Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Hoạt động dạy học của trường mầm non tư thục hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm khóa luận thì với đề tài Luận văn: Quản lý hoạt động dạy học của giáo viên khối mẫu giáo tại một số trường mầm non tư thục trong địa bàn thị xã Dĩ An tỉnh Bình Dương dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Giáo dục mầm non là cấp học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân, đặt nền móng cho sự phát triển toàn diện của trẻ em về thể chất, nhận thức, tình cảm xã hội và thẩm mỹ cho trẻ. Những năm đầu đời đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc hình thành nhân cách và phát triển năng lực của trẻ vì vậy việc chăm sóc giáo dục tốt cho trẻ từ lứa tuổi mầm non sẽ góp phần tạo nên nền móng vững chắc cho sự phát triển trong tương lai. Kết luận tại hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XI trong hệ thống các giải pháp phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2011-2015 đã nêu rõ: “Điều chỉnh chính sách về giáo dục mầm non (GDMN), giáo dục miền núi; làm tốt công tác xã hội hóa (XHH) giáo dục (GD) để đảm bảo nhu cầu học tập của các đối tượng, nhất là GDMN” [1]. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX và Văn kiện Đại hội lần thứ X của Đảng đã chỉ rõ công tác quản lý của ngành Giáo dục là phải: “Chăm lo phát triển Mầm non”, đến năm 2020: “Xây dựng hoàn chỉnh và phát triển cấp học Mầm non cho hầu hết trẻ em trong độ tuổi. Phổ biến kiến thức nuôi dạy trẻ cho các gia đình” [2]. Do vậy, trong những năm qua Nhà nước đã tập trung đầu tư rất lớn cho giáo dục mầm non.
Xu thế hội nhập và toàn cầu hóa, nền kinh tế thị trường phát triển mạnh tạo nên sự thay đổi về nhu cầu giáo dục của xã hội. Nền kinh tế càng phát triển thì đòi hỏi về dịch vụ chăm sóc, giáo dục trẻ lứa tuổi mầm non ngày càng tăng, nhất là chất lượng giáo dục trẻ mầm non. Khác với trước đây, chỉ có duy nhất hệ thống các trường mầm non công lập, thì ngày nay loại hình các trường, lớp mầm non tư thục, nhóm trẻ gia đình chất lượng cao gia tăng rất nhanh và mạnh, đặc biệt là ở những khu vực phát triển mạnh cũng như các khu vực có mật độ dân cư đông đúc, đã đáp ứng được phần nào nhu cầu của đại bộ phận phụ huynh có mức thu nhập từ trung bình khá trở lên. Hệ thống trường mầm non tư thục ra đời đã chia sẻ được gánh nặng về mối lo đưa trẻ ở độ tuổi mầm non tới trường. Việc xã hội hóa giáo dục, mở rộng các loại hình trường, lớp đã góp phần thu hút trẻ mầm non trong độ tuổi đến trường; đáp ứng được nhu cầu gửi trẻ rất lớn hiện nay trong khi còn thiếu nhiều cơ sở giáo dục mần non (GDMN) công lập. Luận văn: Hoạt động dạy học của trường mầm non tư thục
Ở trường mầm non, giáo viên là người trực tiếp đưa những nội dung giáo dục đến với trẻ theo từng lứa tuổi cụ thể. Phẩm chất đạo đức, trình độ nhận thức và khả năng tư duy sáng tạo của trẻ không chỉ phụ thuộc vào chương trình khung giáo dục mầm non, vào môi trường vui chơi học tập ở trường mà phụ thuộc nhiều vào chính phẩm chất và nhân cách, trình độ chuyên môn và năng lực tay nghề của giáo viên. Hội nghị Quốc tế “Bàn về giáo dục cho thế kỷ XXI” tại Giơnevơ nhấn mạnh: “Muốn có một nền giáo dục tốt, cần phải có những giáo viên tốt. Giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục”. Nói về vấn đề này, Luật Giáo dục (Điều 15 Chương I) nước ta nêu rõ: “Nhà giáo giữ vai trò quyết định trong việc đảm bảo chất lượng giáo dục. Nhà giáo phải không ngừng học tập, rèn luyện, nêu gương tốt cho người học” [12,tr. 55]. Có thể thấy, hoạt động dạy học của người giáo viên mầm non chiếm giữ một vị trí then chốt trong hoạt động chăm sóc giáo dục được diễn ra tại các cơ sở giáo dục mầm non.
Giáo viên mầm non của trường mầm non tư thục (MNTT) cũng chia làm hai khối: nhà trẻ và mẫu giáo với các chức năng và nhiệm vụ khác nhau nhưng điều xuất phát từ những yêu cầu cụ thể tại điều 22, Quy chế tổ chức và hoạt động trường mầm non tư thục, của Bộ GD&ĐT ban hành 25/07/2008 như sau: “Thực hiện các nhiệm vụ nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em theo chương trình giáo dục mầm non: lập kế hoạch; xây dựng môi trường chăm sóc, giáo dục; tổ chức các hoạt động và chịu trách nhiệm về chất lượng nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em; quản lý và đánh giá sự phát triển của trẻ em. Tham gia các hoạt động khác của trường. Bảo đảm an toàn cho trẻ em trong thời gian ở nhà trường, nhà trẻ, nhóm trẻ, lớp mẫu giáo độc lập tư thục;…” (…). Nếu như khối nhà trẻ thiên về hoạt động chăm sóc thì giáo viên khối mẫu giáo lại dành nhiều thời gian đến hoạt động dạy học vì ở lứa tuổi mẫu giáo, trẻ đã thực hiện hầu hết các hoạt động tự phục vụ và hoạt động dạy học được thực hiện mỗi ngày với nhiều lĩnh vực, nội dung, hình thức và phương pháp khác nhau.
Thị xã Dĩ An là địa bàn tập trung người nhập cư khá đông đúc vì có nhiều khu công nghiệp cũng như có tốc độ phát triển khá mạnh mẽ. Hệ thống trường công lập không đủ sức để phục vụ vì vậy hệ thống trường mầm non tư thục (MNTT) được thành lập khá “dày đặc”. Học sinh phần lớn do không đủ điều kiện vào trường công lập do các điều kiện về hộ khẩu, vị trí làm việc, sở thích của bố mẹ… nên trẻ từ lứa tuổi mẫu giáo được gửi vào trường MNTT khá đông. Bên cạnh đó, chuỗi trường MNTT chất lượng cao cũng xuất hiện kịp thời nhằm phục vụ cho nhu cầu ngày càng cao của các bậc phụ huynh. Tuy nhiên, thời gian vừa qua, hiện tượng các trường mầm non tư thục diễn ra tình trạng các hoạt động dạy học chưa phù hợp, giáo viên không đủ chuẩn mà vẫn được đứng lớp… dẫn đến những bất cập về ngành GDMN, trường tư thục đối với xã hội. Để trường hoạt động tốt, trẻ phát triển toàn diện, đội ngũ giáo viên vừa “hồng” vừa “chuyên” có tay nghề, có đạo đức, có được niềm tin của phụ huynh, xã hội bên cạnh các yêu cầu về khâu chăm sóc thì quan trọng hơn hết vẫn là công tác quản lý tốt hoạt động dạy học của đội ngũ giáo viên, đó là một trong những nhu cầu cấp thiết hiện nay tại thị xã Dĩ An.
Xuất phát từ những lí do trên, đề tài “Quản lý hoạt động dạy học của giáo viên khối mẫu giáo tại một số trường mầm non tư thục trong địa bàn thị xã Dĩ An tỉnh Bình Dương” được chúng tôi chọn nghiên cứu dưới dạng Luận văn Thạc sĩ.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Quản Lý Giáo Dục
2. Mục đích nghiên cứu Luận văn: Hoạt động dạy học của trường mầm non tư thục
Trên cơ sở lý luận về quản lý hoạt động dạy học ở trường mầm non, phân tích thực trạng quản lý hoạt động dạy học của giáo viên khối mẫu giáo tại một số trường mầm non tư thục địa bàn thị xã Dĩ An tỉnh Bình Dương. Từ đó đề xuất các biện pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý hoạt động dạy học (HĐDH) của giáo viên khối mẫu giáo tại một số trường mầm non tư thục trong địa bàn thị xã Dĩ An tỉnh Bình Dương.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Công tác quản lý hoạt động dạy học của giáo viên khối mẫu giáo tại trường mầm non tư thục.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Công tác quản lý hoạt động dạy học của giáo viên khối mẫu giáo tại một số trường mầm non tư thục trong địa bàn thị xã Dĩ An tỉnh Bình Dương.
4. Giả thuyết khoa học Luận văn: Hoạt động dạy học của trường mầm non tư thục
Nếu đánh giá đúng thực trạng quản lý của cán bộ quản lý (CBQL) đối với hoạt động dạy học của giáo viên khối mẫu giáo tại một số trường mầm non tư thục trong địa bàn thị xã Dĩ An tỉnh Bình Dương thì sẽ tìm được các biện pháp quản lý hoạt động dạy học phù hợp, đáp ứng được yêu cầu mà thực tiễn đặt ra.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Hệ thống hóa cơ sở lý luận của đề tài về quản lý hoạt động dạy học của giáo viên khối mẫu giáo tại một số trường mầm non tư thục.
5.2. Đánh giá thực trạng quản lý hoạt động dạy học của giáo viên khối mẫu giáo tại một số trường mầm non tư thục trong địa bàn thị xã Dĩ An tỉnh Bình Dương
5.3. Đề xuất một số biện pháp nâng cao công tác quản lý hoạt động dạy học của giáo viên khối mẫu giáo tại một số trường mầm non tư thục trong địa bàn thị xã Dĩ An tỉnh Bình Dương.
5.4 Phân tích tác động của các biện pháp được đề xuất đến công tác quản lý hoạt động dạy học của giáo viên khối mẫu giáo tại một số trường mầm non tư thục trong địa bàn thị xã Dĩ An tỉnh Bình Dương.
6. Nội dung và phạm vi nghiên cứu
6.1. Giới hạn nội dung nghiên cứu
Đề tài chỉ nghiên cứu công tác quản lý hoạt động dạy học của giáo viên mẫu giáo nhằm thực hiện mục tiệu, nhiệm vụ dạy học được qui định trong chương trình chăm sóc giáo dục trẻ mẫu giáo hiện hành, dưới sự điều hành, lãnh đạo của hiệu trưởng nhà trường.
6.2. Giới hạn địa bàn nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên hai nhóm khách thể:
- 30 CBQL tại các trường MNTT trên địa bàn TX. Dĩ An.
- 70 giáo viên (GV) khối mẫu giáo đang trực tiếp chăm sóc và giáo dục trẻ
- một số trường MNTT trên địa bàn thị xã (TX) Dĩ An.
6.3. Giới hạn thời gian nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu thực trạng công tác quản lý hoạt động dạy học của giáo viên khối mẫu giáo ở một số trường MNTT trên địa bàn thị xã (TX) Dĩ An trong năm học 2016-2017
7. Phương pháp nghiên cứu Luận văn: Hoạt động dạy học của trường mầm non tư thục
7.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Tham khảo các công trình nghiên cứu, sách báo, tạp chí chuyên ngành về các vấn đề liên quan, từ đó hệ thống và khái quát hóa các khái niệm công cụ làm cơ sở lý luận cho đề tài.
7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Phương pháp quan sát
Dự giờ một số GV để tìm hiểu thêm về thực trạng dạy học và thực trạng quản lý hoạt động dạy học của giáo viên khối mẫu giáo.
7.2.2. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
Thực hiện điều tra bằng phiếu hỏi nhằm mục đích thu thập số liệu chứng minh cho giả thuyết. Tác giả sử dụng 2 mẫu phiếu hỏi nhằm điều tra 2 đối tượng là: CBQL và GVMN khối mẫu giáo. Với mục đích để đánh giá HĐDH của GV và công tác quản lý HĐDH của GV qua đó tìm hiểu những thuận lợi và khó khăn chung của công tác quản lý HĐDH và đề xuất một số biện pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý HĐDH của GV khối mẫu giáo tại một số trường MNTT trên địa bàn TX. Dĩ An tỉnh Bình Dương.
7.2.3. Phương pháp phỏng vấn
Tìm hiểu sâu về quản lý hoạt động dạy học của giáo viên khối mẫu giáo tại một số trường mầm non tư thục trong địa bàn thị xã Dĩ An tỉnh Bình Dương bằng cách phỏng vấn CBQL và GVMN khối mẫu giáo tại một số trường MNTT trên địa bàn TX. Dĩ An.
7.2.4. Phương pháp thực nghiệm
Thực nghiệm nhằm kiểm tra đánh giá, so sánh kết quả của hoạt động dạy học của giáo viên trước và sau khi áp dụng biện pháp được đề xuất.
7.2.5. Phương pháp toán thống kê
Xử lý các dữ kiện thu được phục vụ cho việc phân tích số liệu trong quá trình nghiên cứu.
8. Bố cục của luận văn
Mở đầu, nội dung gồm 3 chương, kết luận và kiến nghị.
Mở đầu
Nội dung
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý hoạt động dạy học của giáo viên khối mẫu giáo tại trường mầm non tư thục
Chương 2: Thực trạng quản lý hoạt động dạy học của giáo viên khối mẫu giáo tại một số trường mầm non tư thục trong địa bàn thị xã Dĩ An tỉnh Bình Dương
Chương 3: Một số biện pháp nâng cao công tác quản lý hoạt động dạy học của giáo viên khối mẫu giáo tại một số trường mầm non tư thục trong địa bàn thị xã Dĩ An tỉnh Bình Dương
Kết luận – Kiến nghị
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC CỦA GIÁO VIÊN KHỐI MẪU GIÁO TẠI TRƯỜNG MẦM NON TƯ THỤC
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Luận văn: Hoạt động dạy học của trường mầm non tư thục
1.1.1. Những nghiên cứu ở nước ngoài
Giáo dục mầm non được xem là giai đoạn nền tảng có ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển năng lực và nhân cách của trẻ em sau này. Trong đó hoạt động giảng dạy của giáo viên khối mẫu giáo đóng vai trò quan trọng vì đây là giai đoạn mà trẻ phát triển khối lượng tri thức, kỹ năng sống hình thành nhân cách. Chính vì vậy, các quốc gia trên thế giới đều quan tâm rất sớm đến việc nghiên cứu làm sao có thể quản lý hoạt động dạy học của giáo viên một cách hoàn thiện, hiệu quả, vừa tạo động lực, cảm hứng để giáo viên thực hiện tốt công tác giảng dạy cũng như giúp phát huy tối đa khả năng độc lập tư duy, cá tính và sức sáng tạo ở mỗi trẻ em.
Từ cuối thế kỷ XIV, vấn đề dạy học và quản lý hoạt động dạy học (HĐDH) đã được nhiều nhà giáo dục quan tâm, nổi bật nhất trong thời kỳ đó là: nhà giáo dục vĩ đại người Nga Jan Amos Komenxki (1592 – 1670) với tác phẩm Khoa sư phạm vĩ đại (1632) đã đưa ra quan điểm giáo dục phải thích ứng với thiên nhiên. Theo ông, quá trình dạy học để truyền thụ và tiếp nhận tri thức là phải dựa vào sự vật, hiện tượng do học sinh tự quan sát, tự suy nghĩ mà hiểu biết, không nên dùng uy quyền bắt buộc, gò ép người ta chấp nhận bất kỳ một điều gì. Ông cũng nêu ra một số nguyên tắc dạy học có giá trị rất lớn đó là: nguyên tắc trực quan, nguyên tắc phát huy tính tự giác tích cực của học sinh, nguyên tắc giảng dạy theo khả năng tiếp thu của học sinh [31].
Từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, khoa học giáo dục đã thực sự có sự biến đổi cả về lượng và chất. Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, các nhà nghiên cứu giáo dục đã đi sâu nghiên cứu về vai trò và trách nhiệm của đội ngũ cán bộ quản lý trong việc quản lý HĐDH trong nhà trường. V.P.Xtrezicodin, Jaxapov đã nghiên cứu và đề ra một số vấn đề quản lý (QL) của hiệu trưởng như vấn đề phân công nhiệm vụ giữa Hiệu trưởng và phó hiệu trưởng. Các tác giả đã thống nhất và khẳng định Hiệu trưởng phải là người lãnh đạo toàn diện và chịu trách nhiệm trong công tác QL nhà trường [22]. Luận văn: Hoạt động dạy học của trường mầm non tư thục
P.V. Zimin, M.I. Konđakop, N.I. Saxerdotop đã đi sâu nghiên cứu công tác lãnh đạo hoạt động giảng dạy, giáo dục trong nhà trường và xem đây là khâu then chốt trong công tác quản lý của hiệu trưởng. Các tác giả đều khẳng định: kết quả toàn bộ hoạt động quản lý của nhà trường phụ thuộc rất nhiều vào việc tổ chức đúng đắn và hợp lý hoạt động giảng dạy của đội ngũ giảng viên [22].
Lindberg và Swedlow đã định nghĩa: “Một người giáo viên chuyên nghiệp là người cam kết sẽ duy trì và phát triển xã hội thông qua việc giúp những người khác có được chất lượng cuộc sống khá hơn” [25]. Họ còn cho rằng, người giáo viên chuyên nghiệp cần đáp ứng được các yêu cầu về chuyên môn thông qua việc học tập và làm việc thực tế. Một đặc điểm khác của giáo viên mầm non chuyên nghiệp là không ngừng tiếp thu kiến thức mới để có được nền tảng kiến thức vững chắc trong lĩnh vực chuyên môn của mình, “là những người làm việc trong một nghề mà họ có ý thức tôn trọng đối với những điều mình làm… và không ngừng nỗ lực để duy trì và phát triển nhằm thoả mãn những tiêu chuẩn cao hơn không chỉ vì bản thân họ mà còn vì nghề họ đang làm” [22].
Ngày nay, mục tiêu của quá trình dạy học là đảm bảo và nâng cao chất lượng đào tạo. Chính vì vậy, bên cạnh những nhà nghiên cứu về giáo dục, trong thực tiễn đã có nhiều trường quan tâm, nghiên cứu việc quản lý HĐDH để tìm ra biện pháp quản lý phù hợp và hiệu quả nhất cho đơn vị của mình.
Tại Nhật Bản, liên quan đến vấn đề quản lý hoạt động giảng dạy của giáo viên mầm non đã có rất nhiều các nghiên cứu có giá trị, Minoura Yasuko – đại học Ochanomizu trong quyển “Vài nét về giáo dục mầm non Nhật Bản” đã đề cập đến tầm quan trọng của sự tự quyết của giáo viên, trong đó các quy định của chính phủ về phương pháp và nội dung giáo dục trước tuổi học được giới hạn thiết kế, nên những chỉ dẫn có tính cơ bản, trong khi việc hiện thực hóa hướng dẫn này lại phụ thuộc vào cá nhân từng trường mẫu giáo, cá nhân từng giáo viên, điều này không giống với các giáo viên Việt Nam, giáo viên Việt Nam tiến hành các hoạt động trung thành với những gì đã quy định chi tiết cụ thể của các cấp quản lý. Các giáo viên trước buổi học ở Nhật tham gia trực tiếp vào giáo dục trẻ, họ có quyền tự quyết rất lớn về cách dạy và nội dung dạy [61].
Hầu hết các nhà nghiên cứu giáo dục và thực tiễn hoạt động giáo dục tại một số trường đều nêu cụ thể các khuynh hướng giáo dục, sứ mạng của dạy và học đồng thời cũng chỉ ra những cách thức quản lý một lớp học cũng như quản lý HĐDH cho có hiệu quả để hoàn thành mục tiêu chung. Như vậy, những vấn đề về QLGD đã được nhiều tổ chức, nhà giáo dục hàng đầu trên thế giới quan tâm và nghiên cứu như một vấn đề nổi trội trong công cuộc đưa giáo dục trở thành một lĩnh vực quan trọng đúng với vai trò của nó.
1.1.2. Những nghiên cứu ở Việt Nam Luận văn: Hoạt động dạy học của trường mầm non tư thục
Việt Nam là đất nước xem trọng giáo dục cũng như thấy rõ được tầm quan trọng của công tác quản lý ở cơ sở giáo dục. Quản lý HĐDH là một công việc mang tính thách thức của hiệu trưởng đặc biệt là trong giai đoạn phát triển mạnh mẽ về khoa học kỹ thuật hiện đại. Chính vì vậy, tại Việt Nam cũng có rất nhiều tác giả đã quan tâm nghiên cứu đến HĐDH cũng như công tác quản lý HĐDH để tìm ra những biện pháp hữu hiệu nhằm giúp các hiệu trưởng thực hiện tốt mục tiêu giáo dục của nhà trường.
Các nhà tâm lý học trẻ em Nguyễn Ánh Tuyết, Nguyễn Quang Uẩn, Phạm Minh Hạc xác định rõ dạy và học là hai thành tố có tác động qua lại trong giáo dục trẻ từ 0-6 tuổi. Vai trò của người thầy trong mối tương tác hai chiều này cũng được các tác giả nhấn mạnh thông qua việc nghiên cứu tường lứa tuổi với các đặc điểm tâm lí tương ứng [26], [33], [57].
Cùng với các nhà tâm lý học, các nhà giáo dục học với các giáo trình dạy học cho trẻ em cũng xác định rõ nội dung, nhiệm vu, phương pháp và hình thức dạy học cho trẻ từ 0-6 tuổi ở trường mầm non thông qua hoạt động dạy học của GVMN. Điều này được các tác giả Nguyễn Ánh Tuyết, Phạm Minh Hạc thể hiện rõ trong các giáo trình về Giáo dục học trẻ em lứa tuổi mầm non [26], [52],[59]. Năm 1998, tác giả Đinh Văn Vang và Trịnh Dân với giáo trình Giáo dục học trẻ em, tập 2, phần 2 xuất bản tại nhà xuất bản (XB) ĐH Sư Phạm cùng với việc hệ thống lại toàn bộ các cơ sở lý luận (CSLL) về giáo dục trẻ em trước tuổi học như các khái niệm, phương pháp, hình thức và nội dung giáo dục đã nhấn mạnh vai trò của việc quản lý hoạt động dạy học của giáo viên mầm non tại trường mầm non. Đây được xem như “kim chỉ nam” trong việc định hướng và thực hiện các nhiệm vụ quản lý chủ yếu tại các cơ sở GDMN [58].
Tiếp nối các nghiên cứu về tâm lý học và giáo dục học về hoạt động dạy học của giáo viên ở trường mầm non là các công trình nghiên cứu về quản lý hoạt động dạy học và quản lý hoạt động dạy học của giáo viên mầm non tại các cơ sơ giáo dục mầm non.
Dịch giả Nguyễn Lợi (1992) với tác phẩm Những vấn đề cốt yếu của quản lý đưa ra các khái niệm cơ bản nhất về công tác quản lý mà nhất là quản lý về nhân sự trong các cơ sở giáo dục [38].
Nguyễn Thế Vinh, Tạ Văn Doanh, Nguyễn Văn Tường với Nghiệp vụ quản lý trường mầm non đã hệ thống lại các nội dung trong công tác quản lý chung về con người, cơ sở vật chất và hoạt động chăm sóc giáo dục tạo các trường mầm non vào năm 1996. Nhóm tác giả cũng đồng thời nghiên cứu về Lý luận quản lý vận dụng và quản lý trường mầm non được giới chuyên môn đánh giá cao bởi các lý luận và vận dụng sát thực với thực tiễn GDMN Việt Nam hiện nay [59].
Bác Hồ đã từng dạy: “về cách học phải lấy tự học làm cốt”.Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng yêu cầu “Ngành giáo dục và đào tạo phải vũ trang cho mình phương pháp giảng dạy, phát huy vai trò chủ động của người học, giải đáp tốt bốn câu hỏi: dạy ai? Dạy cái gì? Dạy như thế nào? Dạy để làm gì?” [59].
Các tác giả như: Nguyễn Ngọc Quang với “Những khái niệm cơ bản về lý luận quản lý giáo dục”, Trần Kiểm với “Khoa học quản lý giáo dục”, Hoàng Chúng, Phạm Thanh Liêm với “Một số vấn đề về lý luận quản lý giáo dục”….đã nghiên cứu và đi sâu vào những bình diện khác nhau nhưng đều giải quyết mối quan hệ giữa giáo viên và nhà quản lý, những nội dung quản lý HĐDH của hiệu trưởng, những nguyên tắc quản lý giáo dục và quản lý trường học [44].
Tuy nhiên, các vấn đề quản lý giáo dục, quản lý trường học và quản lý HĐDH mới chỉ được các tác giả đề cập ở bình diện tổng quát, mang tính nguyên tắc chứ chưa cụ thể cho công tác quản lý hoạt động giảng dạy trong thực tiễn.
Trong lĩnh vực Giáo dục mầm non, QL HĐDH cũng là một vấn đề được quan tâm. Chương trình bồi dưỡng cán bộ quản lý trường mầm non được ban hành kèm theo Quyết định số 382/QĐ-BGD&ĐT ngày 20/01/2012 của Bộ trưởng Bộ GD & ĐT với mục tiêu nhằm bồi dưỡng, phát triển kiến thức, kỹ năng cơ bản về quản lý trường mầm non, phát triển năng lực của CBQL về lãnh đạo và quản lý trường mầm non trong môi trường có nhiều thay đổi, biết gắn tầm nhìn với hành động, phát huy những giá trị của tổ chức và xã hội theo định hướng đổi mới căn bản và toàn diện GD&ĐT, nâng cao chất lượng GD&ĐT trong bối cảnh hội nhập quốc tế [9].
Dưới góc độ quản lý nhà nước, vấn đề nâng cao chất lượng chăm sóc – giáo dục trẻ MN được Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm. Nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đã được ban hành nhằm nâng cao chất lượng của bậc học này. Những vấn đề cơ bản của bậc học cũng đã được “luật hóa” trong Luật Giáo dục. Để nâng cao chất lượng bậc học, đáp ứng được yêu cầu của việc hiện đại hóa nền giáo dục, nhiều giải pháp quản lý đã được đưa ra, trong đó, Điều 24 Luật giáo dục đã qui định về việc “Xây dựng chương trình chăm sóc giáo dục mầm non mới”. Thực hiện Luật GD, Bộ Giáo dục – Đào tạo đã tích cực soạn thảo chương trình chăm sóc – giáo dục MN mới. Chương trình đã được triển khai thí điểm trong hai năm 2005- 2006 và bắt đầu thực hiện đại trà trong năm 2007. Bộ GD&ĐT cùng với vụ GDMN cũng đã đưa ra một số giải pháp quản lý để thực hiện tốt chương trình này. Tuy nhiên, những giải pháp này chỉ mới có tính định hướng và chủ yếu dành cho các trường MN công lập. Từ 1994 đến nay đã hình thành một hệ thống cơ sở GDMN ngoài công lập với số lượng trẻ ngày càng tăng, số trường lớp được mở rộng một cách nhanh chóng. Cùng với số lượng, chất lượng của các trường tư thục cũng dần dần được nâng cao, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của xã hội về bậc học này [12].
Để quản lý có hiệu quả các cơ sở GDMN tư thục, Bộ Giáo dục- Đào tạo đã ban hành Qui chế “Tổ chức và hoạt động trường Mầm non tư thục” kèm theo Quyết định số 41/2008/QĐ/ BGDĐT ngày 25 tháng 7 năm 2008. Tại Điều 3 của Quy chế đã nêu rõ “nhiệm vụ, quyền hạn của nhà trường, nhà trẻ nhóm trẻ, lớp mẫu giáo độc lập, tư thục”; qui định việc tổ chức thực hiện việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em từ 03 tháng tuổi đến 06 tuổi theo chương trình giáo dục mầm non do Bộ Giáo dục đào tạo ban hành…; tự chủ, tự chịu trách nhiệm về quy hoạch kế hoạch phát triển, tổ chức các hoạt động giáo dục, xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên, huy động, sử dụng và quản lý các nguồn lực để thực hiện mục tiêu giáo dục mầm non, góp phần cùng nhà nước chăm lo sự nghiệp giáo dục, đáp ứng yêu cầu xã hội. Thông tư 13/ 2015/TT-BGDĐT của Bộ Giáo dục-Đào tạo ban hành ngày 30/6/2015 đã bổ sung, điều chỉnh một số điều trong Quyết định số 41/2008/QĐ/ BGDĐT nhằm tiếp tục nâng cao chất lượng Chăm sóc- giáo dục trẻ ở các trường MNTT [5] [6],[3]
Nhằm giúp các cơ quan quản lý nhà nước có những giải pháp nâng cao chất lượng bậc học MN, ngày 25/3/2011, Hội thảo “Phát triển chăm sóc và giáo dục Mầm non Việt Nam: Vấn đề và giải pháp” do Bộ GD&ĐT phối hợp với Ngân hàng thế giới đã được tổ chức tại Hà Nội đã thu hút sự tham gia của đông đảo các nhà giáo dục, các nhà quản lý giáo dục mầm non [8].
Trong khoa học quản lý, vấn đề quản lý chất lượng GDMN cũng đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của một số tác giả dưới nhiều góc độ khác nhau như: Nguyễn Hữu Châu, Phan Văn Kha, Nguyễn Thị Hoài An, Tạ Thị Ngọc Thanh, Nguyễn Thị Thanh Tâm, Trần Thị Bích Trà, Đinh Văn Vang, …[59].
Năm 2004, Ban Bí thư Trung ương Đảng cũng đã có chỉ thị Về xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục để kịp thời vạch ra đường lối trong việc xây dựng đội ngũ giáo viên chất lượng phù hợp cho gia đoạn phát triển tiếp theo trong đó chỉ rõ vai trò của người GVMN trong bậc học đầu tiên ở Việt nam [1].
Tác giả Nguyễn Thị Bích Hạnh với Cẩm nang nghiệp vụ quản lý giáo dục mầm non kiến thức và kĩ năng cũng xác định rõ vai trò hoạt động dạy học là một trong những hoạt động chủ đạo góp phần tạo được giá trị của người giáo viên mầm non tại các cơ sở GDMN [28]. Luận văn: Hoạt động dạy học của trường mầm non tư thục
Tác giả Vũ Đức Đạm (2005) với luận văn thạc sĩ “Một số giải pháp quản lý phát triển đội ngũ giáo viên mầm non trên địa bàn huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh” cũng dã hệ thống lại cơ sở lý luận về việc phát triển GVMN trong đó nhấn mạnh nội dung về quản lý hoạt động dạy học của giáo viên là một tỏng những giải pháp quan trọng [24].
Năm 2011, tác giả Nguyễn Hữu Lê Thuyên với nghiên cứu “Thực trạng công tác QL việc bồi dưỡng chuyên môn cho GV ở một số trường MN tại TP. HCM” và tác giả Phạm Nguyễn Trâm Anh với nghiên cứu “Thực trạng phát triển đội ngũ CBQL các trường MN công lập tại Q10, TP.HCM” đã được hội đồng Bảo vệ Luận văn thạc sỹ chuyên ngành QLGD tại ĐH Sư Phạm TP. HCM đánh giá cao về kết quả nghiên cứu vì đã hệ thống khá đầy đủ bức tranh toàn cảnh về khía cạnh quản lí trong giáo dục mầm non tại TP.HCM vào thời điểm đó [50].
Trần Thị Bích Trà và nhóm nghiên cứu trong đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ: “Nghiên cứu các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc- giáo dục trẻ ở các trường mẫu giáo ngoài công lập” đã đề xuất được các giải pháp nâng cao chất lượng chăm sóc – giáo dục trẻ ở các trường mẫu giáo ngoài công lập [55].
Nghiên cứu “Quản lý chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ ở các trường mầm non tư thục tại TP. HCM” của tác giả Lê Thị Thu Ba trong luận án tiến sỹ được công bố tại ĐH Vinh năm 2011 đã một lần nữa khẳng định vai trò của việc quản lý GVMN trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ tại các cơ sở giáo dục mầm non đặc biệt là mầm non tư thục. Kết quả nghiên cứu đã mở ra một hướng đi mới, một cái nhìn mới, một định hướng mới cho hệ thống các trường mầm non tư thục trong việc tự khẳng định vị trí của mình trong bức tranh toàn của của ngành GDMN [20].
Năm 2012, tác giả Đỗ Thị Hồng đã trình bày trước hội đồng khoa học trường ĐH SP TP. HCM đề tài “Thực trạng công tác quản lý đội ngũ giáo viên trường trung học phổ thông tại Bà Rịa – Vũng Tàu” trong đó đưa ra thực trạng chung về công tác quản lý giáo viên PTTH hiện nay [31].
Năm 2015, tác giả Nguyễn Thị Bạch Mai với luận án tiến sĩ Phát triển giáo viên mầm non đáp ứng yêu cầu giáo dục mầm non của trẻ 5 tuổi tại các tỉnh Tây Nguyên đã tổng quát toàn bộ CSLL trong việc phát triển giáo viên mầm non nhằm đáp ứng nhu cầu giáo dục hiện nay tại các tỉnh Tây Nguyên [39].
Tác giả Huỳnh Văn Sơn, Trần Thị Ngọc Chúc, Quang Thục Hảo khi nghiên cứu về thực trạng nuôi dạy trẻ của nhóm lớp mầm non tư thục tại TP. Hồ Chí Minh đã đưa ra những giải pháp thiết thực về định hướng công tác đào tạo và sử dụng giáo viên mầm non [45].
Như vậy, các nghiên cứu trong và ngoài nước đều cho thấy tầm quan trọng của việc công tác đào tạo và quản lý giáo viên, hoạt động dạy học cũng như hoạt động dạy học của GVMN tại các trường mầm non. Tuy nhiên, vẫn chưa có nghiên cứu đi sâu vào việc quản lý hoạt động dạy học, một trong những hoạt động quan trọng của giáo viên mầm non đặc biệt là giáo viên khối mẫu giáo. Các nghiên cứu chủ yếu cũng thực hiện trong hệ thống các trường mầm non công lập, đạt chuẩn mà chưa đi sâu vào các trường mầm non tư thục, vốn đang là một trong những “đề tài nóng” trong suốt thời gian vừa qua.
1.2. Các khái niệm công cụ về quản lý hoạt động dạy học của giáo viên khối mẫu giáo tại một số trường mầm non tư thục Luận văn: Hoạt động dạy học của trường mầm non tư thục
1.2.1. Quản lý
Để tồn tại và phát triển, con người không thể hành động riêng lẻ mà cần phối hợp những nỗ lực cá nhân hướng tới những mục tiêu chung. Chính từ sự phân công, chuyên môn hóa lao động đã xuất hiện một dạng lao động đặc biệt – lao động quản lý.
Như vậy, quản lý (QL) là một hoạt động lao động tất yếu và cần thiết trong quá trình phát triển của xã hội loài người. Sự cần thiết ấy đã được Mác khẳng định bằng ý tưởng độc đáo và đầy sức thuyết phục như một người độc tấu vĩ cầm tự mình điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng”.
Khái niệm quản lý là khái niệm rất chung, rất tổng quát. Nó dùng cho cả quá trình quản lý xã hội (xí nghiệp, trường học, đoàn thể…), quản lý giới vô sinh (máy móc, đường sá, hầm mỏ …) cũng như quản lý giới sinh vật (vật nuôi, cây trồng…). Mọi hoạt động của xã hội đều cần tới quản lý. Quản lý vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật trong việc điều khiển một hệ thống xã hội cả ở tầm vĩ mô và vi mô.
Trong quá trình hình thành và phát triển của lý luận QL, tùy theo cách tiếp cận mà khái niệm QL đã được các nhà nghiên cứu định nghĩa theo nhiều cách khác nhau. Tuy vậy nhưng chúng ta có thể nhận thấy khái niệm quản lý bao hàm những ý nghĩa chung đó là:
- Theo A.Fayol, nhà lý luận quản lý kinh tế: Quản lý tức là lập kế hoạch, tổ chức, chỉ huy, phối hợp và kiểm tra.
- Theo Mary Parker Follet (Mĩ): Quản lý là nghệ thuật khiến công việc được thực hiện thông qua người khác.
- Theo Frederich Winslow Taylor (1856-1915), nhà thực hành quản lý lao động: Quản lý là biết được chính xác điều bạn muốn người khác làm, và sau đó hiểu được rằng họ đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất và rẻ nhất.
- Việt Nam các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học quản lý và trong lĩnh vực khoa học giáo dục đưa ra các định nghĩa khác nhau về thuật ngữ “Quản lý” dựa trên cơ sở những cách tiếp cận khác nhau. Có thể nêu ra một số quan niệm khác nhau như sau:
Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu đề ra. Quản lý là nhằm phối hợp nỗ lực của nhiều người, sao cho mục tiêu của từng cá nhân biến thành những thành tựu của xã hội. Quản lý là những tác động của chủ thể quản lý trong việc huy động, phát huy, kết hợp, sử dụng, điều chỉnh, điều phối, các nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực) trong và ngoài tổ chức (chủ yếu là nội lực) một cách tối ưu nhằm đạt mục đích của tổ chức với hiệu quả cao nhất [36].
Quản lý là các hoạt động thực hiện nhằm đảm bảo hoàn thành công việc qua những nỗ lực của mọi người trong tổ chức, là một hoạt động thiết yếu đảm bảo phối hợp những nỗ lực cá nhân nhằm đạt được các mục đích của nhóm, là phương thức tốt nhất để đạt được mục tiêu chung của một nhóm người, một tổ chức, một cơ quan hay nói rộng hơn là một nhà nước. Luận văn: Hoạt động dạy học của trường mầm non tư thục
Như vậy, ta có thể khái quát: quản lý là một quá trình tác động có tổ chức, hướng đích của chủ thể quản lý lên khách thể quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các tiềm năng và cơ hội của tổ chức để đạt được mục tiêu đề ra bằng việc lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra.
Các chức năng của quản lý
Chức năng quản lý là một hoạt động cơ bản mà thông qua đó chủ thể quản lý tác động vào khách thể quản lý nhằm thực hiện các mục tiêu xác định. Chức năng quản lý chiếm giữ vị trí then chốt, nó gắn liền với nội dung của hoạt động điều hành ở mọi cấp.
Quản lý có 4 chức năng chủ yếu sau đây [60]:
Chức năng lập kế hoạch: Kế hoạch được hiểu khái quát là một bảng ghi nhận những mục tiêu cơ bản, là một chương trình hành động cụ thể được hoạch định trước khi tiến hành thực hiện những nội dung nào đó mà chủ thể QL đã đề ra. Lập kế hoạch bao gồm: xác định chức năng, nhiệm vụ và các công việc của đơn vị, dự báo, đánh giá triển vọng, đề ra mục tiêu, chương trình, xác định tiến độ, xác định ngân sách, xây dựng các nguyên tắc tiêu chuẩn, xây dựng các thể thực thực hiện.
Chức năng tổ chức: Tổ chức là sắp xếp, sắp đặt một cách khoa học những yếu tố, những con người, những dạng hoạt động thành một hệ toàn vẹn nhằm đảm bảo cho chúng tương tác với nhau một cách tối ưu.
Chức năng chỉ đạo: Là huy động lực lượng để thực hiện kế hoạch, là biến những mục tiêu trong dự kiến thành kết quả hiện thực. Phải giám sát các hoạt động, các trạng thái vận hành của hệ thống đúng tiến trình, đúng kế hoạch. Khi cần thiết phải điều chỉnh, sửa đổi, uốn nắn nhưng không làm thay đổi mục tiêu hướng vận hành của hệ thống nhằm giữ vững mục tiêu chiến lược đề ra.
Chức năng kiểm tra, đánh giá: Nhiệm vụ của kiểm tra nhằm đánh giá trạng thái của hệ thống, xem mục tiêu dự kiến ban đầu và toàn bộ kế hoạch đã đạt tới mức độ nào. Kiểm tra nhằm kịp thời phát hiện những sai sót trong quá trình hành động, tìm ra nguyên nhân thành công, thất bại, giúp cho chủ thể quản lý rút ra những bài học kinh nghiệm. Theo lý thuyết hệ thống, kiểm tra là giữ vai trò liên hệ nghịch, là trái tim mạch máu của hoạt động quản lý. Có kiểm tra mà không đánh giá coi như không có kiểm tra, không có kiểm tra coi như không có hoạt động quản lý.
Ngoài 4 chức năng trên, cần lưu ý rằng, trong mọi hoạt động của quản lý, thông tin có vai trò vô cùng quan trọng. Chính vì vậy, trong nhiều nghiên cứu gần đây đã coi thông tin như một chức năng trung tâm liên quan đến các chức năng quản lý khác. Nếu thiếu hoặc sai lệch thông tin thì công tác quản lý gặp nhiều khó khăn, tạo lên những quyết định sai lầm, khiến công tác quản lý kém hiệu quả hoặc thất bại.
1.2.2. Hoạt động dạy học Luận văn: Hoạt động dạy học của trường mầm non tư thục
Hoạt động dạy học (HĐDH) là hệ thống những hành động phối hợp, tương tác giữa người dạy và người học, trong đó, dưới tác động chủ đạo của người dạy, người học tự giác, tích cực, chủ động lĩnh hội hệ thống tri thức khoa học, kỹ năng, kỹ xảo, phát triển năng lực nhận thức, năng lực hành động, hình thành thế giới quan khoa học và những phẩm chất của nhân cách [25].
Từ khái niệm trên, có thể thấy HĐDH là một hoạt động kép bao gồm hoạt động dạy của người thầy và hoạt động học của người trò. Trong đó, dạy giữ vai trò chủ đạo, dạy hướng đến học, dạy thúc đẩy học và làm cho học thành công; học giữ vai trò chủ động, tự giác, tích cực, độc lập và sáng tạo. Hai hoạt động dạy và học này song song tồn tại và phát triển trong sự thống nhất, tương tác lẫn nhau.
Vai trò của người dạy là định hướng tổ chức, thực hiện việc truyền thụ kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo đến người học một cách hợp lý, khoa học, do đó luôn luôn có vai trò và tác dụng chủ đạo. Về phía người học, tiếp thu một cách có ý thức, độc lập và sáng tạo hệ thống kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo, hình thành năng lực và thái độ đúng đắn. Người học là chủ thể sáng tạo của việc học, của việc hình thành nhân cách cho bản thân. Các cung bậc hoạt động của người dạy tùy thuộc vào khả năng của người học. Trường hợp lý tưởng nhất là người dạy chỉ đóng vai trò hướng dẫn, chủ yếu là định hướng cho người học hoạt động trong môi trường sư phạm, còn người học tự mình giải quyết nội dung công việc. Chính vì vậy, HĐDH là hai mặt của một quá trình bổ sung cho nhau, cái này chế ước và là tác động quan trọng của cái kia, là động lực bên trong kích thích mỗi chủ thể phát triển.
Trong khi đó, trường mầm non là một loại hình cơ sở giáo dục đặc biệt vì đối tượng học chính là trẻ em trước tuổi học. Để trang bị cho trẻ đầy đủ hành trang bước vào trường phổ thông mà nhất là lớp 1, trẻ mẫu giáo cũng có những giờ học được thiết kế theo tinh thần “học mà chơi, chơi mà học”. Chính vì đặc thù này mà GVMN có một hoạt động dạy học hết sức đặc thù mà không cấp học nào có thể thay thế được. Tuy vậy nó vẫn mang đầy đủ bản chất của HĐDH chính là một dạng hoạt động đặc trưng của loài người, với bản chất nổi bật là: hoạt động nhận thức độc đáo của người học dưới sự hướng dẫn của người dạy.
Vậy HĐDH là một quá trình gồm hai hành động song hành nhưng phối hợp, tương tác nhau giữa hoạt động dạy (định hướng, dẫn dắt và truyền thụ) của người GV và hoạt động học của học sinh (tự giác, tích cực, chủ động) trong quá trình nhận thức thế giới quan khoa học và năng lực của bản thân.
Quá trình DH là một quá trình xã hội, gắn liền hoạt động dạy của thầy và hoạt động học của trò với tư cách là hoạt động của hai chủ thể. HĐDH bao gồm nhiều hoạt động, quan hệ đến nhiều đối tượng, đến nhiều mặt, nhiều lĩnh vực, nhiều phương diện rất đa dạng và phong phú. Có thể nói một cách khái quát là mọi hoạt động trong nhà trường đều nhằm tạo điều kiện tốt nhất để HĐDH đạt chất lượng và hiệu quả cao nhất.
1.2.3. Giáo viên mầm non
Giáo viên mầm non là những người được được đào tạo theo chuyên ngành Giáo dục mầm non ở các trường sư phạm, có bằng cấp nhất định. Trong trường mầm non có giáo viên nhà trẻ và giáo viên mẫu giáo, còn trong trường mẫu giáo chỉ có giáo viên mẫu giáo, trong nhà trẻ có giáo viên nhà trẻ. Trong mỗi một nhóm/lớp có thể chỉ có 1 giáo viên hoặc có thể có một vài giáo viên, tùy thuộc vào số lượng trẻ trong một lớp. Trong nhóm/lớp nhà trẻ, mẫu giáo có thể có giáo viên chính thức và giáo viên tập sự (là giáo viên mới vào nghề cùng làm việc với giáo viên chính thức, có kinh nghiệm để hướng dẫn, kèm cặp giúp đỡ về chuyên môn). Trong một lớp cũng có thể có giáo viên chính và cô nuôi, mà ở đó, giáo viên mầm non thực hiện nhiệm vụ giáo dục và giảng dạy trẻ, còn cô nuôi chăm lo việc chăm sóc nuôi dưỡng trẻ. Luận văn: Hoạt động dạy học của trường mầm non tư thục
Tại điều 34, Điều lệ trường mầm non được được Bộ GD&ĐT ban hành tại quyết định số 04/VBHN-BGDĐT ngày 24/12/2015 quy định “Giáo viên trong các cơ sở giáo dục mầm non là người làm nhiệm vụ nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em trong nhà trường, nhà trẻ, nhóm trẻ, lớp mẫu giáo độc lập”. Trình độ chuẩn được đào tạo của giáo viên mầm non là có bằng tốt nghiệp trung cấp sư phạm mầm non. Nhờ được đào tạo, giáo viên mầm non có được những tri thức về sự phát triển trẻ em, hiểu biết về chương trình và phương pháp nuôi dưỡng chăm sóc, giáo dục trẻ em, kỹ năng nhất định để thực hiện nhiệm vụ chăm sóc giáo dục trẻ em dưới 6 tuổi, đáp ứng nhu cầu xã hội ngày càng tăng về phát triển con người mới trong xu thế hội nhập và toàn cầu hoá. Tuy nhiên trong tương lai, giáo viên làm trong các trường mầm non phải có bằng tốt nghiệp cao đẳng sư phạm mầm non trở lên
Vậy giáo viên mầm non là người làm việc tại một trong các loại cơ sở giáo dục mầm non, đảm nhận công tác chăm sóc và giáo dục trẻ em dưới 6 tuổi. Giáo viên mẫu giáo là người trực tiếp thực hiện nhiệm vụ chăm sóc-giáo dục trẻ từ 3-6 tuổi.
Vai trò, nhiệm vụ của GVMN ở trường MN
Điều trước tiên không thể thiếu ở giáo viên mầm non là tình yêu thương đối với trẻ, luôn luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm của mình, thực sự là người mẹ hiền thứ hai và kiên trì trong quá trình dạy trẻ, có lòng nhiệt tình và có lòng ham muốn môn học. Nắm vững phương pháp giáo dục dành cho trẻ, phải tìm các giải pháp và sử dụng các biện pháp dạy trẻ sao cho phù hợp, sáng tạo và thường xuyên thay đổi các hình thức tổ chức cho trẻ để tránh sự nhàm chán. Giáo viên phải là người có kinh nghiệm, phải có tính linh hoạt, tính tích cực tìm tòi, sáng tạo, học hỏi kinh nghiệm qua mạng, từ bạn bè đồng nghiệp, là người có kiến thức chuyên môn vững vàng
GVMN khối mẫu giáo
Giáo viên mầm non khối mẫu giáo là những người thực hiện việc nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục trẻ em từ 3 tuổi đến 6 tuổi trong trường mầm non, nhà trẻ, trường mẫu giáo.
Trường mẫu giáo chú trọng mặt giáo dục cho trẻ, còn trường mầm non chú trọng về mặt nuôi và chăm sóc, vì vậy muốn được tuyển dụng vào trường mẫu giáo, giáo viên phải có giấy chứng nhận giáo viên trường mẫu giáo, là người tốt nghiệp chuyên ngành GDMN tại các trường Cao đẳng, Đại học/ GV biên chế trường mầm non cấp 1, cấp 2, hoàn thành các môn học liên quan đến chuyên ngành ở trường cao đẳng, đại học hay các cơ quan liên quan/ giấy chứng nhận giáo viên mầm non cấp 1, cấp 2, cấp 3.
1.2.4. Trường mầm non tư thục Luận văn: Hoạt động dạy học của trường mầm non tư thục
Theo điều 2 thông tư 13/2015/TT-BGDĐT, ban hành ngày 30 tháng 06 năm 2015 thì trường mầm non và cơ sở mầm non tư thục được hiểu như sau:
Nhà trường, nhà trẻ, nhóm trẻ, lớp mẫu giáo độc lập tư thục là cơ sở giáo dục mầm non thuộc hệ thống giáo dục quốc dân, do tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, tổ chức kinh tế hoặc cá nhân thành lập khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép. Nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và bảo đảm kinh phí hoạt động là nguồn ngoài ngân sách nhà nước.[6]
Như vậy, trường mầm non (mẫu giáo) tư thục là cơ sở giáo dục mầm non được thành lập và đảm bảo kinh phí hoạt động bởi một tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, tổ chức kinh tế hoặc cá nhân và nguồn vốn đầu tư đảm bảo hoạt động cho cơ sở này sẽ được xuất phát từ nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước.
Ngoài ra, theo quy định về phân cấp quản lý nhà nước đối với nhà trường, nhà trẻ, nhóm trẻ, lớp mẫu giáo độc lập (điều 5 thông tư 13/2015/TT-BGDĐT, ban hành ngày 30 tháng 06 năm 2015) thì Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) quản lý nhà trường, nhà trẻ dân lập; nhà trường, nhà trẻ tư thục và các nhóm trẻ, lớp mẫu giáo độc lập trên địa bàn.
Hoạt động của trường MNTT
Tại Điều 2, Điều lệ trường mầm non ban hành tại quyết định số 04/VBHN-BGDĐT ngày 24 tháng 12 năm 2015 của Bộ GD&ĐT thì Nhiệm vụ và quyền hạn của trường mầm non, trường mẫu giáo gồm:
Tổ chức thực hiện việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em từ ba tháng tuổi đến sáu tuổi theo chương trình giáo dục mầm non do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành.
Huy động trẻ em lứa tuổi mầm non đến trường; tổ chức giáo dục hòa nhập cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, trẻ em khuyết tật; thực hiện phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em năm tuổi. Hằng năm, tự kiểm tra theo tiêu chuẩn quy định về phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em năm tuổi, báo cáo cấp có thẩm quyền bằng văn bản.
Quản lý cán bộ, giáo viên, nhân viên để thực hiện nhiệm vụ nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
Huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực theo quy định của pháp luật.
Xây dựng cơ sở vật chất theo yêu cầu chuẩn hóa, hiện đại hóa hoặc theo yêu cầu tối thiểu đối với vùng đặc biệt khó khăn.
Phối hợp với gia đình trẻ em, tổ chức và cá nhân để thực hiện hoạt động nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
Tổ chức cho cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên và trẻ em tham gia các hoạt động xã hội trong cộng đồng.
Thực hiện kiểm định chất lượng nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ em theo quy định.
Thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.
1.2.5. Quản lý hoạt động dạy học của giáo viên khối mẫu giáo tại một số trường mầm non tư thục Luận văn: Hoạt động dạy học của trường mầm non tư thục
Từ khái niệm quản lý, khái niệm hoạt động dạy học, ta thấy:
Quản lý HĐDH là quá trình quản lý sao cho bốn nhân tố then chốt: mục tiêu dạy học, nội dung dạy học, phương pháp dạy học, kết quả dạy học trong quá trình ấy được tương tác, thống nhất với nhau.
Nói tóm lại, quản lý HĐDH là quá trình tạo điều kiện và tác động cho sự cộng tác tối ưu giữa người dạy và người học, nhằm xác định đúng mục tiêu, lựa chọn nội dung chương trình thích hợp, thực hiện đúng kế hoạch, áp dụng hài hòa các phương pháp, tận dụng các phương tiện và điều kiện dạy học hiện có, tổ chức linh hoạt các hình thức dạy học, tìm ra phương thức kiểm tra, đánh giá kết quả dạy học đáng tin cậy để góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy, chất lượng GD.
Nhiệm vụ quản lý hoạt động dạy học
Gắn HĐDH với việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện.
Tạo động lực, môi trường, điều kiện thuận lợi, kích thích tinh thần lao động sáng tạo của đội ngũ CB, GV.
Kết hợp phát huy cao độ tính chủ động sáng tạo của mỗi thành viên với sự QL thống nhất của đội ngũ CBQL nhà trường.
Đảm bảo chất lượng dạy học một cách bền vững. Luận văn: Hoạt động dạy học của trường mầm non tư thục
Xây dựng cơ chế, chính sách phù hợp phát huy tối đa nội lực đi đôi với sự tranh thủ tiềm lực các lực lượng giáo dục ngoài nhà trường.
Đối tượng lý hoạt động dạy học
- QL Kế hoạch, chương trình dạy học
- QL việc chuẩn bị kế hoạch bài dạy của GV
- QL việc thực hiện kế hoạch bài dạy của GV
- Tạo điều kiện cho GV thực hiện giờ lên lớp
Yêu cầu quản lý hoạt động dạy học
- Xác định mô hình quản lý rõ ràng: Quản lý tập trung chủ yếu vào HĐ dạy của GV, trực tiếp với GV, gián tiếp với HS; thông qua quản lý HĐ dạy để quản lý HĐ học => Dạy tốt, học tốt là cốt lõi của quá trình QL.
- Bám sát mục tiêu dạy học của cấp học và từng khối lớp
- Đảm bảo quản lý song song cả hai mặt dạy và học
- Tạo khuôn khổ kỷ cương nhưng vẫn đảm bảo phát huy tính chủ động sáng tạo của GV, HS
- Tiếp cận lý luận giáo dục và lý luận quản lý giáo dục hiện đại
- Vận dụng các phương tiện quản lý hiện đại, tiến bộ…
HĐDH ở trường mầm non không chỉ quan trọng ở các cơ sở GDMN công lập mà đối với các trường MNTT lại càng trở nên cần thiết. Các trường MNTT hiện nay không chỉ thực hiện chức năng chăm sóc như những giai đoạn mới xuất hiện. Nếu ở giai đoạn trước, trường MNTT xuất hiện chỉ để giải quyết nhu cầu giải quyết thực trạng quá tải của trường MN công lập, giúp phụ huynh có một nơi an tâm để gửi trẻ thì hiện nay, các trường MNTT còn thật sự cạnh tranh nhau ở mảng dạy học. Hoạt động dạy học hiện tại chính là chìa khóa để các trường MNTT trong cùng khu vực cạnh tranh với nhau. HDDH của trường MNTT càng chất lượng càng dễ dàng tạo được niềm tin đối với phụ huynh học sinh cũng như sự yên tâm đối với các cơ sở quản lý trên địa bàn chiếm đóng.
Như vậy, có thể hiểu quản lý HĐDH của giáo viên khối mẫu giáo trường tư thục là quá trình tạo điều kiện và tác động của hiệu trưởng nhà trường đến quá trình dạy học của giáo viên khối mẫu giáo tại trường mầm non tư thục, nhằm xác định đúng mục tiêu, lựa chọn nội dung chương trình thích hợp, thực hiện đúng kế hoạch, áp dụng hài hòa các phương pháp, tận dụng các phương tiện và điều kiện dạy học hiện có, tổ chức linh hoạt các hình thức dạy học, tìm ra phương thức kiểm tra, đánh giá kết quả dạy học đáng tin cậy để góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy, chất lượng GD, tạo điều kiện tốt nhất cho sự phát triển của trẻ mẫu giáo.
1.3. Hoạt động dạy học của giáo viên khối mẫu giáo trong trường mầm non tư thục Luận văn: Hoạt động dạy học của trường mầm non tư thục
Điều 17 thông tư số 13/2015/TT-BGDĐT ngày 30/6/2015, Thông tư số 28/2011/TT-BGDĐT ngày15 tháng 7 năm 2011 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế tổ chức và hoạt động trường mầm non tư thục quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của giáo viên mầm non tư thục về hoạt động dạy học như sau:
Thực hiện các nhiệm vụ nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em theo chương trình giáo dục mầm non: lập kế hoạch; xây dựng môi trường chăm sóc, giáo dục; tổ chức các hoạt động và chịu trách nhiệm về chất lượng nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em; quản lý và đánh giá sự phát triển của trẻ em. Tham gia các hoạt động khác của trường. Bảo đảm an toàn cho trẻ em trong thời gian ở nhà trường, nhà trẻ, nhóm trẻ, lớp mẫu giáo độc lập tư thục;
Tuyên truyền phổ biến kiến thức khoa học nuôi dạy cho cha mẹ trẻ. Chủ động phối hợp với gia đình để thực hiện mục tiêu giáo dục;
Rèn luyện sức khỏe; học tập văn hoá; bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ hàng năm để nâng cao chất lượng nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục;
Được đảm bảo các điều kiện để thực hiện nhiệm vụ nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em;
Được đào tạo nâng cao trình độ, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, được hưởng lương, phụ cấp và các chế độ khác theo quy định của pháp luật khi được cử đi học để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ;
Ngoài ra, quy định về năng lực nghề nghiệp của GVMN cũng chỉ rõ người GVMN cần có các năng lực sau đây trong hoạt động dạy học:
- Năng lực lập kế hoạch dạy học và giáo dục: Năng lực này giúp giáo viên nhìn thấy trước sự tiến triển của trẻ và lập các kế hoạch dạy học hay giáo dục, gồm: mục tiêu, nội dung, phương pháp, hình thức, phương thức, phương tiện đồ dùng dạy học, phương pháp đánh giá sự tiến triển của trẻ và kết quả đánh giá thường xuyên được sử dụng làm căn cứ để xây dựng chương trình giáo dục tiếp theo. Đồng thời giáo viên cũng dự kiến các tình huống có thể xảy ra, nhất là những hành vi bột phát và dự kiến giải pháp xử lí nếu những tình huống đó xảy ra.
- Năng lực tổ chức thực hiện kế hoạch dạy học và giáo dục: Năng lực này giúp giáo viên hiện thực hóa những mục tiêu và nội dung giáo dục đến đứa trẻ.
Khi đã thiết kế, lập kế hoạch dạy học hay giáo dục, giáo viên biết cách tổ chức thực hiện những hoạt động trên một cách tốt nhất để đạt kết quả cao như mong muốn. Năng lực này có liên quan đến kĩ năng tổ chức các hoạt động dạy học và giáo dục, tổ chức môi trường học tập thân thiện cho trẻ (cách sắp xếp môi trường học tập, mà ở đó đầy ắp những hoạt động dựa trên các hoạt động chủ đạo của từng giai đoạn tuổi của trẻ và trẻ thích thú được làm những gì mong muốn; trang trí lớp học và không gian học tập; tạo môi trường chơi và giao tiếp giữa trẻ với trẻ, giữa cô với trẻ trên cơ sở thân thiện và tôn trọng).
Đây là năng lực đặc trưng trong hoạt động lao động sư phạm của giáo viên nói chung, trong đó có giáo viên mầm non. Thành công hay uy tín của người giáo viên thường thông qua công tác qua công tác giáo dục để hình thành và phát triển tiền đề của nhân cách, đảm bảo cho sự phát triển lâu dài và bền vững cho trẻ. Muốn vậy, giáo viên phải có :
Kĩ năng lựa chọn và vận dụng những nội dung giáo dục và dạy học phù hợp với từng độ tuổi phát triển của trẻ để từ đó vận dụng những phương pháp chăm sóc và giáo dục phù hợp với nội dung giáo dục đã chọn.
Kĩ năng chọn lựa và vận dụng những hình thức tổ chức hoạt động chăm sóc và giáo dục đa dạng, phù hợp với từng độ tuổi. Với mỗi độ tuổi của trẻ có những đặc thù riêng khi hoạt động, nên cần có sự khác biệt trong chăm sóc và giáo dục trẻ nhà trẻ và trẻ mẫu giáo.
Tiếp cận cá nhân trong tổ chức hoạt động chăm sóc và giáo dục trẻ. Tùy theo nhu cầu và đặc điểm phát triển riêng của từng trẻ mà giáo viên mầm non thực hiện công việc của mình.
Sử dụng thành thạo các đồ dùng và các phương tiện dạy học khác nhau trong quá trình dạy học, tất nhiên tùy thuộc vào điều kiện thực tế. Nếu sử dụng được các phương tiện công nghệ hiện đại vào quá trình dạy học, làm cho tiết dạy phong phú và hấp dẫn hơn như: máy tính, máy chiếu đa năng, máy chiếu phim, các thiết bị nghe nhìn, máy quay video, máy ảnh… giáo viên có thể quan sát, theo dõi được các hoạt động của trẻ trong quá trình học tập, phân tích và đánh giá, rút kinh nghiệm các hoạt động giảng dạy của mình; kiểm tra và đánh giá những hiểu biết, kĩ năng mà trẻ được hình thành trong quá trình học.
Gắn việc giáo dục với môi trường sống thực tế. Trẻ mầm non đang trong giai đoạn bắt đầu hình thành hệ thống hiểu biết ban đầu về thế giới, tìm hiểu bản chất của sự vật hiện tượng trong môi trường sống xung quanh và ngôn ngữ biểu đạt những hiểu biết đó.
Như vậy, hoạt động dạy học của giáo viên khối mẫu giáo chủ yếu bao gồm các nội dung:
Xây dựng kế hoạch dạy học tại nhóm lớp
Các loại kế hoạch giáo dục tại trường MNTT mà GVMG phải xây dựng bao gồm:
Kế hoạch GD năm học: chính là những dự kiến về mục tiêu, nội dung GD, dự kiến các chủ đề GD của năm học nhằm đạt được mục tiêu của Chương trình GD.
Kế hoạch GD tháng hoặc chủ đề: là một phần của kế hoạch GD năm học bao gồm mục tiêu, các nội dung GD và dự kiến hoặc động GD cho từng nội dung GD theo tháng hoặc chủ đề. Luận văn: Hoạt động dạy học của trường mầm non tư thục
Kế hoạch GD tuần: là dự kiến các hoạt động GD của một tuần nhằm chuyển tải các nội dung GD, được sắp xếp phù hợp với các thời điểm chế độ sinh hoạt của trẻ trong tuần.
Kế hoạch ngày: là một phần của KH tuần bao gồm của hoạt động giáo dục cụ thể trong ngày.
Đối với GV thì 2 loại KH quan trọng nhất là KH tuần và ngày, đặc biệt là KH ngày bởi lẽ nó tác động trực tiếp vào đứa trẻ và thể hiện được mối quan hệ dạy-học sâu sắc nhất trong hoạt động dạy học ở trường MN.
Trên cơ sở KHGD của năm học đã được CBQL và GV cốt cán xây dựng cho toàn trường, GV sẽ phối hợp với các GV khác phụ trách lớp thống nhất xây dựng kế hoạch năm học của lớp mình bằng cách rà soát, xác định mục tiêu, nội dung GD, dự kiến các chủ đề (sự kiện) và phân phối quỹ thời gian thực hiện cho từng chủ đề (sự kiện) trong năm học ở nhóm lớp phù hợp với điều kiện thực tiễn, nhu cầu và khả năng của trẻ. Các KHGD sẽ được tiếp tục phân theo chủ đề/tháng, tuần, ngày để áp dụng.
GV khi xây dựng KHGD cần lưu ý đảm bảo các yếu tố để có thể giúp trẻ phát triển tốt nhất đặc biệt lưu ý các nguyên tắc giáo dục cũng như hoạt động dạy học lấy trẻ làm trung tâm.
Tổ chức hoạt động dạy học tại nhóm lớp
Hoạt động dạy học được GV tổ chức có chủ định và hướng dẫn trực tiếp nhằm giúp trẻ tiếp thu những kiến thức, kỹ năng mới, hình thành thái độ phù hợp có liên quan theo yêu cầu. Nội dung dạy học được xây dựng có mục đích, hệ thống và trình tự đã được vạch ra trong dự kiến của KHGD. Do đặc thù của lứa tuổi nên HĐ dạy học của trẻ được tổ chức dưới hình thức chơi, không kiểm tra, không sát hạch, không bài tập về nhà, nghiêm ngặt về thời gian và tổ chức linh hoạt giữa động và tĩnh. Trong quá trình tổ chức hoạt động dạy học, giáo viên sẽ tạo ra nhiều cơ hội để trẻ có thể phát triển các giác quan một cách tốt nhất. GV sẽ quan sát, theo dõi diễn biến, việc làm của trẻ và sử dụng các phương pháp dạy học phù hợp.
Đối với lứa tuổi mẫu giáo hoạt động dạy học sẽ diễn ra dao động từ 20-40 phút. Giáo viên cần xác định được các nội dung trẻ sẽ hoạt động thông qua kế hoạch hoạt động được thể hiện dưới dạng văn bản giáo án.
Hoạt động dạy học được tổ chức theo nhiều hình thức như cả lớp, nhóm, cá nhân hoặc phối hợp các hình thức trong cùng một hoạt động dạy học. Giáo viên cũng chuẩn bị các đồ dùng, phương tiện tổ chức hoạt động dạy học trong ngày như đồ dùng trực quan, đồ dùng cá nhân, trang thiết bị…theo ý đồ người dạy.
Hoạt động dạy học được tổ chức theo quy trình sau: ổn định tổ chức, thực hiện nhiệm vụ học tập và kết thúc hoạt động dạy học.
Đánh giá hoạt động dạy học tại nhóm lớp
Đánh giá hoạt động dạy học tại nhóm lớp chính là sự phân tích, đối chiếu các thông tin thu được với mục đích, yêu cầu của HĐ đã đề ra nhằm đưa ra quyết định điều chỉnh về mục đích, yêu cầu, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức và phương tiện dạy học. Đạt hay không đạt điều giúp người GVMN có thể xác định được lộ trình hoạt động cho nhóm lớp vào giai đoạn sau.
1.4. Nội dung quản lý hoạt động dạy học của giáo viên khối mẫu giáo trong trường mầm non tư thục Luận văn: Hoạt động dạy học của trường mầm non tư thục
Thứ nhất: Quản lý xây dựng kế hoạch chương trình dạy học của giáo viên Trường MN hiện nay tại Việt Nam dù là trường công lập hay tư thục đều phải thực hiện Chương trình giáo dục mầm non ban hành Theo thông tư 17/2009 của BGDĐT ngày 25/7/2009 và thông tư sửa đổi bổ sung ngày 02/8/2016 của BGDĐT. Đây là chương trình khung, có kế thừa những ưu việt của các chương trình chăm sóc, giáo dục trẻ trước đây, được phát triển trên các quan điểm đảm bảo đáp ứng sự đa dạng của các vùng miền, đối tượng trẻ, hướng đến sự phát triển toàn diện và tạo cơ hội cho trẻ phát triển. Chương trình này cũng là căn cứ cho việc quản lý, chỉ đạo và tổ chức hoạt động dạy học cho tất cả các cơ sở GDMN trên toàn quốc.
Xây dựng kế hoạch dạy học chính là việc thiết kế kế hoạch dạy học cho môn học, bài học theo từng thời gian nhất định. Xây dựng kế hoạch phải dựa vào chương trình dạy học, khả năng của GV và phân tích kết quả học tập của HS cùng với điều kiện đảm bảo cho HĐDH…hiệu trưởng (HT) quản lí, chỉ đạo GV xây dựng kế hoạch dạy học phải dựa trên cơ sở kế hoạch của nhà trường để hướng dẫn GV xác định mục tiêu đúng đắn và phải tìm, lựa chọn biện pháp thực hiện được mục tiêu đề ra. Để kế hoạch dạy học của GV không phải là hình thức. Nhà quản lí phải có nhiều biện pháp khác nhau để giúp GV hoàn thành kế hoạch.
Quản lý kế hoạch chương trình dạy học của giáo viên mầm non bao gồm các nội dung:
- Tổ chức cho giáo viên nắm vững chương trình, kế hoạch dạy học
- Yêu cầu giáo viên lập kế hoạch của năm học, học kì, tháng, tuần. GV dựa vào kế hoạch nhà trường đã đề ra theo chương trình mà Bộ GD&ĐT đã ban hành để lập kế hoạch chi tiết đến từng buổi học. Hiệu trưởng xem xét và duyệt để GV thực hiện.
- Duyệt kế hoạch và tổ chức theo dõi việc thực hiện đúng, đủ chương trình
- Thường xuyên giám sát, kiểm tra việc thực hiện kế hoạch, chương trình dạy học của GV.
- Điều chỉnh, và có biện pháp xử lí giáo viên thực hiện sai kế hoạch dạy học đã được nhà trường phê duyệt.
Thứ hai: Phân công giáo viên mẫu giáo giảng dạy chăm sóc trẻ
Phân công công việc giảng dạy của giáo viên mầm non là quá trình phân phối và sắp xếp nguồn GV của nhà trường theo những cách thức nhất định để đảm bảo thực hiện tốt các mục tiêu đã đề ra. Qua đó giúp nhà trường hiện thực hoá các mục tiêu mà nhà trường đã đề ra, tạo động lực thúc đẩy phát triển Luận văn: Hoạt động dạy học của trường mầm non tư thục
Việc phân công nhiệm vụ cho GV phải căn cứ vào năng lực của GV, điều kiện cụ thể của nhà trường, quyền lợi của người học và tham khảo nguyện vọng của GV. Có thể đáp ứng được tất cả các cơ sở trên nếu trường có đội ngũ GV đủ mạnh. Song, trong điều kiện đội ngũ thiếu và không đồng đều về năng lực thì phải lựa chọn phương án tối ưu đó là ưu tiên về quyền lợi của người học và yêu cầu của nhà trường để lựa chọn GV giảng dạy phù hợp. Quản lý công việc giảng dạy của giáo viên mầm non cần:
- Căn cứ vào khả năng chuyên môn của giáo viên
- Căn cứ vào nguyện vọng và hoàn cảnh gia đình của giáo viên
- Kết hợp khả năng chuyên môn và nguyện vọng, hoàn cảnh gia đình.
- Tạo điều kiện để các GV phối hợp, học hỏi và bổ sung lẫn nhau để cùng phấn đấu vươn lên, hoàn thiện bản thân, hoàn thành tốt công việc. Điều này giúp khắc phục tình trạng chất lượng GV không đồng đều, tạo nên một tập thể đoàn kết, vững mạnh về chuyên môn, có đủ khả năng hoàn thành tốt các nhiệm vụ, mục tiêu mà nhà trường đã đề ra.
Thứ ba: Quản lý việc thực hiện chương trình dạy học của giáo viên mầm non Thông qua kế hoạch giảng dạy, sổ theo dõi bài dạy của giáo viên để quản lí giờ dạy của giáo viên.
Có sự phân công, phân hiệm vụ đúng trình độ và năng lực GV, để họ có thể phát huy hết sở trường của mình.
Cùng với ban giám hiệu kiểm tra việc thực hiện giờ giấc của GV qua bảng chấm công. Thường xuyên nhắc nhở để GV tuân thủ nghiêm túc kỉ luật lao động và phát huy hiệu quả của tiết dạy, bao gồm:
- Xử lí việc thực hiện không đúng yêu cầu giờ lên lớp của giáo viên
- Qui định chế độ thông tin, báo cáo và sắp xếp, thay thế hoặc dạy bù trong trường hợp vắng giáo viên
- Qui định thành tiêu chuẩn thi đua
- Tổ chức dự giờ định kì, đột xuất và phân tích sư phạm bài dạy Thứ tư: Kiểm tra, đánh giá kết quả hoạt động dạy học
Tiêu chuẩn đánh giá cơ bản hoạt động của GV là kết quả của lao động sư phạm, chất lượng kiến thức của HS, mức độ phát triển kĩ năng áp dụng kiến thức… HT phải quản lí nghiêm túc công tác kiểm tra đánh giá kết quả học và phát triển của trẻ mới có số liệu chính xác để đánh giá GV. Kiểm tra đánh giá kết quả học tập của trẻ là một bộ phận hợp thành, là một thành tố của quá trình dạy học. Kết quả học tập của người học chính là kết quả giảng dạy của thầy giáo. Kiểm tra được coi như một nguyên tắc của mối liên hệ ngược. Từ thông tin đó làm cơ sở cho việc điều chỉnh quá trình dạy học. Bao gồm các yếu tố chính:
- Phổ biến đến giáo viên các văn bản, qui định về chế độ kiểm tra, đánh giá
- Lập kế hoạch kiểm tra, đánh giá các hoạt động theo từng thời gian
- Tổ chức theo dõi kết quả phát triển của trẻ theo đúng qui chế
- Tổ chức kiểm tra kết quả học tập của trẻ
- Xử lí các trường hợp làm sai nội qui dạy học
1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý hoạt động dạy học của giáo viên khối mẫu giáo tại một số trường mầm non tư thục Luận văn: Hoạt động dạy học của trường mầm non tư thục
1.5.1. Yếu tố bên trong
Thứ nhất, Cơ sở vật chất:
Hiệu quả dạy học đạt được một phần phụ thuộc vào điều kiện CSVC của nhà trường. CSVC sư phạm là thành tố của quá trình dạy học, vì vậy người CBQL phải coi quản lí CSVC là một nhiệm vụ quan trọng trong quản lí nhà trường. CSVC phục vụ dạy học gồm: phòng học, bàn ghế, bảng đen, đồ dùng dạy học, các trang thiết bị – kĩ thuật, sách, báo, … là điều kiện cần thiết để đảm bảo cho các hoạt động dạy – học diễn ra thuận lợi và đạt hiệu quả. Quản lí phương tiện dạy học bao gồm ba mặt liên quan với nhau. Đủ phương tiện dạy học, sử dụng tốt, bảo quản tốt, phương tiện dạy học là điều kiện cần thiết, là cơ sở thực hiện những mục tiêu dạy học và mục tiêu quản lí.
Vì vậy, trước hết cần nhận đúng đắn về ý nghĩa của phương tiện dạy học đối với công tác giảng dạy và chú trọng việc quản lí vấn đề này. Để đảm bảo GV có đủ phương tiện dạy học, HT cần khai thác triệt để các nguồn cung cấp. Những nguồn trang thiết bị nhà nước cấp hàng năm, huy động đóng góp của cộng đồng và động viên GV, HS tự làm đồ dùng dạy học. HT cần có kế hoạch hàng năm, kế hoạch dài hạn tu bổ, mua sắm phương tiện dạy học. Việc tăng cường, mua sắm trang thiết bị dạy học phải đi đôi với việc tăng cường tổ chức khai thác, sử dụng các phương tiện phục vụ giảng dạy
Thứ hai, Chính sách thu hút nhân lực đội ngũ giáo viên:
Trong tình hình hiện nay, đời sống kinh tế xã hội đã có nhiều thay đổi. Song một số giáo viên vẫn còn gặp nhiều khó khăn về kinh tế và điều kiện làm việc vì vậy phần nào đó ảnh hưởng đến điều kiện hoạt động của giáo viên. Muốn tạo điều kiện chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho giáo viên thì người lãnh đạo phải tiến hành công việc sau:
Phải thực hiện nghiêm chỉnh các chế độ chính sách bảo đảm quyền lợi vật chất, tinh thần cho giáo viên như: Thực hiện đúng chế độ lương cho giáo viên theo quy định của nhà nước, chế độ nghỉ hè, trợ cấp khó khăn, tiền thưởng, tiền bồi dưỡng dạy bán trú…một cách xứng đáng với công tác và công việc của người giáo viên.
Cán bộ quản lý, công đoàn tổ chức đời sống tinh thần cho giáo viên như các hoạt động thể dục thể thao, tham quan, văn nghệ… tạo điều kiện về quỹ thời gian, vật chất để giáo viên làm tôt được nhiệm vụ của mình, trang bị đủ sách giáo khoa, tài liệu tham khảo, đồ dùng dạy học cho giáo viên. Việc chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, tình cảm trong tập thể nhà trường là một nhiệm vụ, một yêu cầu và cũng là trách nhiệm của người cán bộ quản lý Luận văn: Hoạt động dạy học của trường mầm non tư thục
Thứ ba, Chương trình dạy học:
Bước đầu tiếp cận phương pháp giáo dục và phương thức quản lý tiên tiến. các cơ sở giáo dục Mầm non đã có những dấu hiệu tốt về việc tổ chức chăm sóc, nuôi dạy trẻ theo phương pháp khoa học. Giáo dục mầm non đã có những thay đổi lớn về phương pháp soạn bài, giảng bài, tổ chức giáo dục theo chủ đề, chủ điểm, giáo viên biết khơi gợi tính tích cực, tự giác của học sinh. Đồng thời việc đổi mới chương trình dạy học ngày càng nhanh chóng, tích cực trong thời gian gần đây đã mang lại nhiều cơ hội và thách thức cho hoạt động quản lý hoạt động dạy học của các trường mầm non tư thục về: nội dung dạy học, phương thức dạy học…. cho phù hợp với chuẩn kiến thức mới và sự phát triển của trẻ trong giai đoạn hiện nay.
Thứ tư, Năng lực nhà quản lý:
Muốn nâng cao chất lượng đội ngũ gíáo viên trong nhà trường trước hết cần nâng cao chất lượng cán bộ quản lý nhà trường với những biện pháp cụ thể :
Cán bộ quản lý phải đạt chuẩn về trình độ chuyên môn. Nhất thiết phải đạt trình độ từ trung học sư phạm trở lên, có tay nghề vững vàng và phải được trang bị tốt về trình độ lý luận và nắm vững kiến thức khoa học tổng hợp. Có năng lực phân tích tổng hợp, sáng tạo trong việc tổ chức các hoạt động giáo dục của nhà trường, có khả năng thu hút sự đồng tình, ủng hộ của đội ngũ giáo viên trong việc tham gia các nhiệm vụ giáo dục.
Người quản lý phải xác định được mục tiêu, định hướng được hướng đi đúng đắn cho năm học, cho cả một giai đoạn. Người quản lý luôn gương mẫu trong mọi công tác, thực sự là người thợ cả đầy tài năng, luôn luôn quan tâm, động viên khích lệ các thành viên trong tập thể lao động. Có tín nhiệm trước tập thể, được tập thể học sinh, giáo viên, phụ huynh học sinh tin yêu, mến phục.
Trong quá trình quản lý ở nhà trường đặc biệt là công tác tổ chức, xây dựng đội ngũ giáo viên, người quản lý luôn thực hiện tốt các khâu của quá trình quản lý đồng thời luôn quan tâm tới việc thu nhận và xử lý thông tin.
1.5.2. Yếu tố bên ngoài Luận văn: Hoạt động dạy học của trường mầm non tư thục
Thứ nhất, Yếu tố thuộc về chính sách pháp luật:
Nhà trường cụ thể hoá các đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, nhiệm vụ của ngành học, bậc học, các chỉ thị của địa phương và kế hoạch của nhà trường về quản lý HĐDH bằng từng công việc cụ thể gắn liền với mỗi cá nhân, các tập thể trong nhà trường. Đặc biệt đối với trường mầm non tư thục, việc tuân thủ các quy định một cách chặt chẽ không chỉ giúp cho Trường hoạt động một cách hiệu quả, tuân thủ pháp luật mà còn đảm bảo sự tồn tại và thích ứng đối với xã hội.
Hiện nay, với nhiều chính sách ưu tiên phát triển giáo dục mầm non, đặc biệt là chính sách xã hội hóa giáo dục mầm non, sẽ là điều kiện để các trường mầm non tư thục phát triển. Tuy vậy cùng với đó các thách thức cũng xuất hiện ngày càng nhiều khi các dấu hiệu sai phạm của một số các cơ sở giáo dục mầm non tư thục không tuân thủ các quy định trong thời gian vừa qua đã gây những trở ngại, bức xúc trong dư luận…
Thứ hai, Áp lực từ yếu tố cạnh tranh xã hội:
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của giáo dục mầm non, các cơ sở giáo dục mầm non tư thục ngày càng phát triển với số lượng và chất lượng ngày càng tăng, đặt ra thách thức cho quản lý hoạt động dạy cần không ngừng nâng cao hiệu quả, nội dung phong phú, phù hợp với nhu cầu của người học và mong đợi của phụ huynh, xã hội…
Thứ ba, Sự phát triển khoa học kĩ thuật, trình độ kinh tế- xã hội:
Tiểu kết chương 1
Quản lý là một nhu cầu cần thiết và quan trọng ở tất cả các cơ sở GDMN trong và ngoài công lập. Hoạt động dạy học là một hoạt động quan trọng của người GVMN trong trường MN đặc biệt là trong trường MN tư thục vì yêu cầu cấp thiết để tồn tại của loại hình trường này..
Quản lý HĐDH là quá trình tạo điều kiện và tác động cho sự hợp tác tối ưu giữa người dạy và người học, nhằm xác định đúng mục tiêu, lựa chọn nội dung chương trình thích hợp, thực hiện đúng kế hoạch, áp dụng hài hòa các phương pháp, tận dụng các phương tiện và điều kiện dạy học hiện có, tổ chức linh hoạt các hình thức dạy học, tìm ra phương thức kiểm tra, đánh giá kết quả dạy học đáng tin cậy để góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy, chất lượng GD.
Quản lý HĐDH của giáo viên khối mẫu giáo trường tư thục bao gồm 4 nội dung chính:
- Quản lý xây dựng kế hoạch chương trình dạy học
- Phân công giáo viên mẫu giáo giảng dạy
- Quản lý thực hiện chương trình dạy học
- Kiểm tra đánh giá kết quả hoạt động dạy học của giáo viên
Quản lý HĐDH của giáo viên khối mẫu giáo trường tư thục là quá trình tạo điều kiện và tác động đến quá trình dạy và chăm sóc trẻ của giáo viên khối mẫu giáo tại các trường mầm non tư thục, nhằm xác định đúng mục tiêu, lựa chọn nội dung chương trình thích hợp, thực hiện đúng kế hoạch, áp dụng hài hòa các phương pháp, tận dụng các phương tiện và điều kiện dạy học hiện có, tổ chức linh hoạt các hình thức dạy học, tìm ra phương thức kiểm tra, đánh giá kết quả dạy học đáng tin cậy để góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy, chất lượng GD, tạo điều kiện tốt nhất cho sự phát triển của trẻ mẫu giáo. Luận văn: Hoạt động dạy học của trường mầm non tư thục
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Luận văn: Khái quát dạy học tại các trường mầm non tư thục
Dịch Vụ Viết Luận Văn Ngành Luật 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://vietluanvanluat.com/ – Hoặc Gmail: vietluanvanluat@gmail.com