Khóa luận: Thực trạng về kinh tế và phong tục người H’mong

Chia sẻ cho các bạn sinh viên ngành luật bài Khóa luận: Thực trạng về kinh tế và phong tục người H’mong cho các bạn đang chuẩn bị làm bài khóa luận cùng nhau tham khảo nhé. khóa luận môn học là một trong những yêu cầu bắt buộc của các trường đại học, và Cao Học. Đối với sinh viên hay học viên tất cả các khóa học đều bắt buộc phải làm một bài khóa luận, với đề tài bắt buộc hoặc là một đề tài cụ thể nào đó ví dụ như đề tài Khóa luận: Thực trạng về kinh tế và phong tục người H’mong các bạn cùng  tham khảo đề tài khóa luận dưới đây nhé.

Chương 2: Thực trạng Văn hóa tộc người H’mong ở Lài Cai Sapa

2.1. Lịch sử hình thành tộc người H’mong ở Sapa Lào Cai Khóa luận: Thực trạng về kinh tế và phong tục người H’mong

  • Dân tộc H’mong sinh sống ở Việt Nam có khoảng 80 vạn người thuộc nhóm ngôn ngữ: Hmông- Dao. Người Hmông (từ Quí Châu- Vân Nam- Quảng Tây-Trung Quốc) thiên di vào Việt Nam cách ngày nay khoảng 300 năm, bằng nhiều đợt, rải rác suốt thời gian dài cho tới cuối thế kỷ XIX. Người Hmông vào Việt Nam là do nguyên nhân: trong lịch sử các triều đại phong kiến Trung Hoa đã gây ra nhiều cuộc chiến tranh tàn bạo và đẫm máu, đàn áp nhiều tộc người (trong đó có dân tộc Hmông), để giành quyền cai trị đất nước, làm người Hmông phải thiên di đi khắp nơi.
  • Điểm đầu tiên, họ đặt chân đến là Mèo Vạc trên cao nguyên Đồng Văn (Hà Giang), nơi địa đầu Tổ quốc Việt Nam. Vì thế, người Hmông sinh sống ở Việt Nam đều coi cao nguyên Đồng Văn là quê hương đất tổ của mình. Người Hmông phân chia thành 4 nhóm: Hmông Hoa (Hmông Lềnh), Hmông Đen (Hmông Dú), Hmông Xanh (Hmông Chúa), Hmông Trắng (Hmông Đu). Tuy có 4 nhóm Hmông khác nhau, nhưng về ngôn ngữ và văn hoá cơ bản giống nhau, sự khác nhau giữa các nhóm chủ yếu là dựa trên trang phục phụ nữ.
  • Dân tộc Hmông phân bố khắp trên các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam: Quảng Ninh, Lạng Sơn, Bắc Cạn, Cao Bằng, Hà Giang, Tuyên Quang, Yên Bái, Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hoà Bình, Thanh Hoá, Nghệ An và số ít ở Phú Thọ. Sau ngày giải phóng miền Nam (1975), một bộ phận Người Hmông di cư vào sinh sống ở các tỉnh Tây Nguyên. Người Hmông ở Việt Nam có mối quan hệ chặt chẽ về nguồn gốc, ngôn ngữ, văn hoá với cộng đồng người Mẹo ở Lào, người Mông ở Thái Lan, người Miêu ở Trung Quốc và Myanma.
  • Tuy cư trú ở độ cao từ 700m đến 1.500m, rải rác khắp nơi trên miền núi phía Bắc Việt Nam và trên Tây Nguyên, nhưng tộc người Hmông vẫn duy trì được bản sắc văn hoá độc đáo của mình trong cộng đồng quốc gia dân tộc Việt Nam.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Dịch Vụ Viết Thuê Khóa Luận Ngành Du Lịch

2.2 Điều kiện kinh tế – xã hội

2.2.1. Thực trạng về kinh tế tộc người H’mong Khóa luận: Thực trạng về kinh tế và phong tục người H’mong

  • Trồng trọt: Đồng bào dân tộc H’mông chủ yếu canh tác trên diện tích lúa nước (ruộng bậc thang 01 vụ), diện tích nương trồng ngô, đỗ. Phỏng vấn tại 1.757 hộ tại 19 xã dân tộc H’mông thực hiện đề tài khoa học năm 2012 cho thấy, đã có 1.740/1.757 hộ đưa giống lúa mới, ngô mới có năng suất cao, có giá trị kinh tế vào sản xuất chiếm 93,34%. Tại 45 thôn bản khảo sát, đã có 42 mô hình sản xuất nông, lâm nghiệp, 1.870 lượt người được tập huấn kỹ thuật về sản xuất; 1.044 lượt hộ được hỗ trợ máy móc, thiết bị phục vụ sản xuất, chế biến sản phẩm; 4.440 lượt hộ được hỗ trợ vật tư sản xuất nông, lâm nghiệp, khai hoang mới diện tích lúa nước, duy trì và mở rộng diện tích thâm canh lúa, ngô hàng hóa, hình thành vùng thảo quả, chuối, dứa, cây ăn quả, thuốc lá, đậu tương cao sản, chè, sắn; bước đầu một số thôn bản có người Mông sinh sống được quy hoạch trồng cây cao su… Số hộ có nguyện vọng vay vốn hỗ trợ sản xuất ngày càng tăng, đã có 68,86% số hộ sử dụng các nguồn vốn vay để phát triển sản xuất.
  • Chăn nuôi: Khảo sát, phỏng vấn ở 1757 hộ (tại 19 xã khảo sát thực hiện đề tài năm 2012) đàn đại gia súc có 10.078 con (trâu 8.282, bò 993, ngựa 803) trung bình mỗi hộ có 1,25 con. Đàn lợn 19.980 con, trung bình mỗi hộ có 2,48 con. Trên 80.000 con gia cầm, trung bình mỗi hộ có khoảng 15 con.
  • Về lâm nghiệp: Diện tích đất lâm nghiệp và rừng ở Lào Cai chiếm 79,67 % diện tích đất tự nhiên (336.210,6 ha), hơn 80% dân số là đồng bào dân tộc thiểu số, sống nhờ vào nguồn tài nguyên rừng. Thực hiện Chỉ thị 38 của Chính phủ, tỉnh Lào Cai đã rà soát xong và cắm 4.946 mốc giới các loại rừng theo mục đích sử dụng, qua đó đã chuyển hơn 200 nghìn ha đất lâm nghiệp và rừng phòng hộ ít xung yếu phục vụ phát triển rừng sản xuất. Tính đến 2012, Lào Cai đã cơ bản giao xong 286 nghìn ha đất lâm nghiệp cho hơn 50 nghìn hộ gia đình và 15 tổ chức nhận khoanh nuôi bảo vệ và trồng rừng kinh tế. Qua hai năm thực hiện đề án chuyển đổi nương rẫy sang trồng rừng kinh tế, gần 400 hộ nông dân vùng cao, vùng sâu thuộc ba huyện nghèo (diện chương trình 30a và có đông đồng bào H’mông) là Mường Khương, Bắc Hà và Si Ma Cai đã chuyển đổi được 350 ha nương rẫy sang trồng rừng bằng các loại cây bản địa có khả năng thích nghi cao, ngoài thân gỗ còn cho thu quả, hạt để bán ra thị trường như trám, sơn tra (táo mèo), trẩu, tre măng Bát Ðộ đem lại hiệu quả kinh tế cao.
  • Thương mại, dịch vụ: Phát triển thương mại – dịch vụ, du lịch vùng đồng bào dân tộc Mông bước đầu hình thành ở một số địa phương, như Hầu Thào, Lao Chải (Sa Pa), Bản Phố (Bắc Hà), Sín Chéng (Si Ma Cai). Ở một số xã, như: Bản Lầu (Mường Khương), Phong Niên (Bảo Thắng), Lùng Phình (Bắc Hà), các hộ tự mua, hoặc góp vốn mua ô tô tải làm phương tiện vận tải vật liệu, nông sản cho gia đình và bà con trong vùng. Tuy nhiên, đây là lĩnh vực tiềm năng chưa được khai thác phát triển ở vùng đồng bào dân tộc H’mông.

2.2.2. Thực trạng cơ sở hạ tầng du lịch

Trên phạm vi toàn tỉnh (462 thôn bản có trên 90% dân tộc H’mông) mới có 11,9% thôn bản được đầu tư đường nhựa, 35,28% thôn bản có đường cấp phối, 228 thôn bản làm đường đất, chiếm 49,36%; còn 16 thôn bản chưa có đường liên thôn, đi lại bằng đường mòn chiếm 3,46%. Tại 45 thôn, bản được khảo sát cho thấy, số hộ có xe máy chiếm 72,90%. Khóa luận: Thực trạng về kinh tế và phong tục người H’mong

Công trình thủy lợi được bê tông hóa, toàn tỉnh đạt tỷ lệ 69,8%, chủ động tưới tiêu được 86,16% diện tích lúa, cơ bản đáp ứng yêu cầu cho sản xuất và dân sinh. Tổng chiều dài kênh mương được kiên cố hiện nay có 843 km góp phần thực hiện tiêu chí nông thôn mới về thủy lợi, toàn tỉnh có 120 xã/144 xã đạt tiêu chí, còn 110 thôn bản vùng dân tộc H’mông chưa được đầu tư thủy lợi (chiếm 24%). Tại 19 xã được khảo sát đã có 15.870m kênh mương được cứng hóa, chiếm 83,63% góp phần chủ động tưới tiêu, giảm thất thoát nước và công sức nạo vét, tu sửa của nhân dân, hỗ trợ đắc lực cho sản xuất nông nghiệp, đảm bảo an ninh lương thực, ổn định đời sống nhân dân và bước đầu có sản phẩm bán ra thị trường.

Việc phát sóng qua vệ tinh VINASAT1 đã phủ kín 100% địa bàn. Số giờ phát sóng tiếng dân tộc năm 2012 là 1700 giờ; năm 2013 là 2700 giờ. Tỷ lệ hộ dân có thiết bị xem truyền hình 79%; Tỷ lệ hộ dân được xem truyền hình Việt Nam 87%; xem truyền hình Lào Cai 65%; Tỷ lệ hộ dân được nghe đài Tiếng nói Việt Nam 97%, Tỷ lệ hộ dân được nghe phát thanh địa phương 98%. Khảo sát tại 19 xã cho thấy có 3204 hộ dân tộc H’mông được xem truyền hình chiếm 77,50%, 3315 hộ được nghe đài Tiếng nói Việt Nam, đài Phát thanh- Truyền hình tỉnh chiếm 80,18%. Đến hết năm 2012, toàn tỉnh có 131 xã có điểm bưu điện văn hóa xã, 912 trạm phát sóng di động, 85% thôn bản được phủ sóng điện thoại di động đáp ứng tốt nhu cầu sử dụng dịch vụ điện thoại, internet của nhân dân.

Qua kết quả khảo sát tính đến năm 2012, 164 xã, phường, thị trấn toàn tỉnh có điện (đạt tỷ lệ 100%); 1869/2187 thôn bản có điện (đạt tỷ lệ 85,5%); 120.715/138.082 hộ nông thôn được sử dụng điện (đạt tỷ lệ 87,4%). Tại khu vực nông thôn có 143/143 xã có điện (đạt tỷ lệ 100%); 1344/1671 thôn bản có điện (đạt tỷ lệ 80,4%); 120.715/138.082 hộ được sử dụng điện (đạt tỷ lệ 83,5%). Thời điểm tháng 4/2014, toàn tỉnh còn 261 thôn bản chưa có điện. Số hộ đồng bào H’mông được sử dụng điện lưới là 16.530 hộ chiếm 67,61%.

Những năm gần đây được Nhà nước đầu tư cho nhiều thôn bản người Mông đã có hệ thống nước sinh hoạt bảo đảm vệ sinh, như xây bể nước, lu nước. Năm 2010, tỷ lệ hộ sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh 83,82%, đến năm 2012, tỷ lệ hộ sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh chỉ đạt 80,14% (Thành thị 87,88%; nông thôn 77,24%). Trong đó, có 16.290 hộ dân tộc H’mông được cấp nước sinh hoạt chiếm 66,62%. Nhiều công trình nước đã được đầu tư hoạt động kém hiệu quả (chỉ huyện Sa Pa tính đến tháng 7/2014, trên địa bàn huyện có 140 công trình cấp nước sinh hoạt tập trung, trong đó: 27 công trình hoạt động tốt, 94 công trình hoạt động kém, 19 công trình hỏng hoàn toàn.

Về tỷ lệ hộ sử dụng hố xí hợp vệ sinh toàn tỉnh, năm 2010 là 55,88 % (thành thị 75,85%; nông thôn 44,92%); năm 2012 là 55,30% (thành thị 100%; nông thôn 34,49%). Số hộ đồng bào H’mông chưa làm và sử dụng hố xí hợp vệ sinh còn 58,67% (số liệu tại địa bàn khảo sát).

Theo Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh, đến nay Lào Cai có 867 cơ sở lưu trú với trên 10.000 buồng, công suất sử dụng phòng bình quân đạt khoảng 60%. Toàn tỉnh có trên 500 nhà hàng lớn, nhỏ phục vụ du khách. Hàng loạt khu vui chơi giải trí đã và đang được hình thành như: Cáp treo Fansipan, Hàm Rồng, Cát Cát (Sa Pa), Hồ Na Cồ (Bắc Hà), công viên Nhạc Sơn, các khu tổ hợp dịch vụ, du lịch, vui chơi giải trí, tắm thuốc dân tộc, casino, dịch vụ mua bán hàng thổ cẩm,… đáp ứng nhu cầu đa dạng của du khách.

2.2.3. Thực trạng văn hóa, xã hội tộc người H’mông Khóa luận: Thực trạng về kinh tế và phong tục người H’mong

Về Giáo dục: Tại các xã có đông người H’mông, tỷ lệ huy động học sinh dân tộc Mông đến trường, bậc học mầm non đạt 90%; tiểu học, đạt 98%; THCS, đạt 97%. Việc dạy và học tiếng nói, chữ viết của dân tộc H’mông được triển khai tại một số trường mầm non, tiểu học thuộc 4 huyện Bắc Hà, Si Ma Cai, Sa Pa và Mường Khương. Đội ngũ giáo viên dân tộc H’mông trên địa bàn từng bước được tăng cường. Năm 2003 có 176 giáo viên, (chiếm 1,72%); năm 2012 có 409 giáo viên dân tộc H’mông, chiếm 2,45% tổng số giáo viên toàn nghành. Năm 2003 có 65 giáo viên có trình độ cao đẳng, đại học; năm 2012có 223 giáo viên có trình độ cao đẳng, đại học và 03 giáo viên có trình độ trên đại học.

Lễ hội truyền thống: Các lễ hội truyền thống của đồng bào H’mông được giữ gìn và phát huy. Đặc biệt lễ hội Gầu tào, hội thi múa khèn, thổi sáo, đàn môi … được duy trì tổ vào các lễ hội đầu năm ở vùng đồng bào H’mông. Tuy nhiên, một bộ phận giới trẻ, đang mất dần nét văn hóa đặc trưng truyền thống: về trang phục mặc váy áo, cách điệu được may sẵn từ các hoa văn của người Trung Quốc; ở vùng đồng bào theo các tôn giáo việc thờ cúng tổ tiên, hát dân ca, múa khèn, thổi sáo trong các lễ hội dân tộc H’mông gần như không còn.

Phong trào xây dựng gia đình văn hóa, thôn bản văn hóa: Các thôn bản đều triển khai xây dựng hương ước, quy ước xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư. Tại 19 xã được phỏng vấn, khảo sát đã có 2.858 hộ đạt tiêu chí Gia đình văn hóa năm 2012; 2.234 hộ đạt tiêu chí Gia đình văn hóa 3 năm liên tục. Khảo sát tại 45 thôn bản, việc cấp phát báo chí không thu tiền đều thông qua trưởng thôn. Có 72 hộ có người thường xuyên đọc báo, chiếm 4,09%; 860 hộ có người thỉnh thoảng đọc, chiếm 49%; 825 hộ không quan tâm đến việc đọc báo, chiếm 47%. Khóa luận: Thực trạng về kinh tế và phong tục người H’mong

Về cải tạo tập quán lạc hậu: Các địa phương thực hiện khá nghiêm túc Chỉ thị 27-CT/TW, ngày 12/10/1998 của Bộ Chính trị (khóa VIII); Chỉ thị 14/CT-TTg ngày 28/3/1998 của Thủ tướng Chính phủ; Quyết định 305/2002/QĐ-UB ngày 26/7/2002 của UBND tỉnh Lào Cai về việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội. Qua khảo sát tại 1757 hộ gia đình ở 45 thôn bản, năm 2012 có 320 đám cưới, trong đó thực hiện đúng nếp sống văn hóa đạt 92,21%; còn 25 đám cưới tảo hôn, chiếm 7,79%. Về đám tang, năm 2012 có 95 đám tang, trong đó thực hiện tốt quy định về nếp sống văn hóa 84 đám, chiếm 88,42%. 100% các đám tang của người H’mông tại các thôn bản được khảo sát đã cho người chết vào áo quan để chôn cất, còn một số trường hợp để quá thời gian. Về việc làm và sử dụng các công trình vệ sinh, tại thời điểm khảo sát tại 1.757 hộ, có 40 hộ sử dụng hố xí tự hoại chiếm 2,27%; 686 gia đình sử dụng các loại hố xí khác chiếm 39,04%, còn lại 58,67% hộ gia đình chưa làm và sử dụng hố xí.

Mạng lưới y tế: Đến nay, toàn tỉnh có 7,95 bác sĩ trên một vạn dân; 100% xã, phường có trạm y tế và y sĩ đa khoa, 34/164 trạm y tế có bác sỹ; 95,6% thôn bản có nhân viên y tế, cơ bản đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh cho nhân dân. Cán bộ y tế người H’mông có 145/3.928 cán bộ, y, bác sỹ toàn ngành, chiếm 3,7%. Tại 45 thôn bản cho thấy, 100% thôn bản có y tế thôn và cộng tác viên dân số, 23/45 thôn bản có bà đỡ thôn bản. Đội ngũ y, bác sĩ còn thiếu về số lượng và chất lượn g, nhất là cán bộ y tế dân tộc H’mông (số Bác sĩ DT H’mông có 17 người tăng 14 người so với năm 2004; y tá, y sĩ, kỹ thuật viên là 128 người tăng 58 người; so với cán bộ, y, bác sỹ toàn ngành, cán bộ DT mông có 145/3928, đạt 3,7%). Ở 32 xã có trên 90% dân tộc H’mông có 07 bác sỹ, trong đó có 01 bác sỹ người H’mông. Chính sách thu hút cán bộ y, bác sĩ về Trạm y tế xã vùng đồng bào dân tộc H’mông chưa đảm bảo thu hút, động viên an tâm công tác.

Công tác chăm sóc sức khỏe: Hàng năm 100% đồng bào dân tộc H’mông vùng khó khăn, được cấp bảo hiểm y tế miễn phí; Phụ nữ H’mông sinh đẻ có sự hỗ trợ của y tế, đạt trên 50%. Trẻ em trong độ tuổi được tiêm chủng đầy đủ đạt trên 95%, nhân dân ốm đau được đưa đến cơ sở y tế khám và điều trị, các hủ tục mê tín, dị đoan trong đau ốm cơ bản được xóa bỏ.

Dân số và gia đình: Công tác dân số gia đình và trẻ em được chú trọng, 100% thôn bản có cộng tác viên dân số, đẩy mạnh truyền thông dân số, thực hiện nhiều biện pháp kế hoạch giảm được tỷ lệ sinh. Qui mô hộ gia đình người Mông trung bình toàn tỉnh là 5,48 người; ở các xã có trên 90% dân tộc H’mông là 5,7 người/hộ; một số xã có qui mô hộ gia đình trung bình cao, như Lao Chải (Sa Pa) 6,27 người/hộ, Sàng Ma Sáo (Bát Xát) 6,19 người/hộ; xã có qui mô hộ gia đình trung bình thấp hơn, như Sín Chéng (Si Ma Cai) có 708 hộ, 3769 khẩu, trung bình 5,32 người/hộ.

Về nhà ở: Khảo sát tại 1.757 hộ gia đình năm 2012, số nhà kiên cố chiếm tỷ lệ 4,44%, nhà cấp IV chiếm 7,05%, nhà gỗ – nhà trình tường 1190 chiếm 63,74%, nhà đơn sơ 357 chiếm 20,32%, (tỷ lệ nhà đơn sơ toàn tỉnh năm 2009 là 18,1%) còn 08 hộ chưa có nhà ở chiếm 0,45% (chủ yếu do tách hộ, chờ làm nhà).

Mức sống và thu nhập: Đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào H‘mông tuy được cải thiện, nhưng nhìn chung còn thấp kém, tỷ lệ đói, nghèo cao. Thu nhập bình quân đầu người dân tộc H‘mông 4,67 triệu đồng/năm, tăng 3 lần so với năm 2004, thấp so với thu nhập bình quân toàn tỉnh 16 triệu đồng . Tỷ lệ đói nghèo, chiếm 39% so với tổng số hộ nghèo toàn tỉnh và chiếm 55,95% so với dân số người H‘mông (năm 2012). Khảo sát, phỏng vấn tại 1.757 hộ gia đình chothấy: hộ khá, giàu 16,67%, hộ cận nghèo 25,44%, hộ nghèo 57,88%. Qua đó cho thấy, kết quả giảm nghèo vùng đồng bào H‘mông còn chậm và chưa vững chắc.

2.2.4 Thực trạng hoạt động du lịch ở Sapa

2.2.4.1 Thực trạng về thị trường, xúc tiến và quảng bá du lịch Khóa luận: Thực trạng về kinh tế và phong tục người H’mong

Công tác xúc tiến, quảng bá được tăng cường mạnh mẽ, đổi mới cả về nội dung và hình thức, quảng bá hình ảnh du lịch SaPa Lào Cai. Ngoài việc tham gia các hội chợ, đón đoàn famtrip và mediatrip đến tìm hiểu sản phẩm, tổ chức các sự kiện văn hóa du lịch,… những cách thức mới cũng được tiếp cận và áp dụng như xúc tiến qua các kênh internet, mạng xã hội, thiết lập quan hệ công chúng, việc ứng dụng khoa học và công nghệ trong xúc tiến quảng bá, liên kết giữa điện ảnh, truyền hình và du lịch đã ngày càng được chú trọng. Thương hiệu du lịch Sa Pa – Lào Cai đã được định vị trong bản đồ du lịch Việt Nam.

Bởi vậy, chỉ trong 6 năm (2011 – 2016), lượng khách du lịch đến Lào Cai tăng gấp 2,8 lần (năm 2011 đạt gần 969 nghìn lượt khách, đến năm 2016 đạt gần 2,77 triệu lượt khách), tỷ lệ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt 31%/ năm. Đã thu hút trên 20.000 tỷ đồng trong lĩnh vực đầu tư du lịch. Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực du lịch ngày càng sâu rộng, góp phần quan trọng mở rộng thị trường nguồn khách quốc tế cho du lịch Việt Nam. Nguồn nhân lực du lịch đã tăng về số lượng và từng bước được cải thiện về chất lượng.

Năng lực cạnh tranh của du lịch Sapa vẫn thấp và chuyển biến chưa nhiều, mức tăng hạng cạnh tranh thấp. Nguyên nhân chủ yếu là do các doanh nghiệp du lịch của Sapa chủ yếu quy mô vừa và nhỏ, chậm đổi mới và thích ứng với nhu cầu, đòi hỏi ngày càng cao của khách du lịch. Chất lượng nguồn nhân lực thấp, 40% chưa qua đào tạo chuyên ngành, đặc biệt đội ngũ hướng dẫn viên, thuyết minh viên điểm đến năng lực, trình độ chưa đồng đều. Một số mô hình du lịch cồng đồng tuy hiệu quả nhưng đứng trước nguy cơ thương mại mại hóa một số dịch vụ, không chú trọng yếu tố văn hóa truyền thống, ẩm thực, văn nghệ vào khai thác phục vụ du lịch, chưa gắn với chia sẻ lợi ích cho cộng đồng. Phát triển hạ tầng giao thông kết nối đến các khu, tuyến, điểm du lịch vẫn còn hạn chế, đặc biệt là hệ thống các trạm dừng chân, bến đỗ xe tại các điểm tham quan chưa phát triển đồng bộ, chưa tạo thuận lợi cho vận chuyển hành khách…

Để khắc phục ngay những tồn tại, hạn chế trong quá trình thực hiện chiến lược phát triển du lịch trong những năm vừa qua; tỉnh Lào Cai tiếp tục chỉ đạo các cấp, các ngành, địa phương trong tỉnh thực hiện các nội dung Chiến lược, Qu y hoạch phát triển tổng thể du lịch Việt Nam và của tỉnh giai đoạn đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 cùng với triển khai đồng bộ các giải pháp của Chương trình hành động số 148-CTr/TU ngày 28/7/2017 của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn.

Đồng thời tiếp tục tuyên truyền nâng cao nhận thức, xác định rõ du lịch là ngành kinh tế tổng hợp, có tính liên ngành, liên vùng, xã hội hóa cao và nội dung văn hóa sâu sắc, có khả năng đóng góp lớn vào phát triển kinh tế, tạo nhiều việc làm, chuyển dịchcơ cấu kinh tế và tạo động lực cho các ngành, lĩnh vực khác phát triển. Thực hiện hiệu quả các kế hoạch tuyên truyền, xúc tiến quảng bá, hợp tác phát triển du lịch trong và ngoài nước. Đẩy mạnh phát triển sản phẩm du lịch chất lượng cao, gắn với xây dựng thương hiệu du lịch Lào Cai. Thu hút mạnh mẽ đầu tư cơ sở vật chất, xây dựng hạ tầng kỹ thuật đồng bộ nhằm thúc đẩy phát triển du lịch và dịch vụ du lịch. Phát triển sản phẩm, dịch vụ d lịch đi đôi với bảo vệ tài nguyên du lịch. Thực hiện các giải pháp bảo vệ cảnh quan thiên nhiên; sưu tầm, bảo tồn phát huy giá trị di sản văn hóa, di tích, danh thắng để phục vụ phát triển du lịch bền vững.

2.2.4.2 Thực trạng đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cho du lịch Sa Pa: Khóa luận: Thực trạng về kinh tế và phong tục người H’mong

Nguồn nhân lực phục vụ cho lĩnh vực du lịch trên địa bàn tỉnh Sa Pa đến thời điểm này tổng số mới có khoảng trên 2.500 lao động trực tiếp, trong đó trình độ từ cao đẳng trở lên chỉ chiếm 20%. Đa số lao động trực tiếp có trình độ trung, sơ cấp, chưa qua đào tạo chuyên ngành du lịch và làm việc theo hợp đồng thời vụ. Trong tổng số khoảng 400 hướng dẫn viên (HDV) du lịch trên địa bàn tỉnh đến nay chỉ có 54 trường hợp có thẻ HDV toàn quốc (chiếm 13,5%).

Sa Pa đang là 1 trong 4 điểm du lịch phát triển của các tỉnh miền núi phía Bắc. Hàng năm, trung bình Sa Pa đón trên 300.000 lượt khách quốc tế (chủ yếu là khách châu Âu), nên số lượng HDV có thẻ như trên chưa đáp ứng được nhu cầu hướng dẫn khách. Đội ngũ HDV chuyên nghiệp vừa thiếu vừa yếu, đa số các HDV chưa được đào tạo bài bản hoặc đúng chuyên ngành hướng dẫn. Ngay ở Sa Pa điểm du lịch hấp dẫn đối với du khách, HDV du lịch ở đây chủ yếu là các em đồng bào dân tộc chưa qua đào tạo nghiệp vụ HDV nhưng du khách Tây Âu lại rất thích bởi họ là những người dân bản địa nên rất am hiểu văn hoá truyền thống của địa phương…

Đến nay ngành Văn hoá, Thể thao và Du lịch đã cấp 54 thẻ HDV du lịch toàn quốc (trong đó: tiếng Trung Quốc là 32; tiếng Anh là 18 và ngoại ngữ khác là 4); cấp và đổi lại 192 thẻ HDV du lịch địa phương. Trong thời gian tới sẽ ban hành Giấy chứng nhận thuyết minh viên theo Luật Du lịch để phục vụ cho công tác hướng dẫn, giới thiệu tiềm năng du lịch của tỉnh cho du khách tại các khu, tuyến, điểm du lịch. Bên cạnh đó, ngành cũng đã thực hiện sự chỉ đạo trong công tác đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực du lịch theo định hướng của tỉnh giai đoạn 2006 – 2010. Từ năm 2006 đến nay ngành du lịch đào tạo và cấp chứng chỉ nghiệp vụ HDV cho 177 học viên (từ các doanh nghiệp lữ hành) bằng nguồn vốn xã hội hoá hoàn toàn, không sử dụng nguồn ngân sách. Trong 3 năm trở lại đây, kinh phí dành cho công tác đào tạo nguồn nhân lực du lịch đạt 6,742 tỷ đồng, vượt 69% mục tiêu đề ra. Cũng từ năm 2006 đến nay ngành du lịch tổ chức và đào tạo cho 305 lao động nông thôn các nghiệp vụ về du lịch và du lịch cộng đồng tại các xã Tả Van, Tả Phìn, Bản Hồ huyện Sa Pa (theo nguồn vốn từ chương trình đào tạo nghề của tỉnh).

Bằng những hoạch định chiến lược trong quy hoạch phát triển kinh tế du lịch bền vững của tỉnh. Nhằm chuyên môn hoá công tác đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng ngày càng cao của du lịch. Tỉnh đã thành lập Trường Trung cấp Văn hoá, Nghệ thuật – Du lịch và hình thành Khoa Du lịch – Khách sạn thuộc Trường Trung cấp Kinh tế – Kỹ thuật để từng bước nâng cao chất lượng phục vụ khách du lịch. Theo đó ngành du lịch đẩy mạnh triển khai các khoá đào tạo HDV du lịch giúp người dân địa phương từng bước nâng cao năng lực trong hoạt động du lịch. Tổ chức các lớp bồi dưỡng, đào tạo nghiệp vụ du lịch cho các đơn vị du lịch và các xã như: mở lớp tiếng Anh giao tiếp du lịch; lớp nghiệp vụ bàn, bar; lớp nghiệp vụ buồng; lớp nghiệp vụ lữ hành; lớp nghiệp vụ hướng dẫn du lịch; lớp tập huấn du lịch cộng đồng… (tại xã Tả Van và Tả Phìn) với hơn 200 lao động.

Để du lịch Sa Pa hướng tới mục tiêu trở thành một trung tâm du lịch lớn của miền Bắc và của cả nước, ngành du lịch Sa Pa còn rất nhiều việc phải làm, trong đó đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng cho phát triển du lịch đang là yếu tố quan trọng và cần thiết nhằm phát huy hiệu quả ngày càng cao và đa dạng của du khách, tạo đà thúc đẩy du lịch Sa Pa trở thành ngành kinh tế quan trọng, hướng tới và đảm bảo một ngành du lịch phát triển bền vững, góp phần xây dựng một Sapa ngày càng giàu mạnh. Khóa luận: Thực trạng về kinh tế và phong tục người H’mong

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY

===>>> Khóa luận: Phong tục tập quán về người dân H’mong

One thought on “Khóa luận: Thực trạng về kinh tế và phong tục người H’mong

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Contact Me on Zalo
0906865464