰC TRẠNG QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC GIỚI TÍNH TẠI CÁC TRƯỜNG THCS THUỘC QUẬN 4

Qua nghiên cứu thực trạng hoạt động GDGT ở các trường THCS thuộc Quận 4, TPHCM, chúng tôi có nhận xét chung như sau :

2.3.1. Ưu điểm

Về nhận thức: các CB-GV, phụ huynh đều đã có nhận thức khá tốt về sự cần thiết của công tác GDGT cho học sinh ở lứa tuổi THCS trách nhiệm giáo dục thuộc về gia đình và PHHS. Đa số học sinh đã có ý thức về đặc điểm lứa tuổi, khái niệm giới tính, hiểu về bệnh AIDS, cách phòng tránh, có ý thức học tập khá nghiêm túc các vấn đề về giới tính.

Nội dung chương trình GDGT hiện hành ở cấp THCS đã được thực hiện tương đối đầy đủ, BGH có kiểm tra việc thực hiện chương trình. Việc phân công giáo viên giảng dạy GDGT đúng chuyên môn, chủ yếu thực hiện việc giảng dạy lồng ghép ở hai môn GDCD, Sinh học. Ngoài ra còn phân công các lực lượng khác tham gia GDGT như GVCN, giáo viên Tổng phụ trách Đội, giáo viên Bí thư Chi Đoàn chú ý kết hợp giữa GDGT với giáo dục đạo đức, hoàn thiện nhân cách cho học sinh.

  • BGH các trường có quan tâm quản lý việc chuẩn bị bài lên lớp, quản lý giờ lên lớp, dự giờ rút kinh nghiệm về công tác GDGT, quản lý giáo viên tham gia tập huấn cập nhật kiến thức GDGT do các cấp quản lý giáo dục.
  • Việc quản lý công tác tổ chức GDGT thông qua các hoạt động chính khóa và ngoại khóa thực hiện với nhiều hình thức khá phong phú.
  • Cơ sở vật chất các trường có sự đầu tư nhằm phục vụ đổi mới phương pháp giảng dạy, nâng cao chất lượng giáo dục nói chung.
  • Hiểu biết của học sinh về giới tính và các vấn đề giới tính có tiến bộ, ít sai lệch, phù hợp với lứa tuổi.

2.3.2. Nhược điểm Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục giới tính tại trường THCS.

Mặc dù CB-GV và phụ huynh nhận thức khá tốt về công tác GDGT, trách nhiệm GDGT song cách thức tiến hành GDGT chưa tương xứng với tầm quan trọng của công tác này. Chưa có sự chỉ đạo thống nhất, chuyên sâu từ PGD để tổ chức có hiệu quả cao đối với việc GDGT.

Việc giảng dạy chương trình theo qui định chưa sinh động, nội dung giảng dạy chủ yếu dựa vào sách giáo khoa, giáo viên ít cập nhật thông tin, chưa theo kịp nhu cầu giáo dục ngày càng cao của xã hội. Phương pháp giảng dạy còn đơn điệu, không phù hợp đặc trưng của nội dung giáo dục có tính “nhạy cảm” và mang tính xã hội. Giờ học chưa tự nhiên, chưa kết hợp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh.

  • BGH các trường chưa có kế hoạch riêng, kế hoạch cụ thể nhằm quản lý việc chuẩn bị bài lên lớp và quản lý giờ lên lớp các tiết dạy có nội dung GDGT.
  • Chưa có phòng tư vấn học đường để kịp thời giải đáp thắc mắc của học sinh về giới tính. Thầy cô chưa phải là người thực sự được học sinh tin cậy để giải bày suy nghĩ.
  • Cơ sở vật chất nhằm đáp ứng cho công tác GDGT như băng đĩa, tài liệu, giáo trình, tranh ảnh còn nghèo nàn, thiếu bổ sung, thiếu phòng học phù hợp phục vụ GDGT.
  • Công tác tư vấn, cung cấp kiến thức về tâm sinh lý lứa tuổi THCS cho PHHS chưa đúng mức. Một bộ phận phụ huynh bận lo sinh kế, không theo dõi giáo dục con, phó mặc việc giáo dục con em cho nhà trường, không tích cực GDGT cho con em.
  • Công tác GDGT gặp nhiều khó khăn, chưa huy động được các tổ chức xã hội trong và ngoài nhà trường tham gia giáo dục, chưa vận động được các nguồn kinh phí, thực hiện xã hội hóa giáo dục trong lĩnh vực GDGT.

2.3.3. Nguyên nhân của những nhược điểm

2.3.3.1. Chương trình các môn học áp lực học tập rất cao để đáp ứng yêu cầu cấp THCS hiện nay vẫn còn quá nặng. Học sinh phải chịu nhiệm vụ học tập, thi cử. Với PHHS, thành tích học tập các môn đã đặt lên vai các em trách nhiệm lớn lao phải hoàn thành nội dung các môn học, phải trãi qua các kỳ thi, các môn thi … Chương trình GDGT tuy có phù hợp với lứa tuổi học sinh THCS song không phải là các nội dung “học để thi”. Ở khối 8, các bài về GDGT thuộc môn Sinh nằm ở cuối chương trình, thường được giảng dạy sau khi đã thi HKII xong, vì vậy sự quan tâm của các em đối với nội dung học tập không cao, các em dễ có tâm lý lơ là, không chú ý cao trong học tập. Sự quan tâm chỉ đạo và tổ chức thực hiện GDGT của Bộ, Sở GD, Phòng GD còn chậm, chưa thường xuyên, chưa nâng được trách nhiệm cao cho CB-GV-HS. Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục giới tính tại trường THCS.

2.3.3.2. Do đặc điểm tâm lí dân tộc, nếp sống xã hội : người dân Việt Nam thường rất e ngại khi nói đến những vấn đề như tình yêu, tình dục, sinh lý nam nữ … Vì vậy việc giáo dục những nội dung này cho học sinh dễ bị dư luận xã hội thành kiến làm ảnh hưởng đến tâm lí giáo viên, học sinh và các bậc phụ huynh. Thực tế vẫn còn một ít phụ huynh e ngại, không muốn con tham gia học tập các kiến thức về giới tính. Điều này đã làm cho giáo viên cảm thấy e ngại khi giảng dạy cho học sinh các vấn đề giới tính. Giáo viên chỉ muốn “dạy cho có dạy” để không bị đánh giá là không hoàn thành chương trình, còn hiệu quả đến đâu? Chất lượng tiết dạy thế nào? Nội dung và phương pháp lên lớp đã thật sự đổi mới chưa? Giáo viên chưa quan tâm cải tiến.

2.3.3.3. Sự tác động của các phương tiện thông tin ngoài nhà trường đã làm ảnh hưởng đến tâm sinh lý của học sinh THCS. Học sinh có thể tiếp cận thông tin về giới tính bằng nhiều hình thức như sách báo, tranh ảnh, băng hình, internet … Tuy nhiên một số ấn phẩm này núp dưới chiêu bài GDGT để đưa đến cho học sinh nhiều nội dung có nguy cơ làm lệch lạc nhận thức của học sinh, kích thích sự tò mò, làm cản trở việc lĩnh hội tri thức và rèn luyện các phẩm chất giới tính một cách nghiêm túc, làm tăng thêm nỗi e ngại của mọi người về việc dạy cho học sinh những vấn đề về tình yêu, tình dục, sinh lý cơ thể.

2.3.3.4. Nhân lực thực hiện công tác GDGT thiếu người có kiến thức chuyên sâu, đa số giáo viên GDCD và Sinh học dạy lồng ghép GDGT như dạy các bài CD, Sinh học bình thường. Giáo viên ít quan tâm tìm hiểu đặc điểm cá nhân học sinh, tâm lý của học sinh khi học tập các bài có nội dung GDGT, chưa thực hiện dạy “cá thể hóa” đối với các đối tượng học sinh cho phù hợp với tình hình từng lớp, từng trường. Người tư vấn tâm lý như bác sĩ, chuyên gia tâm lý … có dịp mới đến trường (để báo cáo chuyên đề) không kịp để nghe, giải đáp thắc mắc. Vì vậy việc tư vấn cho học sinh đến nơi đến chốn là điều không thể. Học sinh không có nhiều cơ hội để được giãi bày, tâm sự, tìm hiểu thấu đáo vấn đề.

Trình độ dân trí của Quận 4 chưa cao, số phụ huynh đủ hiểu biết để cùng với nhà trường tổ chức GDGT một cách đầy đủ và khoa học cho phụ huynh không đến 40%. Cần thiết phải tư vấn tốt hơn cho phụ huynh để phụ huynh làm tròn trách nhiệm GDGT cho con em trong tình hình hiện nay.

2.3.3.5. Kinh phí phục vụ công tác GDGT hầu như không có. Trong dự toán của các trường, không có trường nào dành kinh phí cho công tác này. Muốn tổ chức hoạt động (chính khóa và ngoại khóa), phòng tư vấn học đường (nếu có) đều cần có kinh phí thế nhưng do chế độ học phí hiện nay chưa hợp lý nên trong học phí và cả ngân sách nhà nước cấp đều không dành cho việc này. Điều này giải thích vì sao BGH các trường đều không thiết tha với việc mở phòng tư vấn tâm lý hoặc thường xuyên mời báo cáo viên về tư vấn cho học sinh. Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục giới tính tại trường THCS.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ: 

===>>> Luận văn: Giải pháp quản lý giáo dục giới tính tại trường THCS

One thought on “Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục giới tính tại trường THCS

  1. Pingback: Luận văn: Hoạt động giáo dục giới tính tại các trường THCS

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Contact Me on Zalo
0906865464