Vấn đề luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài tại Việt Nam
Nền kinh tế Việt Nam đang phát triển ngày càng nhanh và mạnh, điều này dẫn đến một hệ quả tất yếu đó là sự ra đời của một loạt các công ty với đủ loại quy mô và hình thức khác nhau. Sự phát triển này cũng đồng nghĩa với việc số lượng các hợp đồng kinh doanh quốc tế được kí kết cũng tăng lên đáng kể và đồng thời số lượng các vụ tranh chấp xảy ra cũng tỷ lệ thuận với số lượng các hợp đồng được giao kết. Sự ra đời và phát triển của trọng tài thương mại quốc tế tại Việt Nam trong khoảng gần nửa thế kỉ gần đây đã cho thấy những dấu hiệu đáng mừng trong việc giải quyết các tranh chấp trong nước cũng như tranh chấp mang tính quốc tế. Mặc dù còn non trẻ và ra đời chậm hơn so với các nước phát triển trên thế giới, trọng tài thương mại quốc tế ở Việt Nam đang ngày càng khẳng định được vị trí của mình trong việc giúp đỡ tòa án giải quyết các tranh chấp trong thương mại và đầu tư. Tuy nhiên, sự phát triển này cũng dẫn đến một nhu cầu cấp bách là cần phải hoàn thiện các nguồn luật về trọng tài thương mại ở Việt Nam để việc giải quyết các tranh chấp có tính chất quốc tế trở nên đơn giản hơn và số lượng các phán quyết được thi hành trong nước cũng như công nhận và thi hành ở nước ngoài ngày một nhiều lên, tạo lòng tin với các doanh nghiệp trong nước, doanh nghiêp nước ngoài và đặc biệt là nhà đầu tư nước ngoài với việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài ở Việt Nam. Điều này sẽ góp phần giảm bớt gánh nặng cho các tòa án tại Việt Nam đồng thời tăng tính hiệu quả của việc giải quyết tranh chấp.
Hai chương trước đã tập trung vào việc nghiên cứu những vấn đề liên quan đến thỏa thuận trọng tài và luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài trên thế giới, trong các điều ước quốc tế về trọng tài thương mại quốc tế và trong luật pháp của một số quốc gia phát triển. Với những cơ sở và nền tảng đã được phân tích ở các chương trước, chương này sẽ tập trung vào việc khái quát một số thông tin về trọng tài thương mại quốc tế ở Việt Nam và đưa ra một số gợi ý cho việc sửa đổi và hoàn thiện các quy định về luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài trong hệ thống pháp luật về trọng tài thương mại quốc tế tại Việt Nam.
1. Giới thiệu sơ lược về trọng tài thương mại và các nguồn luật của trọng tài thương mại tại Việt Nam
1.1. Khái quát về lịch sử và sự phát triển của trọng tài thương mại tại Việt Nam
Trọng tài được coi là phương thức giải quyết tranh chấp lâu đời nhất trong lịch sử, thậm chí nó còn được coi là tiền thân của các tòa án quốc gia sau này. Xuất hiện từ thời cổ đại, phương thức trọng tài thường được sử dụng bởi các lái buôn nhằm giải quyết những bất đồng và mâu thuẫn trong quá trình trao đổi và mua bán hàng hóa. Càng ngày phương thức này càng trở nên phổ biến và phát triển rộng rãi khắp châu Âu. Những bộ luật về trọng tài bắt đầu xuất hiện tại các nước phát triển nhằm khuyến khích giải quyết tranh chấp bằng trọng tài và tránh những thủ tục rườm rà và phức tạp của tòa án. Cùng với sự bùng nổ của nền kinh tế thế giới, các tranh chấp trong thương mại ngày một nhiều lên và các trung tâm trọng tài quốc tế dần hình thành để đáp ứng nhu cầu giải quyết các tranh chấp phát sinh trong các hợp đồng thương mại mang tính chất quốc tế. Những quốc gia có hệ thống pháp luật phát triển cũng sửa đổi nội luật để phù hợp với các công ước cũng như Luật mẫu về trọng tài thương mại quốc tế. Có thể nói, trên quy mô thế giới, trọng tài đang trở thành một phương thức tranh chấp được rất nhiều doanh nghiệp cũng như các quốc gia ưa thích và lựa chọn, vai trò của nó đang ngày được nâng cao, cùng với tòa án, trọng tài thương mại quốc tế đã thúc đẩy nền kinh tế toàn cầu phát triển ngày một mạnh mẽ hơn.
Mặc dù trọng tài thương mại quốc tế có một bề dày lịch sử rất lâu đời nhưng phải đến khoảng gần nửa thế kỉ trở lại đây, hình thức giải quyết tranh chấp này mới được hình thành và phát triển tại Việt Nam. Đi lên cùng công cuộc cải tổ và hướng lên chủ nghĩa xã hội của đất nước, qua từng bước thăng trầm của lịch sử, trọng tài thương mại đang dần khẳng định được vị trí của mình bên cạnh phương thức giải quyết tranh chấp truyền thống là tòa án. Sau đây là một vài nét cơ bản trên con đường phát triển của phương thức giải quyết tranh chấp lựa chọn này tại Việt Nam.
Hình thức trọng tài kinh tế xuất hiện ở Việt Nam từ những năm 1960 với sự ra đời của chế độ hợp đồng kinh tế. Trọng tài trong giai đoạn này tồn tại dưới hình thức là một cơ quan hành chính nhà nước được tổ chức ở cấp Trung ương, khu, thành phố, tỉnh và bộ với chức năng xử lý các tranh chấp trong các hợp đồng kinh tế của các cơ quan nhà nước. Đến giữa thập niên 70, trọng tài kinh tế lại đóng vai trò quản lý các hợp đồng kinh tế. Khoảng 20 năm sau đó, cho đến những năm 90 của thế kỉ XX, nhà nước ta liên tiếp ban hành rất nhiều văn bản pháp luật về trọng tài kinh tế đặc biệt là Pháp lệnh về trọng tài kinh tế quy định về tổ chức, phân cấp thẩm quyền và thủ tục giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh tế. Tuy nhiên, từ khi ra đời cho đến thời điểm này, Trọng tài kinh tế vẫn chỉ là một cơ quan nhà nước, mang tính chất quản lý nhà nước và thực hiện chức năng giải quyết tranh chấp, xử lý các vi phạm hợp đồng kinh tế đồng thời quản lý công tác hợp đồng kinh tế và không mang ý nghĩa của trọng tài thương mại theo đúng tính chất của nó.
Sau khi quản lý cơ chế bao cấp, sản xuất kế hoạch hóa tập trung tỏ ra kém hiệu quả và được bãi bỏ, đất nước chuyển mình và bước sang một giai đoạn mới, sự phát triển ngày một nhanh và mạnh của nền kinh tế đòi hỏi một cơ chế giải quyết tranh chấp mới cũng cần phải thay đổi. Năm 1993, đánh dấu một “điểm đen” trong quá trình phát triển của trọng tài thương mại tại Việt Nam khi chế độ trọng tài bị bãi bỏ cũng với sự ra đời của Tòa Kinh tế chuyên trách trong hệ thống Tòa án nhân dân nhằm giải quyết các tranh chấp về mặt kinh tế. Tuy nhiên cũng cần phải lưu ý rằng, hình thái trọng tài kinh tế tồn tại trong những giai đoạn trước đó với tính chất là một cơ quan nhà nước có chức năng quản lý nhiều hơn là thật sự giải quyết tranh chấp đã tỏ ra không còn phù hợp với sự phát triển của thời đại nữa, việc chế độ trọng tài đó bị bãi bỏ là điều tất yếu và đó là một bước đệm cho một hệ thống trọng tài thực thụ theo đúng nghĩa của nó sẽ ra đời trong tương lai.
Để đáp ứng nhu cầu khách quan về việc đa dạng hóa các phương thức giải quyết tranh chấp trong thương mại đồng thời để bắt kịp sự phát triển của cơ chế thị trường và phù hợp với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, năm 1994, với sự ban hành của Nghị định số 116CP về tổ chức và hoạt động của các Trung tâm trọng tài kinh tế của chính phủ, Trọng tài kinh tế chính thức được xác định là một tổ chức xã hội – nghề nghiệp, là tổ chức phi chính phủ có thẩm quyền giải quyết một số tranh chấp theo quy định, hoàn toàn biệt lập với chức năng quản lý nhà nước như trước đây. Đây là một bước ngoặt quan trọng trong tiến trình phát triển của trọng tài thương mại tại Việt Nam. Mặc dù vậy, vào thời điểm này trọng tài chưa thực sự phát huy được vai trò của mình với chức năng là một cơ quan tài phán hỗ trợ cho Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp.
Để tăng tính hiệu quả đồng thời khắc phục những nhược điểm và hạn chế còn tồn tại trong lĩnh vực trọng tài, ngày 25 tháng 2 năm 2003, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh trọng tài số 08/2003/PL-UBTVQH, góp phần nâng cao vị thế của trọng tài và đưa phương thức giải quyết tranh chấp này vào hoạt động một cách quy củ hơn. Pháp lệnh đã mở rộng thẩm quyền của trọng tài, quy định chi tiết và rõ ràng hơn những vấn đề liên quan đến thỏa thuận trọng tài; nâng cao vị thế của trọng tài bằng việc ghi nhận tính cưỡng chế thi hành của các phán quyết trọng tài đồng thời tăng cường tính quản lý với sự thành lập và hoạt động của các trung tâm trọng tài. Những quy định mới này đã góp phần tạo nên cơ sở cho sự phát triển của trọng tài tại Việt Nam, tạo dựng niềm tin với các doanh nghiệp trong nước và quốc tế đồng thời gây dựng uy tín với các quốc gia khác về nền kinh tế thị trường đang ngày càng hội nhập và phát triển của nước ta.
Về cơ bản, Pháp lệnh Trọng tài năm 2003 đã đáp ứng nhu cầu cấp thiết về một văn bản pháp luật chính thức quy định chi tiết các vấn đề liên quan đến Trọng tài thương mại. Tuy nhiên nó vẫn chưa thực sự hoàn thiện và chưa đủ khả năng tạo ra những cơ sở pháp lý vững chắc để thể hiện chủ trương của nhà nước cũng như góp phần khuyến khích các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài sử dụng phương án giải quyết tranh chấp lựa chọn này, nhằm giảm bớt gánh nặng cho tòa án. Và năm 2010, một lần nữa được coi là năm đánh dấu son trong sự phát triển của trọng tài thương mại của Việt Nam. Để thể chế hóa các đường lối và chính sách của Đảng, thích ứng với sự phát triển của đất nước trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa, khuyến khích việc sử dụng trọng tài trong giải quyết tranh chấp thương mại và các quan hệ dân sự khác đồng thời khắc phục những hạn chế và điểm yếu trong Pháp lệnh về Trọng tài năm 2003, Quốc hội đã ban hành Luật trọng tài thương mại năm 2010 có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2011. Văn bản pháp luật này thực sự là bước phát triển vượt bậc của hệ thống pháp luật về trọng tài tại Việt Nam. Được coi là theo khá sát Luật mẫu của UNCITRAL về Trọng tài thương mại quốc tế, Luật trọng tài thương mại năm 2010 được các luật sư và các trung tâm trọng tài trong nước cũng như quốc tế đón nhận khá nhiệt tình và hứa hẹn sẽ tạo nên thay đổi lớn trong việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài tại Việt Nam.
Như vậy, thuật ngữ “trọng tài” thật sự được biết đến tại Việt Nam từ những năm 1960 với sự xuất hiện của chế độ hợp đồng kinh tế trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hóa dưới hình thức “trọng tài kinh tế”. Tuy nhiên cho đến 40 năm sau, trọng tài kinh tế vẫn chỉ là một cơ quan nhà nước, mang tính chất quản lý chứ chưa thực sự là trọng tài theo đúng nghĩa của nó. Với sự hội nhập kinh tế và phát triển cơ chế thị trường, trọng tài chỉ thực sự “đâm chồi nảy lộc” bắt đầu từ những năm 1990 trở đi với sự ban hành của các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh vấn đề này. Có thể nhận thấy rằng, với sự hỗ trợ từ nhà nước, phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đang trở nên ngày càng phổ biến và phát triển mạnh mẽ, vững chắc tại Việt Nam.
1.2. Các nguồn luật cơ bản của trọng tài thương mại tại Việt Nam
Dưới góc độ luật học, luật pháp là tổng thể các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung, do Nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí của giai cấp cầm quyền, được Nhà nước đảm bảo thực hiện bằng các biện pháp giáo dục, thuyết phục và cưỡng chế. Như ta đã thấy ở phần trên, sự ra đời các của các văn bản pháp luật trong từng thời kì đánh dấu một bước phát triển của trọng tài tại Việt Nam. Nhờ có các nguồn luật cơ bản đó mà thủ tục giải quyết tranh chấp bằng trọng tài ngày càng được cụ thể hóa, đi vào quy củ và hoạt động một cách có hệ thống và hiệu quả hơn. Trước khi đi vào vấn đề luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài tại Việt Nam, điều quan trọng là chúng ta cần phải biết được các văn bản pháp luật hiện hành nào điều chỉnh vấn đề này? Và nội dung khái quát của các nguồn luật đó như thế nào? Nội dung của phần này sẽ nhằm giới thiệu các nguồn luật cơ bản điều chỉnh vấn đề trọng tài thương mại tại Việt Nam nhằm phục vụ cho việc đi sâu vào phân tích vấn đề luật điều chỉnh thỏa thuận trọng tài được quy định như thế nào trong luật Việt Nam.
1.2.1. Luật Trọng tài thương mại Việt Nam năm 2010
Luật Trọng tài thương mại Việt Nam năm 2010 được Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 7 thông qua vào ngày 17 tháng 6 năm 2010 và có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2011. Sự phát triển với tốc độ ngày càng cao và sự hội nhập ngày càng sâu rộng của nền kinh tế đòi hỏi sự hoàn thiện về hệ thống pháp luật liên quan đến trọng tài, nhằm khuyến khích các bên sử dụng hình thức giải quyết tranh chấp này, giảm nhẹ gánh nặng cho hoạt động xét xử của tòa án. Luật Trọng tài thương mại Việt Nam 2010 ra đời đã khắc phục những hạn chế còn tồn tại của Pháp lệnh trọng tài 2003 đồng thời bổ sung thêm những thiếu sót thích ứng với xu hướng pháp luật về trọng tài thương mại của các nước phát triển trên thế giới. Luật trọng tài thương mại năm 2010 gồm 13 Chương và 82 điều có hiệu lực từ ngày ngày đầu tiên của năm 2011 đồng thời chấm dứt hiệu lực của Pháp lệnh trọng tài năm 2010. Sự ra đời của luật này đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong quá trình hoàn thiện khung pháp luật về trọng tài thương mại của Việt Nam. Mặc dù được đánh giá là có nhiều tiến bộ, phù hợp với pháp luật và thực tiễn trọng tài thương mại quốc tế, đặc biệt là Luật mẫu của UNCITRAL về trọng tài thương mại quốc tế của Ủy ban liên hợp quốc về pháp luật thương mại quốc tế nhưng Luật trọng tài thương mại 2010 vẫn chưa thực sự hoàn thiện, còn nhiều thiếu sót và vẫn cần được sửa đổi bổ sung để nâng cao tính hiệu quả của biện pháp giải quyết tranh chấp này.
1.2.2. Nghị định 63/2011/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của luật trọng tài thương mại
Nghị định 63/2011/NĐ-CP do chính phủ ban hành, quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Trọng tài thương mại về quản lý nhà nước về trọng tài; thủ tục đăng ký hoạt động, chấm dứt hoạt động, thu hồi Giấy phép thành lập, Giấy đăng ký hoạt động của Trung tâm trọng tài, Chi nhánh Trung tâm trọng tài; thủ tục thành lập, đăng ký hoạt động, chấm dứt hoạt động, thu hồi Giấy phép thành lập, Giấy đăng ký hoạt động của Chi nhánh, Văn phòng đại diện của Tổ chức trọng tài nước ngoài tại Việt Nam; thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Hội đồng trọng tài. Với tốc độ phát triển và gia tăng của các trung tâm trọng tài cả trong nước và ngoài nước, nghị định 63 đã góp phần nâng cao việc quản lý của nhà nước với sự hoạt động của các tổ chức trọng tài nhằm hướng tới việc đảm bảo sự công bằng, minh bạch đối với việc giải quyết tranh chấp bằng hình thức trọng tài.
1.2.3. Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam năm 2004 – Phần thứ sáu: Thủ tục công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tóa án nước ngoài, quyết định của trọng tài nước ngoài – Chương XXVI và XXIX
Luật tố tụng là lĩnh vực của luật pháp điều chỉnh quy trình tiến hành vụ việc pháp lý. Nó bao gồm các quy trình như ai có thể có quyền đệ đơn tới tòa, đệ đơn ra tòa như thế nào, cũng như quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia tranh tụng. Luật tố tụng thường được coi như là luật “bổ trợ” do nó là các bộ luật liên quan đến việc các bộ luật khác được áp dụng như thế nào. Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam năm 2004 do Quốc hội khóa XI, kì họp thứ 5 thông qua ngày 15 tháng 6 năm 2004 và có hiệu lực từ năm 2005, bộ luật này đã được sửa đổi bổ sung năm 2011 và có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2012. Trong đó, phần thứ sáu của bộ luật quy định về các nguyên tắc, trình tự và thủ tục để công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài nước ngoài tại Việt Nam và thẩm quyền của Tòa án Việt Nam cũng như quyền lợi của các bên trong vấn đề này. Chương XXVI là những nguyên tắc chung về công nhận và thi hành của bản án của Tòa án nước ngoài, phán quyết của Trọng tài nước ngoài và Chương XXIX quy định cụ thể riêng về công nhận và thi hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài tại Việt Nam.
Trên đây là những văn bản pháp luật cơ bản điều chỉnh về trọng thương mại tại Việt Nam. Thông qua nội dung khái quát của từng văn bản đã được đề cập ở trên, có thể nhận thấy một điều rằng, những quy phạm pháp luật về trọng tài ở Việt Nam được quy định rải rác và chưa thực sự tập trung, điều này gây khó khăn cho người nghiên cứu, cho những doanh nghiệp trong quá trình thực thi và khó khăn cho cả các trọng tài viên, các trung tâm trọng tài trong việc áp dụng. Đặc biệt, rất nhiều luật sư và các nhà nghiên cứu pháp luật cùng các doanh nghiệp ở Việt Nam vẫn đang chờ đợi một văn bản hướng dẫn cụ thể việc thực hiện Luật trọng tài năm 2010 vì mặc dù là một văn bản chính thức và có nhiều điểm tiến bộ nhưng nhiều chỗ còn mập mờ, chưa được giải thích một cách cụ thể trong việc áp dụng. Bên cạnh đó, việc quy định riêng về Thủ tục công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tóa án nước ngoài, quyết định của trọng tài nước ngoài trong Bộ Luật Tố tụng dân sự mà không đưa vào Luật Trọng tài năm 2010 có lẽ là một sự thiếu sót và “hơi chệch” so với Luật mẫu, điều này gây khó khăn cho việc nghiên cứu và áp dụng đồng thời làm giảm “tính hoàn thiện” của văn bản có giá trị cao nhất và tập trung nhất về trọng tài. Nhìn chung, dù chưa thực sự hoàn hảo nhưng những nguồn cơ bản trên đây đóng vai trò quan trọng trong việc nghiên cứu và phân tích vấn đề luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài tại Việt Nam sẽ được tập trung làm rõ trong phần tiếp sau đây.
2. Vấn đề luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài tại Việt Nam
2.1. Vấn đề luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài trong các văn bản pháp luật
Việc nắm vững các văn bản pháp luật Việt Nam điều chỉnh các vấn đề liên quan đến trọng tài thương mại quốc tế đã cho ta một cái nhìn tổng quát, tạo điều kiện thuận lợi cho việc nghiên cứu vấn đề luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài tại Việt Nam. Trước hết, thông qua việc nghiên cứu các văn bản pháp luật cơ bản như đã phân tích ở trên, có một điều được khẳng định rằng: không có một điều khoản nào có nội dung tập trung vào vấn đề luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là pháp luật Việt Nam không có quy định về vấn đề này. Phần này sẽ khảo sát qua một số điều khoản có liên quan để tìm ra những quy định về luật điều chỉnh thỏa thuận trọng tài trong các điều khoản đó.
2.1.1. Điều khoản liên quan đến hiệu lực của thỏa thuận trọng tài
Thông qua chương I chúng ta đã thấy được tầm quan trọng của luật áp dụng đối với thỏa thuận trọng tài trong trọng tài thương mại quốc tế trên phạm vi thế giới. Ngược lại, mục này sẽ nhằm phân tích điều khoản quy định về hiệu lực của thỏa thuận trọng tài trong luật Việt Nam xem liệu luật Việt Nam đã thực sự quan tâm đến vấn đề này hay chưa?
Theo Điều 18 Luật trọng tài thương mại 2010, thỏa thuận trọng tài vô hiệu trong các trường hợp:
- Tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực không thuộc thẩm quyền của Trọng tài
- Người xác lập thoả thuận trọng tài không có thẩm quyền
- Người xác lập thoả thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự
- Hình thức của thoả thuận trọng tài không phù hợp với quy định tại Điều 16 của Luật này.
- Một trong các bên bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép trong quá trình xác lập thoả thuận trọng tài và có yêu cầu tuyên bố thoả thuận trọng tài đó là vô hiệu.
- Thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của pháp luật.
Mặc dù chưa có văn bản hướng dẫn thi hành cụ thể việc giải thích các điều khoản của Luật này, tuy nhiên ta có thể hiểu đơn giản điều khoản này dựa trên từ ngữ của nó. Trong Điều 18 này không có khoản nào nhắc đến cụ thể luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài. Chỉ có khoản 6 “Thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của pháp luật”có vẻ liên quan đến vấn đề đang xem xét. Nhưng do không có sự giải thích cụ thể nên điều này còn rất mập mờ, chẳng hạn như những điều cấm của pháp luật là gì? Pháp luật ở đây là pháp luật nào? Là pháp luật nơi thỏa thuận trọng tài được kí kết? Pháp luật Việt Nam? Hay là luật pháp áp dụng cho thỏa thuận trọng tài đó? Bên cạnh đó, việc không nhắc đến bất kì luật áp dụng nào cho thỏa thuận trọng tài mà trực tiếp quy định những lí do khiến thỏa thuận trọng tài vô hiệu, điều khoản này mở ra một cách giải thích khác, đó là: tất cả các thỏa thuận trọng tài buộc phải tuân theo các quy định này tức là buộc phải tuân theo pháp luật Việt Nam. Hay nói cách khác, thỏa thuận trọng tài có hiệu lực khi nó phù hợp với pháp luật Việt Nam, hay luật Việt Nam chính là luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài. Tuy nhiên, đây không thực sự là một sự suy luận an toàn và rõ ràng, chính vì thế, yêu cầu ban hành văn bản hướng dẫn thi hành Luật trọng tài thương mại năm 2010 là thực sự cần thiết.
Tóm lại, liên quan đến hiệu lực của thỏa thuận trọng tài, luật pháp Việt Nam chưa quy định cụ thể và khẳng định vai trò của luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài đối với thỏa thuận đó.
2.1.2. Điều khoản liên quan đến luật áp dụng cho trọng tài
Như đã khẳng định ở phần giới thiệu, trong Luật trọng tài năm 2010 không có điều khoản nào dành riêng cho quy định vấn đề luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài. Tuy nhiên, liên quan đến vấn đề luật áp dụng nói chung, Điều 14 của Luật trọng tài năm 2010 quy định:
- Đối với tranh chấp không có yếu tố nước ngoài, Hội đồng trọng tài áp dụng pháp luật Việt Nam để giải quyết tranh chấp.
- Đối với tranh chấp có yếu tố nước ngoài, Hội đồng trọng tài áp dụng pháp luật do các bên lựa chọn; nếu các bên không có thỏa thuận về luật áp dụng thì Hội đồng trọng tài quyết định áp dụng pháp luật mà Hội đồng trọng tài cho là phù hợp nhất.
- Trường hợp pháp luật Việt Nam, pháp luật do các bên lựa chọn không có quy định cụ thể liên quan đến nội dung tranh chấp thì Hội đồng trọng tài được áp dụng tập quán quốc tế để giải quyết tranh chấp nếu việc áp dụng hoặc hậu quả của việc áp dụng đó không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
Khác với Điều 28 trong Luật mẫu của UNCITRAL về trọng tài thương mại quốc tế quy định cụ thể là nguyên tắc áp dụng pháp luật cho nội dung của vụ tranh chấp, Điều 14 Luật trọng tài thương mại 2010 chỉ có tiêu đề là Luật áp dụng để giải quyết tranh chấp, do đó ta có thể hiểu rằng nguyên tắc này có thể áp dụng đối với bất cứ luật nào trong quá trình giải quyết tranh chấp, bất kể là luật hình thức, luật nội dung hay luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài. Và qua tinh thần của điều khoản này, có thể thấy rằng luật do các bên lựa chọn luôn được ưu tiên áp dụng, đây là một khẳng định phù hợp với những điều đã được phân tích ở chương II. Bên cạnh đó, điều khoản này cũng ghi nhận thẩm quyền của trọng tài viên trong việc lựa chọn luật áp dụng, trọng tài viên hoàn toàn được phép lựa chọn pháp luật mà “hội đồng trọng tài cho là phù hợp nhất”. Nếu như trong Luật mẫu quy định rằng, trọng tài chỉ có thẩm quyền “áp dụng luật được xác định bởi các nguyên tắc xung đột luật mà hội đồng trọng tài thấy là thích hợp”, Luật Việt Nam lại cho phép trọng tài viên có thể có một thẩm quyền quá rộng, lựa chọn trực tiếp luật pháp áp dụng chứ không cần thông qua quy tắc xung đột pháp luật, điều này có thể gây ra những tranh chấp và khó khăn trong việc yêu cầu công nhận và thi hành phán quyết ở nước ngoài sẽ được phân tích ở phần sau.
Nhìn chung, mặc dù không quy định cụ thể, nhưng những quy tắc của Điều 14 có thể được áp dụng để xác định luật điều chỉnh thỏa thuận trọng tài. Tuy nhiên, có vẻ như đây chưa thực sự là một điều khoản chặt chẽ, còn khá mập mờ và có thể dẫn đến những tranh chấp không đáng có và có nguy cơ khiến cho mục đích của việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài không đạt được (phán quyết bị hủy hoặc không được công nhận và thi hành tại nước ngoài).
2.1.3. Điều khoản liên quan đến hủy phán quyết của trọng tài
Theo tinh thần của Luật trọng tài thương mại năm 2010 cũng như được thừa nhận trên toàn thế giới, chỉ có tòa án tại nơi phán quyết được tuyên mới có thẩm quyền hủy phán quyết trọng tài dựa trên những căn cứ được quy định trong luật pháp của nước đó về vấn đề này. Liên quan đến các căn cứ để hủy quyết định của trọng tài, Luật trọng tài thương mại năm 2010 ghi nhận các căn cứ sau:
- Không có thoả thuận trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu;
- Thành phần Hội đồng trọng tài, thủ tục tố tụng trọng tài không phù hợp với thoả thuận của các bên hoặc trái với các quy định của Luật này;
- Vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài; trường hợp phán quyết trọng tài có nội dung không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thì nội dung đó bị huỷ;
- Chứng cứ do các bên cung cấp mà Hội đồng trọng tài căn cứ vào đó để ra phán quyết là giả mạo; Trọng tài viên nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác của một bên tranh chấp làm ảnh hưởng đến tính khách quan, công bằng của phán quyết trọng tài;
- Phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
Theo điều khoản này, việc một thỏa thuận trọng tài không phù hợp với luật áp dụng cho nó không trở thành một căn cứ để hủy phán quyết trọng tài. Mặc dù, thỏa thuận trọng tài vô hiệu có thể là cơ sở để hủy phán quyết trọng tài, và như đã phân tích ở phần trên, liên quan đến thỏa thuận trọng tài vô hiệu, Luật Việt Nam cũng “mập mờ” thừa nhận tầm quan trọng của pháp luật áp dụng cho thỏa thuận đó, nhưng những quy định mang tính chung chung, không rõ ràng này rất khó áp dụng và rất dễ gây ra tranh chấp. Việc không đề cập đến luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài trong căn cứ hủy phán quyết là một thiếu sót lớn của luật Việt Nam so với Luật mẫu của UNCITRAL về trọng tài thương mại. Sự phức tạp và tốn kém gây ra bởi sự thiếu sót này sẽ được phân tích trong thực tiễn ở phần sau.
2.1.4. Điều khoản liên quan đến công nhận và thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài
Điều đầu tiên cần chú ý trong phần này đó là, điều khoản liên quan đến công nhận và thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài không nằm trong Luật thương mại Việt Nam năm 2010 mà lại là một phần thuộc Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 (sửa đổi bổ sung năm 2011). Đây là một điểm bất cập trong pháp luật của Việt Nam về trọng tài thương mại quốc tế, thể hiện sự thiếu đồng bộ, thống nhất trong một văn bản luật pháp chuyên ngành.
Liên quan đến các căn cứ để từ chối việc công nhận phán quyết của trọng tài nước ngoài tại Việt Nam, điều 370 Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam năm 2004 ghi nhận:
Quyết định của Trọng tài nước ngoài không được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam trong các trường hợp sau đây:
- Các bên ký kết thoả thuận trọng tài không có năng lực để ký kết thoả thuận đó theo pháp luật được áp dụng cho mỗi bên;
- Thoả thuận trọng tài không có giá trị pháp lý theo pháp luật của nước mà các bên đã chọn để áp dụng hoặc theo pháp luật của nước nơi quyết định đã được tuyên, nếu các bên không chọn pháp luật áp dụng cho thoả thuận đó;
- Cá nhân, cơ quan, tổ chức phải thi hành không được thông báo kịp thời và hợp thức về việc chỉ định Trọng tài viên, về thủ tục giải quyết vụ tranh chấp tại Trọng tài nước ngoài hoặc vì nguyên nhân chính đáng khác mà không thể thực hiện được quyền tố tụng của mình;
- Quyết định của Trọng tài nước ngoài được tuyên về một vụ tranh chấp không được các bên yêu cầu giải quyết hoặc vượt quá yêu cầu của các bên ký kết thoả thuận trọng tài.
Thành phần của Trọng tài nước ngoài, thủ tục giải quyết tranh chấp của Trọng tài nước ngoài không phù hợp với thoả thuận trọng tài hoặc với pháp luật của nước nơi quyết định của Trọng tài nước ngoài được tuyên, nếu thoả thuận trọng tài không quy định về các vấn đề đó;
- Quyết định của Trọng tài nước ngoài chưa có hiệu lực bắt buộc đối với các bên;
- Quyết định của Trọng tài nước ngoài bị cơ quan có thẩm quyền của nước nơi quyết định đã được tuyên hoặc của nước có pháp luật đã được áp dụng huỷ bỏ hoặc đình chỉ thi hành.
Quyết định của Trọng tài nước ngoài cũng không được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam, nếu Toà án Việt Nam xét thấy:
- Theo pháp luật Việt Nam, vụ tranh chấp không được giải quyết theo thể thức trọng tài;
- Việc công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định của Trọng tài nước ngoài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
Đây là một điều khoản quy định khá đầy đủ và chi tiết, phù hợp với tầm cỡ của một bộ luật lớn như Bộ luật tố tụng dân sự. Trong đó, chỉ có một khoản nhỏ cần quan tâm có liên quan đến chủ đề đang nghiên cứu. Đó là khoản 1 (b): Thoả thuận trọng tài không có giá trị pháp lý theo pháp luật của nước mà các bên đã chọn để áp dụng hoặc theo pháp luật của nước nơi quyết định đã được tuyên, nếu các bên không chọn pháp luật áp dụng cho thoả thuận đó; điều khoản này đã kế thừa và ghi nhận cả Luật mẫu của UNCITRAL về trọng tài thương mại quốc tế và công ước New York 1958 về công nhận và thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài. Ở đây thừa nhận về quyền lựa chọn luật áp dụng của thỏa thuận trọng tài của các bên đồng thời ưu tiên áp dụng sự lựa chọn này. Trong trường hợp các bên không có sự lựa chọn, bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam quy định pháp luật của nước nơi quyết định được tuyên sẽ là luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài. Có thể nói rằng, trong tất cả các văn bản pháp luật về trọng tài thương mại Việt Nam, đây là điều khoản duy nhất có nhắc đến trực tiếp luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài đồng thời quy định cụ thể tiêu chí để xác định luật này. Mặc dù vậy, quy định này vẫn có thể gây ra những tranh cãi và khó khăn cho việc công nhận và thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài. Phần ngay sau đây sẽ phân tích những khó khăn trong thực tiễn có thể gây ra bởi sự thiếu sót và những quy định mập mờ trong pháp luật Việt Nam về luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài.
2.2. Thực tiễn việc áp dụng luật điều chỉnh thỏa thuận trọng tài tại Việt Nam
Qua phần trên đây có thể thấy rằng, vấn đề luật điều chỉnh thỏa thuận trọng tài trong pháp luật Việt Nam được quy định rất mập mờ, không rõ ràng và thiếu tính hệ thống. Có vẻ như các nhà làm luật chưa thực sự quan tâm đến tầm quan trọng của loại luật này bên cạnh luật nội dung và luật hình thức trong tố tụng trọng tài. Điều này có thể lí giải tại sao các doanh nghiệp Việt Nam không coi trọng việc lựa chọn luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài. Trong khi pháp luật Việt Nam “mở đường” cho việc lựa chọn của các bên và tôn trọng ý chí thống nhất của các bên nhưng các bên trong tranh chấp đã bỏ lỡ mất cơ hội này của mình, dẫn đến việc họ phải trao vào tay trọng tài viên một công việc không hề đơn giản. Và hội đồng trọng tài cũng cần thêm thời gian để giải quyết thêm vấn đề này trước khi có thể giải quyết thực chất vụ tranh chấp dẫn đến quá trình tố tụng trọng tài bị kéo dài, các bên mất thêm nhiều thời gian để chờ đợi vụ việc được giải quyết một cách dứt điểm. Đó mới chỉ là vấn đề về thời gian và chi phí, nó có thể gây trở ngại và kéo dài quá trình tố tụng trọng tài, nhưng nếu phán quyết được công nhận và thi hành thì việc tốn kém đó cũng “có thể chấp nhận được”.
Bên cạnh đó, việc quy định mập mờ và không thống nhất trong pháp luật Việt Nam về vấn đề luật áp dụng nói chung và luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài nói riêng còn có thể dẫn đến một hậu quả “tai hại” hơn đó là phán quyết có thể bị tòa án nơi phán quyết được tuyên hủy hoặc không được tòa án nước ngoài công nhận và cho thi hành bản án. Điều này dẫn đến việc là mục đích của việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài không được đáp ứng, các bên vừa mất tiền, mất thời gian mà “tật thì vẫn mang”. Ta có thể hiểu rõ được hậu quả này thông qua ví dụ sau đây. Giả sử rằng, các bên kí kết một thỏa thuận trọng tài (không cần quan tâm đến hình thức của thỏa thuận là điều khoản trọng tài hay thỏa thuận đưa tranh chấp lên giải quyết bằng trọng tài) và không lựa chọn luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài đó. Địa điểm diễn ra trọng tài là nước A và Hội đồng trọng tài quyết định lựa chọn “luật mà họ thấy phù hợp” là luật nước B để điều chỉnh thỏa thuận trọng tài. Theo luật của nước B, thỏa thuận trọng tài có hiệu lực. Nhưng theo luật nước A thỏa thuận trọng tài lại vô hiệu. Sau khi hội đồng trọng tài ra phán quyết, bên thắng kiện đem phán quyết đến Việt Nam yêu cầu tòa án công nhận và thi hành phán quyết tại Việt Nam. Và theo Điều 370 khoản 1(b) Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam năm 2004 về các trường hợp không công nhận phán quyết của trọng tài nước ngoài tại Việt Nam, phán quyết này không được công nhận do thỏa thuận trọng tài không có hiệu lực theo luật ở nơi phán quyết được tuyên. Như vậy, mặc dù phán quyết của trọng tài đã được tuyên nhưng không thể được thi hành bởi thỏa thuận trọng tài giữa hai bên không phù hợp với pháp luật của nơi phán quyết được lập. Trong trường hợp này, chính các trung tâm trọng tài hay hội đồng trọng tài đã ra phán quyết cũng “bó tay” và không thể can thiệp được, việc giải quyết tranh chấp có thể coi như là quay lại từ đầu.
Thực tiễn cho thấy rằng, các vụ tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài tại Việt Nam hiện nay còn rất ít và chủ yếu tập trung tại Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam VIAC. Mà ngay cả tại VIAC, số vụ việc được giải quyết hàng năm cũng chưa bao giờ vượt quá con số 100 vụ. Một phần lí do mà trọng tài Việt Nam chưa được các doanh nghiệp trong nước, doanh nghiệp nước ngoài cũng như các nhà đầu tư nước ngoài tin tưởng là do việc giải quyết tranh chấp chưa thực sự hiệu quả và chưa đạt được mục đích cuối cùng là phán quyết trọng tài được thi hành và công nhận. Tại Việt Nam, chỉ có các tòa án tại các thành phố lớn (cụ thể là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh và gần đây là Đà Nẵng) mới có thái độ tích cực đối với trọng tài, còn tại các tòa án địa phương nhỏ, các thẩm phán vẫn chưa thực sự đánh giá đúng vai trò của trọng tài trong việc giải quyết các tranh chấp thương mại nên các phán quyết có khả năng bị hủy rất cao.
Đối với các vấn đề liên quan đến trọng tài, các trọng tài viên Việt Nam thường tập trung vào giải quyết các quy định mập mờ, không rõ ràng trong thỏa thuận lựa chọn trọng tài để giải quyết tranh chấp mà hầu như không phải xác định luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài vì vấn đề hiệu lực của nó, đặc biệt là khi các bên tranh chấp không nhắc đến luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài. Có phải chăng các trọng tài viên cũng “ngại” động chạm đến vấn đề này vì, như đã phân tích ở trên, luật pháp Việt Nam chưa thực sự quy định rõ ràng và cụ thể về vấn đề này đồng thời cũng không có một phương pháp nào để xác định luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài một cách thống nhất trong luật Việt Nam. Do đó, các hội đồng trọng tài trong từng vụ việc thường giải quyết theo cách riêng của mình, cố gắng “lảng tránh” vấn đề luật điều chỉnh thỏa thuận trọng tài. Điều này tạo nên một thực tiễn xét xử tùy tiện trong trọng tài, gây khó khăn trong việc thi hành phán quyết tại Việt Nam và cả việc được công nhận và thi hành phán quyết ở nước ngoài. Đây có thể được coi là một bất lợi của các trung tâm trọng tài Việt Nam so với các trung tâm trọng tài uy tín khác trên thế giới và khu vực, nơi luật pháp về trọng tài được quy định một cách cụ thể và các hội đồng trọng tài áp dụng luật pháp một cách thống nhất hơn.
Toàn bộ phần trên đây cho thấy một bức tranh toàn cảnh về thực trạng pháp luật Việt Nam trong vấn đề luật điều chỉnh thỏa thuận trọng tài cũng như thực tiễn vấn đề này trong giải quyết tranh chấp bằng trọng tài tại Việt Nam. Có thể thấy rằng, việc thiếu sót một quy định hoặc phương pháp lựa chọn cụ thể liên quan đến luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài trong các văn bản chuyên ngành là một bất lợi lớn cho sự phát triển của trọng tài tại Việt Nam, nhất là trong điều kiện thị trường trọng tài ở Việt Nam còn rất nhỏ bé, chưa nhận được nhiều sự quan tâm của giới kinh doanh trong và ngoài nước. Trong cả hệ thống pháp luật trọng tài, chỉ có một điều khoản duy nhất trong bộ luật Tố tụng dân sự nhắc đến khái niệm “luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài”, qua đó có thể thấy các nhà làm luật chưa thực sự quan tâm và đánh giá được tầm quan trọng của vấn đề này. Để thúc đẩy sự phát triển của phương pháp giải quyết tranh chấp bằng trọng tài tại Việt Nam đồng thời gây dựng lòng tin của các doanh nghiệp đối với các trung tâm trọng tài tại Việt Nam, điều thiết yếu là cần phải sửa đổi và hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật về trọng tài nhằm tạo một cơ sở pháp lý vững chắc giúp thị trường trọng tài Việt Nam tiếp tục tiến lên để bắt kịp với các nước trong khu vực và sau này là trên toàn thế giới.
3. Một số gợi ý cho việc sửa đổi và hoàn thiện các quy định về luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài tại Việt Nam
Quốc hội đã mất khá nhiều thời gian để chuẩn bị cho sự ra đời của Luật trọng tài Việt Nam năm 2010. Và thực sự luật này đã đóng góp rất nhiều cho sự phát triển của trọng tài tại Việt Nam. Mặc dù còn “non trẻ” nhưng thị trường trọng tài tại Việt Nam ít nhiều cũng dần đi vào ổn định, phù hợp với các quy định trong các điều ước quốc tế và các tập quán thương mại quốc tế. Tuy thời gian ban hành và có hiệu lực chưa lâu (tính đến nay, Luật trọng tài thương mại mới có hiệu lực được 1 năm 4 tháng) nhưng nó cũng đóng góp đáng kể cho sự phát triển của thương mại Việt Nam nói chung và trọng tài thương mại tại Việt Nam nói riêng. Mặc dù vậy nhưng Luật trọng tài Việt Nam 2010 vẫn chưa thực sự hoàn hảo và còn nhiều thiếu sót, trong một số điều khoản còn chưa theo được sự tiến bộ của Luật mẫu của UNCITRAL về trọng tài thương mại quốc tế. Tất nhiên, công việc sửa đổi luật không phải là một việc một sớm một chiều có thể làm ngay được, nhưng đây là một vấn đề thật sự cần thiết và cần được cân nhắc trong tương lai. Nội dung của phần này sẽ nhằm đưa ra một số gợi ý cho việc sửa đổi hoặc bổ sung Luật trọng tài Việt Nam năm 2010, đặc biệt trong vấn đề luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài nhằm hoàn thiện hơn các quy định của luật này nói riêng và của hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung.
Trước hết, một công việc cần thiết và có thể làm ngay trong tương lai gần là cơ quan lập pháp nên ban hành ngay văn bản hướng dẫn thi hành Luật trọng tài năm 2010 bởi lẽ trong luật còn quá nhiều những chỗ quy định mập mờ, không rõ ràng, cần được giải thích một cách cụ thể để việc áp dụng được thống nhất, tránh việc các tòa án hoặc các trọng tài viên giải thích luật một cách tùy tiện. Đây là hi vọng và mong mỏi của rất nhiều các luật sư, các trọng tài viên và các bên tham gia giao dịch thương mại có nguyện vọng giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Liên quan đến vấn đề luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài, Điều 18 khoản 6, cần được giải thích một cách cụ thể những điều cấm của pháp luật bao gồm những gì? Pháp luật ở đây là pháp luật của nước nào? Là pháp luật nơi thỏa thuận trọng tài được kí kết? Pháp luật Việt Nam? Pháp luật nơi diễn ra trọng tài hay là luật pháp áp dụng cho thỏa thuận trọng tài đó? Kể cả trong trường hợp như giả định đã nêu ở trên, nếu mục đích của Luật trọng tài thương mại Việt Nam là buộc các thỏa thuận trọng tài phải tuân theo pháp luật Việt Nam thì điều này cũng cần được giải thích cụ thể và quy định rõ ràng. Theo ý kiến của cá nhân tác giả, cần thiết đưa vấn đề luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài vào ngay điều khoản này. Điều này sẽ góp phần nâng cao nhận thức của các doanh nghiệp, những người soạn thảo thỏa thuận trọng tài về tầm quan trọng của luật áp dụng cho thỏa thuận của họ, giảm thiếu những khó khăn và tranh chấp về sau này.
Thứ hai, việc sửa đổi và hoàn thiện Luật trọng tài năm 2010 cũng cần được tính đến trong tương lai không xa, nhằm bắt kịp xu thế của toàn cầu và đáp ứng sự phát triển trong công cuộc hội nhập kinh tế của Việt Nam. Những điều khoản liên quan đến luật áp dụng một cách chung chung cần phải được làm rõ và sửa đổi theo tinh thần của Luật mẫu của UNCITRAL về trọng tài thương mại quốc tế. Cụ thể hơn, cần phải có những quy định riêng biệt đối với luật áp dụng cho thủ tục tố tụng trọng tài, luật áp dụng cho nội dung vụ tranh chấp và luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài. Pháp luật trọng tài Việt Nam đặc biệt đề cao tính độc lập và tự quyết của các bên khi tham gia giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, tuy nhiên, các bên thường bỏ qua cơ hội “được tự quyết” này của mình và thường dành lại phần việc khó khăn đó cho hội đồng trọng tài. Do dó, hội đồng trọng tài cần có được những định hướng về phương án lựa chọn pháp luật một cách thống nhất và cụ thể để có thể chấm dứt thực trạng các hội đồng trọng tài hành xử theo cách riêng của mình trong mỗi vụ việc.
Đặc biệt trong vấn đề luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài, Việt Nam có thể tham khảo các tiêu chí lựa chọn như đã được phân tích ở chương II để đưa vào thành quy định hướng dẫn cho các trọng tài viên trong việc đưa ra quyết định về luật áp dụng này. Dù trong Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam đã có một thừa nhận rằng “thỏa thuận trọng tài phải tuân theo luật do các bên lựa chọn hoặc luật tại nơi phán quyết được ban hành trong trường hợp các bên không có sự lựa chọn luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài” tuy nhiên quy định này chưa thực sự ưu việt bởi trong trường hợp như ví dụ ở phần trên, khả năng phán quyết của trọng tài không được công nhận vẫn còn khá cao. Như đã phân tích ở chương II, luật nội dung giải quyết vụ tranh chấp chỉ phù hợp để trở thành luật điều chỉnh thỏa thuận trọng tài trong trường hợp thỏa thuận trọng tài được thành lập ở hình thức điều khoản trọng tài. Trong khi đó, luật tại nơi phán quyết được ban hành có thể áp dụng cho cả điều khoản trọng tài và thỏa thuận đưa tranh chấp ra trọng tài. Đồng thời, luật Việt Nam cũng luôn ủng hộ quyền tự quyết của các bên trong việc lựa chọn luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài. Như vậy, để tối đa hóa khả năng có hiệu lực của trọng tài nhằm gia tăng số lượng phán quyết của trọng tài được tòa án công nhận và cho thi hành tại Việt Nam, luật trọng tài Việt Nam nên đưa thêm vào điều khoản về luật điều chỉnh cho thỏa thuận trọng tài chẳng hạn như: “Thỏa thuận trọng tài sẽ có hiệu lực nếu nó phù hợp với luật pháp được lựa chọn bởi các bên hoặc với luật pháp điều chỉnh nội dung của tranh chấp hoặc phù hợp với luật nơi diễn ra trọng tài”.
Bên cạnh đó, các nhà làm luật cũng có thể tham khảo luật trọng tài của một số nước có hệ thống luật pháp phát triển để có thể lựa chọn phương án hợp lý và phù hợp nhất với hoàn cảnh của Việt Nam. Một trong những hướng tiếp cận rất tiến bộ đã được thừa nhận trong Bộ luật Tư pháp quốc tế của Liên bang Thụy Sỹ đó là tổng hợp các tiêu chí lựa chọn vào trong một điều khoản quy định về luật áp dụng đối với thỏa thuận trọng tài. Theo Điều 178 khoản 2 Bộ luật Tư pháp quốc tế của Liên bang Thụy Sỹ: “Liên quan đến vấn đề nội dung, thỏa thuận trọng tài sẽ có hiệu lực nếu có phù hợp với luật được lựa chọn của các bên, hoặc với luật điều chỉnh vấn đề đang tranh chấp, hay cụ thể là luật điều chỉnh hợp đồng chính hoặc phù hợp với luật Thụy Sỹ”. Quy định này đã tối đa hóa khả năng có hiệu lực của thỏa thuận trọng tài trong các vấn đề liên quan đến luật áp dụng dành cho nó hơn nữa vẫn đề cao được vai trò của luật quốc gia. Theo khuôn mẫu của điều khoản này, ta có thể đưa vào luật Việt Nam điều khoản về luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài như sau: “Thỏa thuận trọng tài sẽ có hiệu lực nếu nó phù hợp với luật pháp được lựa chọn bởi các bên hoặc với luật pháp điều chỉnh nội dung của tranh chấp hoặc với luật nơi diễn ra trọng tài hoặc phù hợp với luật Việt Nam”. Phương án này đã bao gồm những tiêu chí luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài ưu việt và an toàn nhất, nó cũng tương đối phù hợp với các văn bản pháp luật quốc tế về trọng tài, thực tiễn giải quyết tranh chấp tại các trung tâm trọng tài lớn, các tòa án quốc gia trên thế giới và phù hợp với tinh thần của Luật trọng tài thương mại Việt Nam năm 2010. Dù có lựa chọn phương án hay tiêu chí nào đi chăng nữa thì chúng ta cũng phải thừa nhận rằng, càng quy định cụ thể và nhiều lựa chọn bao nhiêu thì khả năng có hiệu lực của thỏa thuận trọng tài càng cao lên bấy nhiêu và do đó, loại trừ bớt khả năng phán quyết không được công nhận do không phù hợp với luật áp dụng cho nó.
Mặt khác, cần thúc đẩy việc tập hợp các quy định về trọng tài vào một văn bản chuyên ngành thống nhất, mà cụ thể là chuyển phần các quy định về việc công nhận và thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài tại Việt Nam và của trọng tài Việt Nam tại nước ngoài vào Luật về trọng tài thương mại. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho việc theo dõi, nghiên cứu cũng như áp dụng pháp luật của các đối tượng có liên quan. Trong trường hợp có một quy định cụ thể về luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài như vừa phân tích ở trên, việc sửa đổi những cơ sở để tòa án Việt Nam hủy những phán quyết được tuyên tại Việt Nam hoặc công nhận những phán quyết của trọng tài nước ngoài để thi hành tại Việt Nam cũng cần được thay đổi để phù hợp với các tiêu chí được đề cập như trên, tránh trường hợp pháp luật mâu thuẫn lẫn nhau và hệ quả cực xấu là các quyết định của trọng tài liên tiếp bị hủy hoặc không được công nhận và thi hành, việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thất bại.
Tóm lại, về lâu về dài, những khiếm khuyết và hạn chế trong pháp luật Việt Nam về luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài cần phải được khắc phục, sửa đổi và hoàn thiện hơn. Tất nhiên việc sửa đổi này cũng cần thời gian và cần những chuyên gia nghiên cứu pháp luật các nước phát triển, tìm ra hướng thay đổi tích cực và phù hợp nhất với thể chế chính trị cũng như hệ thống pháp luật của Việt Nam. Cũng cần phải chú ý rằng, với sự phát triển của cơ chế thị trường tại Việt Nam và trên thế giới, các nhà đầu tư cũng như các doanh nghiệp nước ngoài không chỉ đơn giản chờ đợi sự phát triển của trọng tài ở Việt Nam. Các nhà đầu tư cá nhân cũng như các quốc gia đều đã tiến hành những cuộc đối thoại với chính phủ Việt Nam về hi vọng vào sự sửa đổi và hoàn thiện hệ thống pháp luật của Việt Nam. Cộng đồng quốc tế thậm chí còn khuyến khích và giúp đỡ cho công cuộc này bằng rất nhiều phương thức khác nhau chẳng hạn như việc cung cấp và hỗ trợ các chuyên gia pháp lý, các nhà tư vấn hoặc tập trung vào việc tổ chức những cuộc hội thảo, chương trình để đào tạo các thẩm phán, luật sư, các trọng tài viên đồng thời trao đổi các chuyên gia nhằm hỗ trợ cho việc phát triển và hoàn thiện hệ thống pháp luật của Việt Nam nói chung và pháp luật trong lĩnh vực trọng tài thương mại nói riêng. Khi hệ thống luật pháp về trọng tài được hoàn thiện, điều này sẽ tạo điều kiện cho trọng tài phát triển sánh ngang tầm với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Và một điều cuối cùng cần lưu ý rằng, trong bất kỳ bối cảnh nào và trong bất kì pháp luật nước nào, thỏa thuận trọng tài cũng sẽ có hiệu lực nếu phù hợp với luật pháp mà các bên đã thỏa thuận lựa chọn. Chính vì thế, để giảm thiểu các rắc rối có thể xảy ra trong quá trình trọng tài, giúp cho việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đạt đến mục đích cuối cùng một cách thành công nhất, các bên cần dành thời gian để thỏa thuận kỹ lưỡng về thỏa thuận trọng tài và đặc biệt không nên bỏ qua quyền lựa chọn luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài của mình. Việc lựa chọn này của các bên có thể ảnh hưởng không nhỏ đến phán quyết của trọng tài sau này, đồng thời nó cũng giúp các bên tiết kiệm được chi phí và thời gian giải quyết tranh chấp, tạo điều kiện cho các trọng tài viên tập trung vào giải quyết vấn đề nội dung mà không phải quan tâm đến các vấn đề “ngoài lề” nữa. Đây là yếu tố quyết định sự thành bại của việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.
Trong tương lai, việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài chắc chắn sẽ đóng một vai trò quan trọng trong các phương thức giải quyết tranh chấp tại Việt Nam và những gợi ý cho việc sửa đổi như trên đây hi vọng sẽ đóng góp một phần nhỏ cho sự phát triển nhanh và mạnh của ngành này tại Việt Nam.
KẾT LUẬN
Trong bối cảnh thế giới đang ngày một “phẳng” ra, một quốc gia muốn tồn tại và phát triển thì không thể bó hẹp mình trong đường biên giới, mà bắt buộc phải hội nhập với khu vực cũng như toàn thế giới. Toàn cầu hóa đang trở thành một xu thế tất yếu và Việt Nam cũng không thể nằm ngoài xu thế đó.
Gia nhập vào sân chơi chung của khu vực và quốc tế, đặc biệt là trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đã tạo cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam và nước ngoài có thể trao đổi hàng hóa qua các thị trường của nhau, đồng thời có thể tiếp cận được các nguồn vốn lớn và tiếp cận được nhanh chóng với những công nghệ tiên tiến trên thế giới để mở rộng qui mô sản xuất cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Song, đối với Việt Nam, hội nhập quốc tế cũng đặt ra nhiều thách thức cho nền kinh tế thị trường còn rất non trẻ, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp trong việc chiếm lĩnh thị trường nội địa và quốc tế.
Sau hơn 20 năm đổi mới và hội nhập, doanh nghiệp Việt Nam không những tăng nhanh về số lượng, lớn mạnh về quy mô mà còn vươn tầm hoạt động ngày càng sâu rộng hơn trên thị trường quốc tế. Điều đó dẫn đến tình trạng các doanh nghiệp gặp phải ngày một nhiều hơn các tranh chấp trên thị trường quốc tế và phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đang ngày được các doanh nghiệp quan tâm hơn.
Trọng tài tốt hay không thể hiện ở việc phán quyết trọng tài có khả năng thi hành hay không hay chỉ mãi mãi nằm trên văn bản. Trên thực tế, Việt Nam đang không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật về trọng tài để hỗ trợ cho việc thực thi phán quyết trọng tài được nhanh chóng, hiệu quả và chính xác hơn. Trong đó, một trong những việc cấp thiết cần quan tâm đó là vấn đề luật áp dụng với thỏa thuận trọng tài. Vì vậy, khóa luận đi sâu vào việc nghiên cứu pháp luật về việc lựa chọn luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài tại một số quốc gia trên thế giới để từ đó rút ra bài học cho Việt Nam, đây là một việc thực sự cần thiết. Sau thời gian nghiên cứu, tác giả có thể đưa ra một số kết luận như sau:
1, Thỏa thuận trọng tài nói chung và luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài nói riêng là một vấn đề được đánh giá cao trong việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Theo các văn bản pháp luật quốc tế về trọng tài cũng như luật quốc gia của một số nước, luật pháp điều chỉnh thỏa thuận trọng tài là yếu tố có ảnh hưởng sâu sắc đến việc công nhận và thi hành bản án của trọng tài.
2. Trong bất cứ trường hợp nào, hội đồng trọng tài và tòa án luôn phải tôn trọng và ưu tiên luật được lựa chọn bởi các bên do đó, luật quốc tế cũng như luật pháp các nước đều để ngỏ cho các bên quyền lựa chọn luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài. Chính vì thế, các doanh nghiệp, các nhà đầu tư trong các hợp đồng được khuyến khích lựa chọn luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài ngay từ đầu nhằm tiết kiệm thời gian và chi phí trong quá trình giải quyết tranh chấp.
3. Việc suy diễn luật áp dụng cho nội dung vụ tranh chấp chính là luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài không phải là một sự suy luận an toàn. Mặc dù rất nhiều tòa án cũng như hội đồng trọng tài lựa chọn phương án này nhưng đây không phải phương án duy nhất và an toàn nhất cho việc lựa chọn luật điều chỉnh thỏa thuận trọng tài. Ngoài luật áp dụng cho nội dung vụ tranh chấp, trọng tài viên có thể lựa chọn luật tại nơi diễn ra trọng tài, luật hình thức điều chỉnh thủ tục giải quyết tranh chấp bằng trọng tài hay luật của tòa án nơi đang giải quyết tranh chấp liên quan đến hiệu lực của thỏa thuận trọng tài làm luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài. Tuy nhiên, tiêu chí được thừa nhận rộng rãi, được lựa chọn nhiều nhất và an toàn nhất là luật tại nơi trọng tài diễn ra hay còn gọi là luật nơi phán quyết được tuyên.
4. Mặc dù Luật trọng tài thương mại Việt Nam năm 2010 có nhiều điểm tiến bộ và đã nhận thức được tầm quan trọng của thỏa thuận trọng tài, tuy nhiên Luật này nói riêng và pháp luật Việt Nam nói chung vẫn chưa thực sự đánh giá được đúng tầm quan trọng của luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài và thường coi nhẹ vấn đề này. Việc làm cấp thiết trong thời gian tới nhằm sửa đổi hoàn thiện hệ thống pháp luật trọng tài về Việt Nam đó là:
Thứ nhất, xây dựng, sửa đổi và bổ sung điều khoản về luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài căn cứ vào tình hình thực tiễn cũng như tham khảo luật pháp của một số nước phát triển trên thế giới.
Thứ hai, đưa điều khoản liên quan đến công nhận và thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài trong Bộ luật tố tụng dân sự vào Luật trọng tài thương mại nhằm đưa Luật trọng tài thương mại trở thành một văn bản thống nhất và hoàn thiện nhất về trọng tài.
Cuối cùng, tác giả hi vọng rằng khóa luận sẽ góp một phần nhỏ vào việc thúc đẩy việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về trọng tài ở Việt Nam, tiến lại gần hơn với các quy chuẩn quốc tế. Với “tuổi đời non trẻ”, chặng đường phía trước của trọng tài thương mại quốc tế tại Việt Nam còn rất dài, tuy nhiên với từng bước tiến và hội nhập vững vàng, trọng tài thương mại quốc tế tại Việt Nam nói riêng và hệ thống thương mại quốc tế tại Việt Nam nói chung sẽ ngày càng phát triển hơn và sánh ngang với các nước trong khu vực cũng như trên toàn thế giới.

Dịch Vụ Viết Luận Văn Ngành Luật 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://vietluanvanluat.com/ – Hoặc Gmail: vietluanvanluat@gmail.com