Luận văn: Thực trạng đội ngũ GVCN ở trường THCS xã Trịnh Xá

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Thực trạng đội ngũ GVCN ở trường THCS xã Trịnh Xá hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm khóa luận thì với đề tài Luận văn: Quản lý đội ngũ giáo viên chủ nhiệm ở trường THCS xã Trịnh Xá, TP Phủ Lý, tỉnh Hà Nam trong bối cảnh đổi mới giáo dục dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.

2.2. Thực trạng đội ngũ GVCN ở trường THCS xã Trịnh Xá-TP Phủ Lý-tỉnh Hà Nam

2.2.1. Tình hình đội ngũ GVCN

2.2.1.1. Đội ngũ GVCN năm học 2014-2015

Riêng đội ngũ GVCN có 8 GV.

  • Về Trình độ chuyên môn: Đại học: 3 đ/c, tỷ lệ 37,5%; Cao đẳng: 5 đ/c tỷ lệ 62,2%.
  • Về độ tuổi: Từ 30- dưới 35 tuổi có 1 đ/c, tỷ lệ 12,5%; từ 35- dưới 40 tuổi có 6 đ/c, tỷ lệ 75%;từ 50- dưới 55 tuổi có 1 đ/c, tỷ lệ 12,5%.
  • Về giới tính: Có 2 GV nam, tỷ lệ 25%; có 6 GV nữ, tỷ lệ 75%.
  • Tổ KHTN có 2 GV, tỷ lệ 25%; tổ KHXH có 6 GV, tỷ lệ 75%.

Nhận xét:

GVCN có trình độ từ chuẩn trở lên (tỷ lệ 100%), đa số là trình độ Cao đẳng. Tuổi đời của GVCN trẻ nhất là 33, cao tuổi nhất là 54, đa số từ 35 đến 40 tuổi. Đa số đã qua nhiều năm làm công tác chủ nhiệm, có những kinh nghiệm nhất định về công tác chủ nhiệm. GVCN phần lớn thuộc tổ KHXH (trong đó có nguyên nhân do cơ cấu đội ngũ GV của hai tổ không cân đối, mặt khác do năng lực làm công tác chủ nhiệm của GV).

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ: 

===>>>  Dịch Vụ Viết Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Quản Lý Giáo Dục

2.2.1.2. Phẩm chất chính trị của đội ngũ GVCN của nhà trường Luận văn: Thực trạng đội ngũ GVCN ở trường THCS xã Trịnh Xá

Chúng tôi đã tiến hành khảo sát tham khảo ý kiến của 1 cán bộ quản lý và 18 giáo viên (gồm cả các giáo viên đang làm công tác chủ nhiệm lớp) của nhà trường, tổng là 19 người về nội dung đánh giá phẩm chất chính trị của GVCN.

Kết quả như sau:

Bảng 2.1: Nội dung đánh giá về phẩm chất của GVCN

Biểu đồ 2.1: Nội dung đánh giá về phẩm chất của GVCN

Theo kết quả sát ở bảng 2.1, chúng ta thấy 10 nội dung đánh giá về phẩm chất chính trị của GVCN là tốt, nội dung 1 được nhiều ý kiến đánh giá là tốt nhất, chiếm tới 94,7 %. Nội dung 7 có 5,3% ý kiến đánh giá mức Trung bình. Không có nội dung nào có đánh giá mức yếu.

2.2.1.3. Năng lực đội ngũ GVCN của nhà trường

Để đánh giá về năng lực GVCN ở trường THCS Trịnh Xá, chúng tôi đã tiến hành khảo sát, tham khảo ý kiến của 1 cán bộ quản lý và 18 giáo viên (gồm cả giáo viên đang làm công tác chủ nhiệm lớp), tổng là 19 người. Kết quả khảo sát như sau:

Bảng 2.2: Đánh giá năng lực đội ngũ GVCN

Biểu đồ 2.2: Đánh giá năng lực đội ngũ GVCN Kết quả khảo sát cho thấy:

Nhìn chung đội ngũ GVCN của nhà trường còn hạn chế về năng lực thực hiện các nội dung của công tác chủ nhiệm lớp. Số lượng thống kê cho thấy ở mức độ đánh giá là tốt các nội dung chưa nhiều, đặc biệt các nội dung năng lực lập kế hoạch, quản lý kế hoạch, thực hiện tốt công tác kiểm tra; năng lực tổ chức thu thập xử lý thông tin, ra quyết định đúng đắn; có trình độ ngoại ngữ, biết sử dụng công nghệ thông tin (Nội dung 4, 6, 10).

Kết quả khảo sát về phẩm chất chính trị và năng lực công tác của đội ngũ GVCN ở trường THCS Trịnh Xá cho thấy đa số GVCN có phẩm chất chính trị tốt nhưng năng lực công tác giáo dục toàn diện cho học sinh còn hạn chế. Vì vậy, lãnh đạo nhà trường cần tăng cường các biện pháp quản lý bồi dưỡng để nâng cao năng lực công tác cho đội ngũ GVCN.

2.2.2. Thực trạng nhận thức của cán bộ quản lý, giáo viên, học sinh và phụ huynh về vai trò của GVCN ở trường THCS Trịnh Xá Luận văn: Thực trạng đội ngũ GVCN ở trường THCS xã Trịnh Xá

2.2.2.1. Nhận thức của cán bộ quản lý, giáo viên về vai trò của GVCN:

Chúng tôi đã tiến hành khảo sát, tham khảo ý kiến của 1 cán bộ quản lý và 18 giáo viên (gồm cả các giáo viên đang làm công tác chủ nhiệ lớp), tổng số là 19 người. Kết quả như sau:

Bảng 2.3: Kết quả khảo sát về nhận thức của cán bộ quản lý và giáo viên về vai trò của GVCN

Biểu đồ 2.3: Kết quả khảo sát về nhận thức của cán bộ quản lý và giáo viên về vai trò của GVCN.

Cả ba nội dung được hỏi về vai trò của GVCN, đều được đa số ý kiến đã khảo sát tán thành nội dung có vai trò to lớn. Trong đó, nội dung thứ ba: Đội ngũ GVCN có vai trò như thế nào đối với việc rèn luyện đạo đức của học sinh? có tới 100% ý kiến được hỏi đồng ý, chứng tỏ rằng chúng ta phải tăng cường việc bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ GVCN theo các tiêu chí: Có trình độ chuyên môn, có kinh nghiệm ứng xử, có lòng tâm huyết, có lòng nhiệt tình, ý thức trách nhiệm cao.

2.2.2.2. Nhận thức của học sinh về vai trò của GVCN: Luận văn: Thực trạng đội ngũ GVCN ở trường THCS xã Trịnh Xá

Tiến hành khảo sát, tham khảo ý kiến của 200 học sinh nhà trường về vai trò của GVCN lớp. Kết quả như sau:

Bảng 2.4: Kết quả khảo sát nhận thức của học sinh về vai trò của GVCN

Biểu đồ 2.4. Kết quả khảo sát nhận thức của HS về vai trò của GVCN Qua khảo sát cho thấy, đa số các em học sinh của nhà trường đều đánh giá cao vai trò của đội ngũ GVCN trong việc thực hiện các nhiệm vụ giáo dục của nhà trường; trong đó có việc học tập kiến thức văn hóa và rèn luyện đạo đức của các em học sinh. Đặc biệt, có tới 100% ý kiến được hỏi cho rằng GVCN có vai trò to lớn đối với việc rèn luyện đạo đức của học sinh.

2.2.2.3. Nhận thức của phụ huynh học sinh về vai trò của GVCN:

Tiến hành khảo sát, tham khảo ý kiến của 200 phụ huynh học sinh nhà trường về vai trò của GVCN. Kết quả như sau:

Bảng 2.5: Kết quả khảo sát nhận thức của phụ huynh HS về vai trò của GVCN

Biểu đồ 2.5: Kết quả khảo sát về nhận thức của phụ huynh học sinh về vai trò của GVCN

Qua khảo sát cho thấy, đa số phụ huynh học sinh của nhà trường đều đánh giá cao vai trò của đội ngũ GVCN lớp trong việc thực hiện các nhiệm vụ giáo dục của nhà trường; trong đó có việc học tập kiến thức văn hóa và rèn luyện đạo đức của các em học sinh. Trong đó, có 82,5% ý kiến được hỏi cho rằng GVCN có vai trò to lớn đối với việc rèn luyện đạo đức của học sinh, nhưng vẫn còn 1% (nội dung 1); 2,5% (nội dung 2); 1,5% (nội dung 3) ý kiến cho rằng GVCN không có vai trò gì chứng tỏ còn phụ huynh chưa hiểu rõ vai trò của GVCN.

2.2.3. Thực trạng hoạt động chủ nhiệm lớp ở trường THCS Trịnh Xá Luận văn: Thực trạng đội ngũ GVCN ở trường THCS xã Trịnh Xá

2.2.3.1. Thực trạng nhận thức về nội dung công tác chủ nhiệm lớp của đội ngũ GVCN ở nhà trường.

GVCN là người thay thế Hiệu trưởng quản lý toàn diện tập thể học sinh một lớp học để triển khai các tác động giáo dục, các hoạt động giáo dục nhằm đạt được mục tiêu giáo dục. Có nghĩa GVCN không chỉ quản lý toàn diện tập thể lớp mà còn quản lý các hoạt động giáo dục toàn diện học sinh ở lớp mình chủ nhiệm.

Chức năng quản lý tập thể lớp của GVCN thể hiện khác nhau (trực tiếp hoặc gián tiếp) ở các giai đoạn phát triển khác nhau của tập thể học sinh, khi đội ngũ tự quản đã vững vàng và tập thể đã ở giai đoạn phát triển thì vai trò quản lý trực tiếp của giáo viên chủ nhiệm chuyển dần sang quản lý gián tiếp, phát huy cao độ vai trò tự quản của đội ngũ cán bộ lớp, tổ và từng thành viên trong tập thể lớp.

Để đánh giá thực trạng nhận thức về nội dung công tác chủ nhiệm lớp, tác giả đã tiến hành khảo sát tham khảo ý kiến của 8 giáo viên đang làm công tác chủ nhiệm lớp của nhà trường.

Kết quả khảo sát như sau:

Bảng 2.6: Nhận thức của GVCN về công tác chủ nhiệm

Qua khảo sát cho thấy đa số các GVCN đều nhận thức, đánh giá nội dung công tác chủ nhiệm lớp không đến mức khó làm nhưng cũng không phải là quá dễ. Một số GVCN còn lúng túng trong công việc, nhất là việc xây dựng tập thể học sinh lớp chủ nhiệm thông qua việc tổ chức bộ máy tự quản (chiếm 37,5%) và giám sát, thu thập thông tin thường xuyên về lớp chủ nhiệm (chiếm 37,5%). Thực tế trên đòi hỏi lãnh đạo nhà trường cần quan tâm, tạo điều kiện hơn nữa đối với đội ngũ GVCN của đơn vị mình thông qua các biện pháp quản lý cụ thể nhằm nâng cao nhận thức cho họ về vấn đề này.

2.2.3.2. Kết quả thực hiện công tác chủ nhiệm lớp của đội ngũ GVCN. Luận văn: Thực trạng đội ngũ GVCN ở trường THCS xã Trịnh Xá

Tác giả đã tiến hành khảo sát, tham khảo ý kiến của các thành viên trong Hội đồng giáo dục nhà trường gồm: Quản lý 01 người; Chủ tịch Công đoàn 01 người; Tổ trưởng chuyên môn 02 người; tổng phụ trách 01 người; và 8 giáo viên đang làm công tác chủ nhiệm, 6 giáo viên bộ môn, tổng số 19 người. Kết quả khảo sát như sau:

Bảng 2.7: Đánh giá kết quả công tác chủ nhiệm

Biểu đồ 2.7: Đánh giá kết quả công tác chủ nhiệm

Kết quả khảo sát cho thấy, tập thể Hội đồng giáo dục nhà trường đánh giá các nội dung công tác chủ nhiệm lớp mà thực tế GVCN đang thực hiện đa phần là ở mức độ tương đối tốt.

Tuy nhiên, nội dung xây dựng tập thể lớp chủ nhiệm thông qua bộ máy tổ chức tự quản (chỉ đạt 57,9% đánh giá là tốt); Chỉ đạo tổ chức thực hiện các nội dung giáo dục toàn diện và phối hợp giữa các lực lượng giáo dục đạt chưa cao (63,1%). Điều đó đòi hỏi lãnh đạo nhà trường phải tiếp tục tăng cường các biện pháp quản lý tốt hơn nhằm nâng cao năng lực công tác cho đội ngũ GVCN của đơn vị mình.

2.2.3.3. Thực trạng các biện pháp giáo dục của GVCN Luận văn: Thực trạng đội ngũ GVCN ở trường THCS xã Trịnh Xá

Nếu như giáo viên dạy các môn học quan tâm nhiều hơn đến kết quả nắm kiến thức và khả năng vận dụng kiến thức đó thì người GVCN thực sự là nhà giáo dục, ảnh hưởng của họ đến nhân cách học sinh đến hiệu quả giáo dục còn lớn hơn cả người Hiệu trưởng. Chính vì vậy, mức độ phát triển nhân cách, đạo đức nghề nghiệp của người GVCN rất quan trọng, tác động của nó đến kết quả giáo dục không thua kém gì năng lực sư phạm, vì đặc thù của nghề này là nhân cách, đạo đức giáo viên cũng trở thành phương tiện giáo dục.

GVCN phải quan tâm đến sự phát triển toàn diện của mọi học sinh trong tập thể lớp; phải nắm vững những đặc điểm chung của lớp, những đặc điểm của từng học sinh; có mục tiêu, nội dung, hình thức giáo dục thích hợp, có những tác động sư phạm hợp quy luật, mang lại hiệu quả cao; chú ý giáo dục cá biệt, cá nhân hóa giáo dục; đánh giá kết quả học tập, tu dưỡng toàn diện của lớp, của từng học sinh.

Chúng tôi đã tiến hành khảo sát, tìm hiểu 200 học sinh của nhà trường về các biện pháp giáo dục của GVCN. Kết quả khảo sát như sau:

Bảng 2.8: Kết quả khảo sát học sinh về các biện pháp giáo dục của GVCN

Biểu đồ 2.8: Kết quả khảo sát học sinh về các biện pháp giáo dục của GVCN

Kết quả khảo sát cho thấy, thực tế công tác chủ nhiệm lớp của nhà trường đã được tổ chức thực hiện nhưng chưa đem lại hiệu quả cao, các hình thức khen thưởng và kỷ luật của thầy (cô) giáo chủ nhiệm tác động chưa nhiều đến ý thức phấn đấu của các em học sinh. Đặc biệt, việc đánh giá, nhận xét của thầy (cô) giáo chủ nhiệm về từng học sinh còn chưa thực sự khách quan hoặc ở mức độ bình thường chiếm tỷ lệ tương đối nhiều. Điều đó phù hợp với kết quả khảo sát hiệu quả nội dung công tác chủ nhiệm được trình bày ở bảng trên. Kết quả đó một lần nữa cho thấy lãnh đạo nhà trường cần đẩy mạnh các hoạt động quản lý tác động đến GVCN để nâng cao hiệu quả hoạt động của đội ngũ này.

2.2.3.4. Thực trạng quan hệ giữa GVCN với học sinh và gia đình học sinh

Tác giả đã tiến hành khảo sát 200 học sinh của nhà trường về mối quan hệ giữa giáo viên chủ nhiệm với học sinh và gia đình học sinh. Kết quả như sau:

Bảng 2.9: Kết quả khảo sát HS về mối quan hệ giữa GVCN với HS, gia đình HS

Biểu đồ 2.9: Kết quả khảo sát học sinh về mối quan hệ giữa GVCN với học sinh và gia đình học sinh

Kết quả khảo sát cho thấy giữa GVCN lớp với học sinh vẫn còn khoảng cách nhất định. Số học sinh thường xuyên tâm sự với GVCN khi gặp khó khăn trong cuộc sống hoặc trong học tập rất ít, mức độ thường xuyên chỉ chiếm 9,5%. Thực tế, các thầy cô chưa tạo được niềm tin cho các em học sinh. Chính vì vậy, các thầy cô gặp nhiều khó khăn trong việc tìm hiểu tâm tư tình cảm của các em, từ đó khó có thể đưa ra được những quyết định đúng đắn trong công tác quản lý lớp chủ nhiệm của mình.Việc liên lạc giữa GVCN với gia đình học sinh được thực hiện chủ yếu thông quan điện thoại (69,5%), điều đó cũng dễ hiểu bởi ngày nay công nghệ thông tin đã phát triển, liên lạc bằng điện thoại tiện lợi, nhanh chóng, hơn nữa đa số phụ huynh học sinh của nhà trường đi làm ăn xa thường xuyên không có nhà. Tuy nhiên, việc liên lạc bằng điện thoại cũng có phần hạn chế bởi không thể truyền tải hết những ý định của GVCN được.

2.3. Thực trạng quản lý đội ngũ GVCN trường THCS xã Trịnh Xá, TP Phủ Lý, tỉnh Hà Nam Luận văn: Thực trạng đội ngũ GVCN ở trường THCS xã Trịnh Xá

Thực tế những năm qua lãnh đạo nhà trường đã tiếp nhận đội ngũ GV, phân công GVCN từ đầu năm học. Đã yêu cầu GVCN có kế hoạch tìm hiểu học sinh, phân loại học sinh và xây dựng Kế hoạch công tác chủ nhiệm cho từng lớp trong suốt cả năm học. Đã thực hiện việc kiểm tra, đánh giá GVCN. Đã tổ chức các buổi giao ban, hội thảo về công tác chủ nhiệm lớp cho đội ngũ giáo viên của nhà trường …

2.3.1. Thực trạng công tác tuyển dụng GV

Khi tiếp nhận nhân lực cần có điều kiện, tiêu chuẩn nhất định. GV dự tuyển vào phải được cấp có thẩm quyền duyệt: Phẩm chất đạo đức; Trình độ (chuyên ngành gì, trường nào đào tạo, kết quả quá trình học tập ra sao, có đảm bảo theo quy định không?); năng lực công tác (qua kiểm tra, sát hạch, thử việc); sức khỏe; …

Thực tế tại đơn vị: Hiệu trưởng nhà trường không có thẩm quyền tuyển dụng đội ngũ giáo viên, mà chỉ là nhận GV khi có quyết định của cấp trên.

Trước mỗi năm học, khi xây dựng kế hoạch phát triển, nhà trường căn cứ số học sinh, số lớp để tính nhu cầu giáo viên. Sau đó rà soát đội ngũ GV hiện có xem thừa, thiếu chủng loại nào để tham mưu, đề xuất với cấp trên cho kịp thời.

Hàng năm, Phòng GD&ĐT luôn rà soát đội ngũ giáo viên, tham mưu với Ủy ban nhân dân thành phố xây dựng kế hoạch biên chế đội ngũ GV. Luận văn: Thực trạng đội ngũ GVCN ở trường THCS xã Trịnh Xá

Từ đó, công việc tuyển chọn GVCN ở nhà trường chỉ là lựa chọn GV trong Hội đồng sư phạm làm công tác chủ nhiệm lớp.

Tuyển GV mới: Đối với đội ngũ giáo viên hiện có của trường, tất cả đều được tuyển dụng ngay sau khi học xong ở trường Sư phạm, vì thời điểm trước còn thiếu giáo viên. Nhưng hiện nay, nhà trường đang thừa GV nên không được tuyển thêm GV mới.

Điều động:

Đầu năm học 2014-2015, trường có 2 GV được điều động đi trường khác.

Biệt phái:

Có 1 GV biệt phái đi trường khác (môn Toán- Lí), nhà trường nhận 1 GV từ trường khác biệt phái đến (môn Hóa- Sinh). Có 1 GV dạy ở trường và cả ở trường khác (môn Tiếng Anh).

Hợp đồng: Trường không có GV hợp đồng.

Từ thực trạng về công tác tuyển dụng GV như trên cũng ảnh hưởng tới việc phân công GVCN.

2.3.2. Thực trạng công tác sử dụng, phân công GVCN của lãnh đạo nhà trường

Trước khi bước vào năm học mới, bộ phận chuyên môn dự kiến phân công nhiệm vụ cho GV, trong đó có nhiệm vụ đối với công tác chủ nhiệm. Hiệu trưởng căn cứ vào tình hình học sinh, điều kiện thực tế, căn cứ vào tình hình đội ngũ để quyết định phân công giáo viên làm công tác chủ nhiệm lớp cho phù hợp với điều kiện của trường.

Việc lựa chọn giáo viên làm chủ nhiệm lớp thường dựa vào các tiêu chí: Giảng dạy trực tiếp tại lớp (nên có số tiết nhiều); năng lực chuyên môn vững vàng, biết cách tổ chức các hoạt động, có khả năng xử lý, giải quyết tốt các tình huống, có uy tín với nhà trường, phụ huynh và học sinh; số năm học làm chủ nhiệm ở cùng một lớp. Bên cạnh đó, còn tính đến cả khối lượng công việc để hạn chế chênh lệch quá nhiều về số tiết giữa các GV.

Để đánh giá thực trạng công tác GVCN lớp, trước hết chúng tôi khảo sát thực trạng nhận thức và thái độ của cán bộ quản lý và giáo viên về việc phân công GVCN trong nhà trường. Luận văn: Thực trạng đội ngũ GVCN ở trường THCS xã Trịnh Xá

Tác giả đã tiến hành khảo sát, tham khảo ý kiến của 01 cán bộ quản lý và 18 giáo viên (gồm cả các giáo viên đang làm công tác chủ nhiệm lớp) của nhà trường, tổng số là 19 người. Kết quả như sau:

Bảng 2.10: Kết quả khảo sát ý kiến của cán bộ quản lý và giáo viên về việc phân công GVCN trong trường THCS.

Tỷ lệ tán thành Tiêu chí phân công GVCN

Biểu đồ 2.10: Kết quả khảo sát ý kiến của cán bộ quản lý và giáo viên về việc phân công GVCN trong trường THCS

Qua kết quả trên, chúng ta thấy:

Tiêu chí 1: “Có nhiều tiết dạy ở lớp đó” có 73,7% số giáo viên được khảo sát đồng ý. Nhà trường thường chọn GV dạy môn Ngữ văn, Toán làm GVCN (đa số là GV môn Ngữ văn, với 75%). Thực tế, nếu GV có nhiều tiết dạy ở lớp sẽ thuận lợi hơn trong công tác chủ nhiệm. Tuy nhiên, đó không phải là tiêu chí mang tính quyết định, nhưng cũng cần phải có tiết dạy trực tiếp ở lớp đó.

Tiêu chí 2: “GVCN có khả năng về thực hiện công tác chủ nhiệm lớp” có 94,7% được hỏi đồng ý. Điều đó thấy rằng GVCN lớp không nhất thiết phải trực tiếp, có mặt thường xuyên ở lớp chủ nhiệm của mình mà có thể gián tiếp nhưng vẫn quản lý tốt lớp chủ nhiệm của mình. Muốn vậy, GVCN phải có khả năng về công tác chủ nhiệm, phải có những kỹ năng cần thiết về vấn đề này.

Tiêu chí 3: “GVCN thay đổi qua từng năm học” có 63,2% đồng ý. Cách phân công thường tùy từng năm học, chọn GVCN cho phù hợp với tình hình cụ thể. Khi phân công, có thể vẫn có GVCN theo lên lớp trên, nhưng thường không quá 2 năm liên tiếp.

Tiêu chí 4: “GVCN theo lớp liên tục 3 đến 4 năm học” có 10,5% đồng

Rõ ràng, với quan điểm trong quá trình giáo dục, khi nắm vững, hiểu rõ đối tượng thì biện pháp giáo dục sẽ dễ dàng thực hiện hơn. Tuy nhiên, ở đây nhà trường lại muốn có sự thay đổi và tin tưởng vào sự thích nghi của GV trong điều kiện thay đổi.

Tiêu chí 5: “Tính đến các yếu tố khác” có 89,5% đồng ý. Thực tế cần quan tâm đến các yếu tố như tổng số tiết của GV để hạn chế chênh lệch quá nhiều về tổng số tiết giữa các GV; hoặc chú ý tới đặc điểm riêng của lớp, không thể phân công GVCN năng lực yếu vào lớp có diễn biến phức tạp. Ngoài ra, cũng cần quan tâm hơn tới khối lớp cuối cấp. Điều đó cũng giải thích GVCN thuộc tổ KHXH nhiều hơn ở tổ KHTN.

2.3.3. Thực trạng công tác Kiểm tra, đánh giá đội ngũ GVCN Luận văn: Thực trạng đội ngũ GVCN ở trường THCS xã Trịnh Xá

2.3.3.1. Công tác Kiểm tra

Kiểm tra hồ sơ:

Kiểm tra hồ sơ chủ nhiệm định kỳ hoặc đột xuất.

Sổ chủ nhiệm: Kiểm tra định kỳ 1 lần/tháng để duyệt kế hoạch trong từng tháng của các lớp. Riêng tháng 10 duyệt kế hoạch cả năm học. Ngoài ra, lãnh đạo cũng nắm thêm tình hình kết quả của từng lớp trong tháng trước.

Công việc này trực tiếp Hiệu trưởng thực hiện.

  • Sổ gọi tên-ghi điểm: Kiểm tra định kỳ 1 lần/tháng để xem việc cập nhật có đầy đủ, rõ ràng, chính xác, kịp thời không (về kiểm diện, ghi điểm). Việc ghi lý lịch thực hiện vào đầu năm học; việc đánh giá, xếp loại thực hiện vào cuối học kỳ.
  • Sổ ghi đầu bài: Đây là nhật ký cụ thể, rõ ràng nhất về thực hiện nhiệm vụ dạy học của lớp. Lãnh đạo kiểm tra hàng tuần để nắm được tình hình hoạt động của các lớp.

Học bạ: Chủ yếu kiểm tra khi kết thúc Học kỳ, sau khi GVCN đã ghi kết quả tổng hợp. Cuối năm học Hiệu trưởng phê duyệt sau khi GVCN đã nhận xét. Riêng HS thuộc diện phải kiểm tra lại hoặc rèn luyện lại trong hè thì sau khi có kết quả Hiệu trưởng mới phê duyệt.

Hồ sơ khác (Kế hoạch Hoạt động ngoài giờ, kế hoạch lao động, kế hoạch họp cha mẹ HS, …): Kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất.

Kiểm tra tổ chức hoạt động

Ban Giám hiệu kiểm tra đột xuất hoặc giao đồng chí Tổng phụ trách Đội kiểm tra tổ chức các buổi lao động; tổ chức giờ Sinh hoạt lớp; kiểm tra chấp hành giờ giấc; kiểm tra việc thực hiện nền nếp của HS như: chuẩn bị đồ dùng học tập, sách vở, trang phục, bảo quản tài sản của trường lớp, giữ gìn vệ sinh, bảo vệ cảnh quan môi trường, tham gia hoạt động tập thể, … để nâng cao hiệu quả công tác quản lý.

2.3.3.2. Công tác đánh giá Luận văn: Thực trạng đội ngũ GVCN ở trường THCS xã Trịnh Xá

Khi đánh giá đội ngũ GVCN về năng lực, lãnh đạo nhà trường thường dựa vào kết quả đạt được của lớp: không có HS vi phạm; có nhiều HS đạt thành tích cao; lớp có nhiều chuyển biến tích cực; … Thực tế, cách đánh giá GVCN thường chú trọng đến xếp loại thi đua của lớp chủ nhiệm, chưa quan tâm nhiều đến năng lực thực sự của GVCN. Đây là vấn đề cần được nhà quản lý quan tâm để đánh giá một cách đầy đủ, đúng mức về việc thực hiện nhiệm vụ của GVCN.

Tác giả đã tiến hành khảo sát ý kiến của 1 cán bộ quản lý và 18 giáo viên (gồm cả các giáo viên đang làm công tác chủ nhiệm lớp) của nhà trường, tổng là 19 người về nội dung tiêu chí đánh giá, xếp loại đối với GVCN. Kết quả như sau:

Bảng 2.11. Khảo sát GV về tiêu chí đánh giá, xếp loại GVCN

Số liệu ở bảng 2.11 và biểu đồ 2.11 cho thấy:

Tiêu chí 1: “Lớp không có hoặc có ít nhất HS vi phạm” có 89,5% ý kiến tán thành. Tiêu chí này hướng tới mục tiêu duy trì nề nếp của lớp ổn định. GVCN quan tâm hơn tới GD đạo đức cho HS có dấu hiệu vi phạm.

Tiêu chí 2: “Lớp có nhiều HS đạt thành tích cao trong học tập” có 78,9% ý kiến tán thành. Có nhiều kết quả cao là một yêu cầu cần thiết, nhưng nó sẽ thực sự tốt hơn nếu lớp ít có vi phạm.

Đa số GV tán thành tiêu chí số 3 “lớp có nhiều chuyển biến tích cực về mọi mặt” (với tỷ lệ 94,7%). Một lớp có nhiều khó khăn mà có sự tiến bộ rõ rệt thì chắc chắn có vai trò lớn của GVCN.

Tiêu chí khác: Xếp loại của Đội Thiếu niên Tiền phong, Tỷ lệ HS tham gia mua Thẻ Bảo hiểm y tế, …

Từ đó, cần đánh giá thật khoa học, công bằng, khách quan về năng lực, tâm huyết của GVCN.

2.3.4. Thực trạng công tác Đào tạo, bồi dưỡng GVCN Luận văn: Thực trạng đội ngũ GVCN ở trường THCS xã Trịnh Xá

2.3.4.1. Công tác Đào tạo

Đào tạo là một nội dung quan trọng trong quản lý đội ngũ giáo viên.

Nhiệm vụ Đào tạo giáo viên mới do các trường Sư phạm thực hiện.

Giai đoạn gần đây đã không còn tình trạng thiếu trầm trọng giáo viên. Nhà nước đã có những chính sách thu hút, phát triển đội ngũ giáo viên (miễn học phí cho sinh viên trường Sư phạm, …). Tuy nhiên, không ít sinh viên khi ra trường lại không có việc làm. Trường Cao đẳng Sư phạm Hà Nam trở thành cơ sở 2 của Trường Đại học Sư phạm Hà Nội từ cuối năm 2015.

Đội ngũ giáo viên của nhà trường được đào tạo chủ yếu từ trường Cao đẳng Sư phạm Hà Nam ở các môn Toán-Lí, Hóa-Sinh, Văn-Địa, Văn-Sử, Văn-Nhạc, Văn-GDCD, … trình độ đạt chuẩn theo quy định.

Đào tạo lại: Sau khi học hệ Cao đẳng chính quy, đã có việc làm, nhiều GV đã tiếp tục học tập nâng cao trình độ lên trình độ Đại học dưới hình thức Tại chức. Tổng số CBQL, GV, NV của trường là 23. Trong đó, QL: 2, GV: 18, nhân viên: 3. Đã có 8 đồng chí đào tạo lại lên Trình độ Đại học, số GV đang tiếp tục đào tạo lại là 4.

Để đánh giá thực trạng công tác đào tạo giáo viên, chúng tôi đã tiến hành khảo sát ý kiến của 18 giáo viên của nhà trường. Kết quả khảo sát như sau:

Bảng 2.12. Kết quả khảo sát công tác Đào tạo của giáo viên

Biểu đồ 2.12. Kết quả khảo sát công tác Đào tạo của giáo viên

Qua bảng biểu trên, ta thấy:

  • Tỷ lệ GV đúng mong muốn trường đào tạo là 83,3%. Còn 16,7% chưa đúng nguyện vọng. Trong số này, các đồng chí có mơ ước ngành nghề khác.

Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại thì tất cả đều yên tâm công tác và gắn bó với nghề chứ không có hiện tượng chán nản.

  • Về Chương trình học ở trường Sư phạm, có 88,9% GV đánh giá đảm bảo tính khoa học, phù hợp. Còn 11,1% cho rằng cần tăng cường thực hành.
  • Về thời lượng trong trường Sư phạm cho công tác chủ nhiệm: 83,3% cho rằng đảm bảo. Còn 16,7% cho rằng cần tăng cường hơn nữa, đặc biệt là trang bị kiến thức khoa học để giải quyết, xử lý các tình huống giáo dục.
  • Nội dung Đào tạo lại để nâng cao trình độ được tỷ lệ tán thành cao nhất, là 94,4%. Còn 5,6% (1 GV) không có nhu cầu đào tạo lại vì cho rằng bản thân đã cao tuổi, sắp nghỉ hưu.

2.3.4.2. Công tác Bồi dưỡng Luận văn: Thực trạng đội ngũ GVCN ở trường THCS xã Trịnh Xá

Công tác tổ chức bồi dưỡng GVCN

Để đánh giá thực trạng công tác tổ chức bồi dưỡng GVCN, tác giả đã tiến hành khảo sát tham khảo ý kiến của 18 giáo viên của nhà trường. Kết quả khảo sát như sau:

Bảng 2.13. Kết quả khảo sát việc tổ chức bồi dưỡng GVCN của hiệu trưởng

Biểu đồ 2.13. Kết quả khảo sát việc tổ chức bồi dưỡng GVCN của hiệu trưởng

Số liệu bảng 2.13. ở trên cho thấy:

Hiệu trưởng nhà trường đã quan tâm bồi dưỡng GVCN, phương pháp bồi dưỡng đã có đổi mới, nội dung bồi dưỡng đã thiết thực đối với nhiều GVCN. Tuy nhiên, do còn nhiều khó khăn về thời gian, tài liệu, giảng viên nên hiệu quả bồi dưỡng GVCN còn chưa cao.

Nội dung bồi dưỡng GVCN

Để đánh giá thực trạng các nội dung bồi dưỡng GVCN, chúng tôi đã tiến hành khảo sát tham khảo ý kiến của 18 giáo viên của nhà trường. Kết quả khảo sát như sau:

Bảng 2.14. Kết quả khảo sát về các nội dung bồi dưỡng GVCN

Tỷ lệ tán thành

Biểu đồ 2.14. Kết quả khảo sát về các nội dung bồi dưỡng GVCN

Số liệu ở bảng 2.14 cho thấy:

  • Việc nắm vững hệ thống văn bản về công tác chủ nhiệm lớp là cần thiết, các ý kiến đạt tỷ lệ cao (94,4%).
  • Đối với GVCN, cần thiết phải bồi dưỡng những chuyên đề gần với công việc chủ nhiệm lớp mà họ đang phải đảm nhận như: “Bồi dưỡng về ứng xử sư phạm, xử lý các tình huống hay gặp phải khi giáo dục HS, nhất là đối với HS chậm tiến” với 88,9% tán thành.

Ngoài ra, công tác bồi dưỡng còn thể hiện ở việc tổ chức các buổi họp tổ chủ nhiệm, tổ chức Hội thi GVCN giỏi cấp trường, chọn GVCN tham dự thi cấp thành phố, hay tổ chức tham quan học tập tại đơn vị bạn trong và ngoài tỉnh.

2.3.5. Công tác tạo môi trường làm việc và chính sách đãi ngộ đối với GVCN

2.3.5.1. Tạo môi trường làm việc Luận văn: Thực trạng đội ngũ GVCN ở trường THCS xã Trịnh Xá

Môi trường là những điều kiện về tự nhiên và xã hội có liên quan tới công tác của GVCN.

Các khối công trình nhìn chung đảm bảo: Phòng học, nhà để xe, khu vệ sinh, …

Lãnh đạo bố trí cơ sở vật chất các lớp học đảm bảo yêu cầu: Bàn ghế, quạt, điện, … đảm bảo đủ ánh sáng và thoáng. Quang cảnh môi trường đảm bảo xanh-sạch-thoáng. An toàn trường học được đảm bảo. Nhà trường đã trang bị đầy đủ hệ thống Hồ sơ sổ sách liên quan. Đầu tư kinh phí tổ chức hoạt động ngoài giờ, các Hội thi giữa các đơn vị lớp nhân dịp kỷ niệm ngày lễ lớn.

Lãnh đạo quan tâm bầu không khí sư phạm. Đồng nghiệp đối xử với nhau thân tình, đoàn kết, giúp đỡ nhau trong cuộc sống và trong công tác. Đội ngũ GVCN có tinh thần trách nhiệm cao với phẩm chất đạo đức trong sáng, năng lực vững vàng đã nói lên sự quan tâm của Hiệu trưởng.

Xây dựng, duy trì tốt mối quan hệ với chính quyền, nhân dân địa phương.

2.3.5.2. Chính sách đãi ngộ

  • Đảm bảo về chế độ lương, phụ cấp: Đầy đủ, kịp thời.
  • Đảm bảo về chế độ làm việc: GVCN được tính 4 tiết /tuần theo quy định. Không phân công quá nặng công việc cho GVCN (Không có đ/c nào vượt quá định mức 19 tiết/tuần).
  • Khen thưởng, động viên kịp thời đối với cá nhân, tập thể đạt thành tích cao: Định kỳ hoặc đột xuất.
  • Tặng quà nhân dịp kỷ niệm, lễ Tết; thăm hỏi gia đình GVCN khi có việc vui, buồn để động viên họ.

Kết quả cho thấy GV yên tâm, gắn bó với nghề; tin tưởng vào sự lãnh đạo của các cấp quản lý; cố gắng vươn lên để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Tuy vậy, cơ chế, chính sách đãi ngộ chưa tương xứng với công lao của GVCN do kinh phí còn khó khăn.

2.4. Đánh giá thực trạng quản lý đội ngũ GVCN ở trường THCS Trịnh Xá, TP Phủ Lý, tỉnh Hà Nam Luận văn: Thực trạng đội ngũ GVCN ở trường THCS xã Trịnh Xá

2.4.1. Những thuận lợi, khó khăn của lãnh đạo nhà trường trong công tác quản lý đội ngũ GVCN

Thuận lợi:

  • Được các cấp uỷ Đảng, chính quyền, nhân dân quan tâm đến sự nghiệp giáo dục.
  • Nhà trường đã có sự quan tâm tới đội ngũ giáo viên, đặc biệt là đội ngũ GVCN. Đào tạo, bồi dưỡng giáo viên là một nhiệm vụ quan trọng trong các nhà trường, giúp cho nâng cao chất lượng giáo dục.
  • Công tác xã hội hoá giáo dục tương đối tốt, có tác động tích cực tới sự nghiệp giáo dục ở các trường.
  • Học sinh học của nhà trường đại đa số cùng một lứa tuổi, có chênh lệch nhau không nhiều, tạo điều kiện thuận lợi trong công tác giáo dục.
  • Hiện nay, đa số giáo viên gắn bó với trường, với lớp. Đặc biệt, đời sống của giáo viên được cải thiện, mọi người yên tâm công tác.
  • Giáo dục hiện nay phát triển trong thời đại thông tin bùng nổ, tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên, học sinh, nhân dân dễ dàng tiếp cận với những thông tin mới về khoa học kỹ thuật trong giáo dục.
  • Điện thoại phát triển thuận lợi trao đổi thông tin giữa GVCN với phụ huynh học sinh, giữa GVCN với hiệu trưởng.

Khó khăn:

  • Tiêu cực của xã hội có ảnh hưởng tới giáo dục, đạo đức học sinh, những mặt trái của xã hội có tác động đến học sinh như phim ảnh trên mạng làm 1 số HS xao nhãng trong học tập, số HS cá biệt trong các trường nguy cơ tăng lên.
  • Một số gia đình còn thiếu ý thức giáo dục con em mình, một số học sinh ý thức chưa tốt, dễ bị kích động, mắc phải các tệ nạn xã hội. Điều đó, làm cho GVCN mất nhiều thời gian hơn trong giáo dục học sinh cá biệt.
  • Học sinh THCS đang trong độ tuổi giao thời hiếu động.
  • Việc tổ chức bồi dưỡng, tập huấn cho GVCN còn gặp nhiều khó khăn về thời gian, nội dung, phương pháp, giảng viên.
  • Quy định hiện hành 4 tiết/tuần cho GVCN không đủ để GVCN thực hiện tốt nhiệm vụ QL, giáo dục HS nhằm nâng cao chất lượng GD toàn diện.

2.4.2. Tồn tại, thiếu sót Luận văn: Thực trạng đội ngũ GVCN ở trường THCS xã Trịnh Xá

Việc phân công GVCN được lãnh đạo nhà trường thực hiện ngay từ đầu năm học, nhưng năm qua đội ngũ giáo viên của nhà trường có sự thay đổi do điều động của cấp trên. Cơ cấu giáo viên giữa các môn học còn mất cân đối lớn, môn thì thiếu, môn thì thừa dẫn đến việc phân công chuyên môn gặp khó khăn. Một số GVCN là nữ có con nhỏ; dẫn đến việc nghỉ phép nhiều do tình trạng sức khỏe của con cái không tốt, … Thực trạng đó dẫn tới việc phân công GVCN lớp gặp khó khăn.

Về kiểm tra, đánh giá:

Hiệu trưởng đã chú ý kiểm tra, nắm tình hình công tác chủ nhiệm, nhưng việc kiểm tra trực tiếp hoạt động thực tế chưa thường xuyên, mới chủ yếu kiểm tra gián tiếp thông qua các kênh báo cáo hoặc phản ánh của GVCN và các thành phần khác trong trường.

Việc đánh giá đã căn cứ vào kết quả tổng hợp tình hình thực tế, nhưng căn cứ đánh giá chưa khoa học, còn mang tính định tính là chủ yếu.

Do việc đánh giá còn hạn chế nêu trên nên kết quả xếp loại thi đua còn chưa thật chuẩn xác, chưa động viên được GVCN của lớp có nhiều khó khăn về đối tượng HS.

Công tác bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ GVCN được lãnh đạo nhà trường quan tâm, nhưng cách triển khai chưa thực sự hiệu quả, còn mang tính hình thức, chưa đi vào thực chất. Các cuộc hội thảo được tổ chức nhưng còn ít ý kiến tâm huyết, mang tính khoa học. Chưa giúp GVCN có được các kỹ năng tốt nhất của công tác chủ nhiệm lớp theo yêu cầu.

Chế độ đãi ngộ đã được quan tâm, song chưa tương xứng với công lao của GVCN.

Nguyên nhân (chủ quan, khách quan):

Còn thiếu sự quan tâm đầu tư, thiếu sự chỉ đạo thống nhất từ trên xuống, công tác kiểm tra chưa thường xuyên, nhận thức về công tác quản lý đội ngũ GVCN chưa tốt, chế độ chính sách với đội ngũ này chưa đảm bảo. Trong đó, có cả vai trò của lãnh đạo nhà trường trong việc quản lý đội ngũ GVCN.

Tiểu kết chương 2

Thực tế những năm qua, cùng với các hoạt động quản lý toàn diện, quản lý đội ngũ GVCN đã được lãnh đạo nhà trường quan tâm, song các nội dung quản lý đội ngũ GVCN chưa được lãnh đạo nhà trường thực hiện bài bản, khoa học, có chiều sâu để qua đó góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện của nhà trường. Trên thực tế, trường đã đạt được nhiều kết quả đáng kể; tuy vậy, muốn tiếp tục duy trì tốt kết quả đã đạt được thì cán bộ quản lý nhà trường và các GVCN cần tiếp tục rèn luyện năng lực, phẩm chất, trau dồi chuyên môn nghiệp vụ, có nhiều biện pháp hữu hiệu hơn nữa, đặc biệt trong quản lý đội ngũ GVCN. Vì thế, chúng tôi mong muốn trên cơ sở thực trạng quản lý đ ộ i n g ũ GVCN của nhà trường, đề xuất những biện pháp quản lý vừa mang tính khoa học, bài bản đáp ứng yêu cầu của nội dung quản lý đội ngũ GVCN, vừa phù hợp với điều kiện thực tế của nhà trường để đưa hoạt động quản lý đội ngũ GVCN của nhà trường đi vào thực chất hơn, mang lại hiệu quả cao hơn góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện của nhà trường trong bối cảnh đổi mới giáo dục. Luận văn: Thực trạng đội ngũ GVCN ở trường THCS xã Trịnh Xá

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ: 

===>>> Luận văn: Biện pháp quản lý GVCN ở trường THCS xã Trịnh Xá

2 thoughts on “Luận văn: Thực trạng đội ngũ GVCN ở trường THCS xã Trịnh Xá

  1. Pingback: Luận văn: Khái quát về giáo viên trường THCS Trịnh Xá

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Contact Me on Zalo
0906865464