Khóa luận: Khái quát vai trò về du lịch ở Spa

Chia sẻ cho các bạn sinh viên ngành luật bài Khóa luận: Khái quát vai trò về du lịch ở Spa cho các bạn đang chuẩn bị làm bài khóa luận cùng nhau tham khảo nhé. khóa luận môn học là một trong những yêu cầu bắt buộc của các trường đại học, và Cao Học. Đối với sinh viên hay học viên tất cả các khóa học đều bắt buộc phải làm một bài khóa luận, với đề tài bắt buộc hoặc là một đề tài cụ thể nào đó ví dụ như đề tài Khóa luận: khai thác văn hóa tộc người H’mong Ở Sapa để phục vụ hoạt động du lịch các bạn cùng  tham khảo đề tài khóa luận dưới đây nhé.

1.2.  Khái quát chung về du lịch:

1.2.1. Định nghĩa về du lịch: Khóa luận: Khái quát vai trò về du lịch ở Spa

  • Tổ chức du lịch thế giới (WTO) World Tourist Organization năm 1995 đưa ra thuật ngữ: “Du lịch là các hoạt động của con người liên quan đến việc dịch chuyển tạm thời của con người đến một điểm đến nào đó bên ngoài nơi mà họ sống và làm việc thường xuyên cho mục đích giải trí,và các mục đích khác.
  • Luật Du lịch của Việt Nam (2005)định nghĩa:“Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định”.
  • Qua hai khái niệm cơ bản trên có thể hiểu, con người có nhu cầu đi du lịch là để khám phá, tham quan, giải trí, nghỉ dưỡng,…tại các điểm đến du lịch ngoài nơi cư trú của khách du lịch. Và trong luận văn, tác giả sử dụng định nghĩa về “du lịch” theo Luật Du lịch của Việt Nam (2005) để phục vụ cho đề tài nghiên cứu.
  • Du lịch là ngành không khói, ít gây ô nhiễm môi trường, giúp khách du lịch vừa được nghỉ ngơi, giảm strees vừa biết thêm nhiều điều hay mới lạ mà khách chưa biết. Du lịch còn góp phần phát triển kinh tế của đất nước, tạo việc làm và tăng thu nhập cho người lao động (hướng dẫn viên, các dịch vụ liên quan…).
  • Hiện nay ngành du lịch đang phát triển mạnh ở các nước thuộc thế giới thứ ba. Nhu cầu về du lịch càng tăng thì vấn đề bảo vệ môi trường cần phải được coi trọng. Có một dạng du lịch nữa, đó là du lịch xúc tiến thương mại, vừa đi du lịch vừa kết hợp làm ăn, cũng rất phổ biến tại Việt Nam.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Viết Thuê Khóa Luận Ngành Du Lịch

1.2.3. Ý nghĩa mà du lịch mang lại:

Du lịch khám phá “thế giới bên ngoài”: Nếu cả một ngày 24 tiếng đồng hồ, 1 tháng 30 ngày, 1 năm 365 bạn cứ “ru rú” trong nhà, di chuyển đúng 1 hành trình từ nhà đến cơ quan, từ cơ quan về nhà, từ nhà đến trường học, từ trường học về nhà… thì chắc chắn thỉnh thoảng bạn sẽ thấy cuộc sống tẻ nhạt và buồn chán. Và bạn chẳng thể nào hình dung ra, “ngoài kia”, thế giới bên ngoài có gì hay, vui, lạ, đẹp. Nếu bạn đang trong tình trạng như vậy thì hãy tạm ngưng, tạm gác mọi công việc sang một bên và đi du lịch 1 chuyến, để khám phá thế giới bên ngoài “chuyển động đến đâu rồi”.

Du lịch sẽ làm cho “thế giới nhỏ lại. Mỗi nơi bạn đặt chân đến sẽ chấm 1 điểm mốc trên bản đồ thế giới và bạn sẽ không còn thấy thế giới này quá rộng hay quá bao la. Văn hóa nơi bạn sống và văn hóa nơi bạn đến du lịch khác xa nhau thế nào, nhưng chỉ một-bước-chân, một hành trình bạn cũng có thể khám phá được. Bạn sẽ biết được sơ lược về cảnh quang, con người, cách sống, phong tục, cuộc sống của những nơi mà mình đặt chân đến. Chắc chắn bạn sẽ được mở rộng tầm mắt và hiểu hơn về thế giới mình đang sống. Và lúc đó, sau mỗi hành trình bạn sẽ cảm thấy dường như thế giới đang nhỏ lại từng ngày, sau mỗi chuyến đi du lịch của bạn.

Du lịch văn hóa là tập hợp các du lịch liên quan đến sự tham gia của người du lịch với nền văn hoá của một quốc gia hoặc vùng, đặc biệt là lối sống của người dân ở những khu vực địa lý, lịch sử của những người đó, nghệ thuật, kiến trúc, , và các yếu tố khác đã giúp hình thành cách sống của họ. Khóa luận: Khái quát vai trò về du lịch ở Spa

Du lịch văn hoá bao gồm du lịch ở khu vực thành thị, đặc biệt là các thành phố lịch sử hoặc lớn và các cơ sở văn hoá của họ như bảo tàng và nhà hát. Nó cũng có thể bao gồm du lịch ở nông thôn thể hiện truyền thống của các cộng đồng văn hoá bản xứ (lễ hội, lễ nghi), các giá trị và lối sống của họ, cũng như những hẻm núi như du lịch công nghiệp và du lịch sáng tạo.

Nói chung người ta thường đồng ý rằng khách du lịch văn hoá chi tiêu đáng kể so với khách du lịch tiêu chuẩn. Hình thức du lịch này cũng ngày càng trở nên phổ biến trên khắp thế giới, và một báo cáo gần đây của OECD đã nhấn mạnh vai trò của du lịch văn hoá trong phát triển khu vực ở các khu vực khác nhau trên thế giới.

Du lịch văn hoá được định nghĩa là “sự di chuyển của con người đến các điểm du lịch văn hoá xa nơi thường trú của họ, với mục đích thu thập thông tin và kinh nghiệm mới để đáp ứng nhu cầu văn hoá của họ”. ở châu Âu. CABI, Wallingford. Những nhu cầu văn hoá này có thể bao gồm việc củng cố bản sắc văn hoá của một người bằng cách quan sát “những người khác” kỳ lạ. Du lịch văn hoá có một lịch sử lâu dài, và với nguồn gốc của nó trong Grand Tour được cho là hình thức ban đầu của du lịch. Đây cũng là một trong những hình thức du lịch mà hầu hết các nhà hoạch định chính sách dường như đặt cược vào tương lai. Ví dụ, Tổ chức Du lịch Thế giới khẳng định du lịch văn hoá chiếm 37% du lịch toàn cầu, và dự báo rằng nó sẽ tăng trưởng ở mức 15% mỗi năm. Những con số như vậy thường được trích dẫn trong các nghiên cứu về thị trường du lịch văn hoá (ví dụ Bywater, 1993), nhưng ít khi được ủng hộ với nghiên cứu thực nghiệm.

Một nghiên cứu gần đây về thói quen tiêu dùng văn hoá của người châu Âu (Ủy ban châu Âu năm 2002) chỉ ra rằng người ta đã đến thăm các viện bảo tàng và phòng triển lãm ở nước ngoài gần như thường xuyên ở nhà. Điều này nhấn mạnh tầm quan trọng ngày càng tăng của du lịch văn hoá như một nguồn tiêu thụ văn hoá. Việc khái quát hoá tiêu dùng văn hoá vào kỳ nghỉ, tuy nhiên, chỉ ra một trong những vấn đề chính của việc xác định du lịch văn hoá. Sự khác biệt giữa các chuyến thăm văn hoá vào kỳ nghỉ (du lịch văn hoá) và các cuộc viếng thăm văn hoá được thực hiện trong thời gian rảnh rỗi ở nhà là gì? Phần lớn các nghiên cứu do Hiệp hội Giải trí Du lịch và Du lịch (ATLAS) thực hiện trên thị trường du lịch văn hoá quốc tế (Richards 1996, 2001) đã làm nổi bật mức độ liên tục cao giữa tiêu dùng văn hoá trong nước và trong kỳ nghỉ.

Mặc dù những vấn đề này, các nhà hoạch định chính sách, ban quản lý du lịch và các nhà quản lý văn hoá trên thế giới vẫn tiếp tục coi du lịch văn hoá là một nguồn tiềm năng tăng trưởng du lịch quan trọng. Có một nhận thức chung là du lịch văn hoá là một ngành du lịch “tốt” thu hút du khách chi tiêu cao và ít gây thiệt hại cho môi trường hoặc văn hoá địa phương trong khi đóng góp rất nhiều vào nền kinh tế và hỗ trợ văn hoá. Tuy nhiên, các nhà bình luận khác cho rằng du lịch văn hoá có thể gây hại nhiều hơn lợi ích, cho phép du khách văn hoá thâm nhập vào môi trường văn hoá nhạy cảm như là nhân viên bảo vệ trước của du khách.

Du lịch văn hóa là xu hướng của nhiều nước. Loại hình du lịch này rất phù hợp với bối cảnh của Việt Nam, rất tốt cho hoạt động xóa đói giảm nghèo quốc gia, vì vậy phải được xem là hướng phát triển của ngành du lịch Việt Nam. Khi xác định hướng đi “văn hóa gắn với du lịch”, người làm du lịch phải có một trình độ nhất định, được đào tạo bài bản về văn hóa nghệ thuật, để có thể tạo được những hiệu ứng từ các hoạt động biểu diễn, lưu lại được những giá trị và ấn tượng văn hóa trong lòng du khách, chứ không chỉ khai thác ánh sáng, âm thanh, mầu sắc đơn thuần…

1.3. Vai trò văn hóa tộc người và vấn đề phát triển du lịch: Khóa luận: Khái quát vai trò về du lịch ở Spa

Vai trò văn hóa tộc người:

  • Văn hóa tộc người biểu hiện sự phong phú, đa dạng và đặc sắc của văn hóa Việt Nam. Ðây là công lao, kết quả sáng tạo của hơn 50 dân tộc anh em, là sản phẩm tinh thần ra đời từ tình cảm tâm hồn của nhiều cộng đồng cư trú trong những hoàn cảnh thiên nhiên địa lý khác nhau. Về hoàn cảnh xã hội, Văn hóa tộc người đại diện cho các thời kỳ văn hóa: tiền giai cấp, phong kiến sơ kỳ và phong kiến phát triển.
  • Về hệ ngôn ngữ, Văn hóa tộc người đại diện cho các ngữ hệ: Austronesie, Austroasiatique, Tày – Thái,
  • Tạng – Miến, H’mông – Dao,…
  • Về khu vực văn hóa, Văn hóa tộc người bao gồm cả văn hóa Ðông – Nam Á và văn hóa Bắc Á, lại chịu ảnh hưởng của văn hóa Nam Á.
  • Do những ưu thế vừa nói trên, Văn hóa tộc người có tác dụng lớn trong việc bồi dưỡng giáo dục con người Việt Nam XHCN.
  • Các hệ ngôn ngữ của tộc người nước ta, là hệ ngôn ngữ phổ biến ở các nước Ðông – Nam Á, gắn bó với các nền văn hóa của các quốc gia có ngôn ngữ tương ứng trong khu vực, vì vậy, Văn hóa tộc người có vai trò quan trọng trong việc giao lưu văn hóa, tăng cường tình hữu nghị và sự hiểu biết lẫn nhau, đặc biệt đối với các nước ASEAN.

Vấn đề phát triển du lịch: Khóa luận: Khái quát vai trò về du lịch ở Spa

  • Trong du lịch luôn đề cao vai trò của người dân bản địa. Người dân phải thực sự là chủ nhân có quyền tham gia các hoạt động du lịch và phải được hưởng lợi từ các hoạt động du lịch. Các doanh nghiệp nhà nước chia sẻ quyền lợi cho cộng đồng các tộc người thiểu số thông qua hệ thống các dịch vụ thuộc cộng đồng như nhà nghỉ của người dân (homestay), bán sản phẩm đồ thủ công, cung cấp dịch vụ ăn uống, đi lại…
  • Du lịch là sự kết hợp của 4 nhóm nhân tố: Du khách, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ, cư dân bản địa, chính quyền cơ sở. Du khách muốn thỏa mãn các nhu cầu du lịch thì phải có các doanh nghiệp cung cấp, có người dân bản địa tham gia, và được chính quyền địa phương tạo điều kiện thuận lợi trong quản lý, định hướng. Người dân muốn thu được nhiều lợi nhuận qua hệ thống dịch vụ đều thành lập ban đại diện của những gia đình tham gia dịch vụ du lịch. Ban đại diện là đầu mối nhằm quản lý các dịch vụ lưu trú, ăn nghỉ, sinh hoạt… Đặc biệt, ban đại diện có quyền thống nhất về giá cả nhằm tránh tình trạng doanh nghiệp bắt chẹt từng hộ gia đình, ép các hộ gia đình giảm giá để thu lợi ích riêng của doanh nghiệp.
  • Vấn đề thiết yếu trong du lịch là loại hình du lịch dựa vào tài nguyên của cộng đồng, do cộng đồng chủ động tham gia xây dựng sản phẩm quản lý và vì lợi ích của cộng đồng. Du lịch được xây dựng và phát triển ở vùng người Thái ở bản Lác, huyện Mai Châu (Hòa Bình) vào giữa thập kỷ 90 của thế kỷ 20. Đến năm 2.000, người Tày ở bản Dền, xã Bản Hồ, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai cũng triển khai xây dựng mô hình du lịch cộng đồng.Sau 20 năm phát triển, đến nay, du lịch cộng đồng được xây dựng thành công ở vùng người Thái, người Tày, người Dao, H’mông tại các tỉnh Hòa Bình, Sơn La, Điện Biên, Lào Cai, Hà Giang, Yên Bái, Thái Nguyên…
  • Các điểm du lịch cộng đồng, như: bản Cát Cát( Sapa, Lào Cai), bản Lác, bản Văn (huyện Mai Châu, Hòa Bình), bản Áng (huyện Mộc Châu, Sơn La), bản Mển, Phiêng Lơi (Điện Biên), Quản Bạ (Hà Giang)…
  • Du lịch đã góp phần xóa đói, giảm nghèo, tạo nguồn sinh kế mới cho người dân vùng cao. Được biết, các điểm du lịch ở Sa Pa (Lào Cai) có tốc độ xóa đói, giảm nghèo nhanh gấp 3 lần so với các thôn, bản không có du lịch. Năm 2015, số hộ nghèo ở huyện Mai Châu (Hòa Bình) chiếm 20%, trong khi ở các điểm du lịch cộng đồng, số hộ nghèo chỉ chiếm từ 4-5%. Nguồn thu của các hộ làm dịch vụ du lịch cao gấp từ 5-10 lần so với các hộ không làm du lịch.
  • Du lịch của các tộc người đang trong xu thế chung phải hướng về phát triển du lịch bền vững. Vì vậy, các điểm du lịch không nên chỉ hướng tới việc thu hút quá nhiều khách, dẫn đến tình trạng quá tải. Các ban quản lý du lịch phối hợp với các hãng lữ hành nên tổ chức cho du khách đến tham quan, bình quân mỗi năm mỗi điểm đón từ 1-3 vạn khách. Các điểm du lịch không đón nhiều du khách nhằm đảm bảo môi trường, bảo tồn bản sắc văn hoá dân tộc.

2. Các bài học kinh nghiệm trong khai thác văn hóa tộc người trên thế giới và Việt Nam Khóa luận: Khái quát vai trò về du lịch ở Spa

Trên thế giới:

Du lịch văn hóa là một khái niệm còn khá mới mẻ đối với Việt Nam song đã có một lịch sử lâu dài trên thế giới. Có rất nhiều quốc gia thế giới khai thác hiệu quả loại hình này trong đó có các quốc gia Đông Nam Á.

Quan trọng hàng đầu khi khai thác văn hóa tộc người là phải tôn trọng, bảo tồn các giá trị văn hóa; tạo được bản sắc riêng của đất nước, địa phương mình:

  • Campuchia: là một ví dụ điển hình về thành công trong bảo tồn nguyên vẹn giá trị để phát triển du lịch. Xác định thế mạnh quốc gia là văn hóa- lịch sử với các đặc trưng như: văn hóa Angkor, ẩm thực Khmer, các đền chùa…quốc gia này đã tiến hành bảo tồn các điểm di tích gần như nguyên gốc, gìn giữ được những nét văn hóa đặc trưng, nguyên thủy. Để đảm bảo được điều đó, ngoài việc áp dụng đúng các nguyên tắc, kỹ thuật trong bảo tồn, Campuchia còn có chính sách khá toàn diện, đồng bộ trong việc ưu tiên bảo tồn các giá trị văn hóa, lịch sử. Cụ thể khi lượng khách đến Angkor quá đông, quốc gia này đã có biện pháp hạn chế lượng khách du lịch, thời gian tham quan để không làm hư hỏng các di tích. Bên cạnh đó kiến trúc xung quanh các khu vực du lịch văn hóa cũng được quy hoạch, đảm bảo về chiều cao tối đa hay nâng cấp các tuyến đường song vẫn giữ những cây cầu cổ. Khóa luận: Khái quát vai trò về du lịch ở Spa
  • Tại Thái Lan, một đất nước vốn nổi tiếng luôn làm hài lòng khách đến và khiến du khách thấy được như đang ở quê hương mình, việc bảo tồn nguyên vẹn các giá trị văn hóa cũng hết sức được coi trọng. Ví dụ: tại Chiang Mai, kinh đô của Vương quốc Lanna trước đây, nơi được biết đến là “Đóa hồng phương Bắc” của Thái, các bản sắc văn hóa cách đây hàng trăm năm còn được lưu giữ khá nguyên vẹn. Đó là việc giữ gìn tiếng địa phương (tiếng Kham Muang được sử dụng song song với tiếng Thái), trang phục truyền thống, làm các mặt hàng thủ công. Hàng trăm ngôi đền,chùa cũng được gìn giữ kiến trúc, cảnh quan, tạo nên nét đặc trưng riêng, không thể trộn lẫn. Đặc biệt, trong năm 2015, Thái Lan đẩy mạnh du lịch văn hóa với trọng tâm là khám phá bản sắc, các giá trị cốt lõi của người Thái. Ở đây du khách được trải nghiệm, tham gia các lớp học nấu ăn, massage theo đúng truyền thống Thái mà du khách sẽ không thể tìm thấy được ở bất cứ một nơi nào khác.
  • Ở Bali: trở thành điểm đến nổi bật nhất của Indonesia, tiêu biểu cho thành công của du lịch văn hóa là bởi đất nước này luôn tôn trọng lối sống, tập quán, văn hóa của người bản địa và gìn giữ nó, tạo nên một bản sắc riêng.

Thứ hai đó là hoạt động quảng bá du lịch:

  • Trong hoạt động này, sự sáng tạo, táo bạo, chuyên nghiệp là chìa khóa của thành công.Chúng ta vẫn thường viện dẫn ngân sách eo hẹp khiến hoạt động quảng bá tại nước mình nói chung, địa phương mình nói riêng không hiệu quả. Qủa thực so với con số hàng trăm triệu USD chi cho quảng bá, xúc tiến du lịch hàng năm của Singapore, Thái Lan, Maylaysia,…thì chi phí của chúng ta cho công tác này còn quá thấp. Tuy nhiên bài học từ Phillipines cho thấy, nhiều khi không cần chi phí cao cũng có thể thu lại hiệu quả. Đất nước này trước đây vốn biết đến với lượng khách quốc tế còn thấp, chi phí cho quảng bá du lịch không quá 10 triệu USD. Với khoản kinh phí khiêm tốn, đất nước này đã nghĩ ra một chiến lược quảng bá hiệu quả, ít tốn kém nhờ dựa vào mạng xã hội trong chiến dịch “It’s more fun in Philippines”. Philippines là nước có số lượng tài khoản mạng xã hội lớn (hàng chục triệu tài khoản Facebook, Twitter, Instargam), khả năng sử dụng tiếng Anh tốt và có một lượng lớn người sinh sống ở nước ngoài. Nắm bắt điều này, chiến dịch đã lôi kéo được đông đảo người tham gia đồng thời gợi lên sự tự hào văn hóa trong mỗi người dân để mỗi cá nhân là một đại sứ du lịch. Bằng việc đưa ra slogan và một vài mẫu hình ảnh đăng lên mạng, cho phép người dùng tải về và tự thiết kế theo cách của riêng mình, sau 24h, thông điệp này đã có 10.000 lượt chia sẻ và lượng khách du lịch sau đó tăng lên khoảng 16%.
  • Sử dụng truyền thông kỹ thuật số được ghi nhận là xu hướng hiện nay các quốc gia đang hướng tới trong công tác quảng bá. Ngoài chiến dịch của Philippines đề cập ở trên, Thái Lan cũng là đất nước khai thác mạnh các công cụ truyền thông đại chúng. Năm 2015, Thái Lan triển khai chiến dịch quốc gia Discover Thainess, hướng đến để du khách trải nghiệm cuộc sống người dân bản địa, từ đó cảm nhận sự tử tế của người dân, phong tục, văn hóa Thái Lan. Trong chiến dịch này, Thái Lan tổ chức cuộc thi “One and Only” (Một và duy nhất) kêu gọi thể hiện những đặc trưng riêng có, độc đáo của người Thái và văn hóa Thái. Chương trình tiến hành đăng tải các clip biểu diễn 5 nội dung: Muay Thái, nói tiếng Thái, làm vòng hoa kiểu Thái, múa truyền thống Thái, ẩm thực Thái để người tham gia chọn 1 trong 5 và làm theo. Những đối tượng thường sử dụng mạng xã hội được khuyến khích tham gia, chia sẻ. Chiến dịch Discover Thainess cũng đã được khởi động truyền thông, quảng bá từ năm 2014. Với một ý tưởng đầy táo bạo, Tổng cục Du lịch Thái Lan đã cho đăng tải clip “I hate Thailand”(Tôi ghét Thái Lan) dưới dạng ẩn danh. Sau khi đăng trên Youtube vài ngày lượt xem lên tới hàng triệu. và nhiều kiến phản hồi thể hiện sự thích thú với cách làm này.
  • Một bài học khác không kém quan trọng là cần xác định thị trường, đối tượng du khách để có đầu tư quảng bá phù hợp. Sau thống kê lượng khách hàng năm, cần thống kê lượng khách chủ yếu đến từ đâu để tiến hành đẩy mạnh đầu tư vào khu vực đó, hay mở các văn phòng đại diện du lịch tại các quốc gia tiềm năng như cách của Thái Lan vẫn làm. Năm 2015, Indonesia cũng chi một nửa ngân sách quảng bá (trong tổng ngân sách 95 triệu USD, với chiến dịch Tuyệt vời Indonesia tập trung quảng bá văn hóa, con người, ẩm thực… đất nước) vào thị trường các nước Đông Nam Á do nhận thấy 40% lượng khách quốc tế của nước này đến từ đây. Trong khi đó năm 2015, Thái Lan đẩy mạnh quảng bá ở Trung Đông với việc tổ chức sự kiện quảng bá chiến dịch Discover Thainess tại Dubai. Quyết định này được đưa ra sau khi nhận thấy sự tăng trưởng mạnh của lượng khách đến từ Trung Đông và đồng thời đây là đối tượng chi tiêu mạnh nhất khi tới Thái Lan. Cùng với quảng bá, nước này còn nghiên cứu kỹ lưỡng văn hóa, phong tục Hồi giáo để từ đó bổ sung nơi cầu nguyện, thức ăn phù hợp với đạo Hồi, tăng cường đội ngũ trong nghề có thể sử dụng tiếng Ả rập…
  • Những yêu cầu về tính sáng tạo, chuyên nghiệp này đưa chúng ta quay lại vấn đề nguồn nhân lực cho du lịch văn hóa. Chỉ khi chúng ta đào tạo, tuyển chọn được đội ngũ làm nghề có kiến thức, kỹ năng, sự sáng tạo mới có hy vọng phát triển du lịch văn hóa hiệu quả. Các quốc gia có du lịch phát triển trong khu vực đều cho thấy khi đưa ra chương trình, chiến dịch dịch du lịch văn hóa nào họ cũng luôn khảo sát thực tế kỹ lưỡng; phân tích thế mạnh, điểm yếu; bàn bạc tìm phương án; tổ chức hội thảo trao đổi về các phương án; tiến hành thử nghiệm và áp dụng nếu hiệu quả.
  • Văn hóa, nếu muốn khai thác đưa vào phát triển du lịch luôn đòi hỏi sự hiểu biết, tinh tế nếu không sẽ có tác dụng ngược lại bởi đó là những gì tinh túy, thiêng liêng; là hồn cốt của con người, của dân tộc.

Ở Việt Nam:

Khai thác văn hóa là một lĩnh vực rộng và phức tạp, vì vậy, kinh nghiệm khai thác văn hóa ở các nước trên thế giới rất cần thiết và bổ ích. Vấn đề đặt ra là từ những kinh nghiệm đó chúng ta cần nghiên cứu, lựa chọn những gì phù hợp với thực tiễn đất nước nhằm tiếp tục hoàn thiện chính sách văn hóa trên cơ sở quan điểm, đường lối của Đảng và yêu cầu phát triển của nước nhà trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Trên quan điểm đó, chúng tôi lựa chọn kinh nghiệm của một số nước tiêu biểu trên thế giới để rút ra những bài học cụ thể cho việc khai thác văn hóa tộc người ở Việt Nam. Khóa luận: Khái quát vai trò về du lịch ở Spa

Khai thác văn hóa tộc người Dao ở Sapa phục vụ du lịch

Ở vùng núi cao, người Dao Sa Pa tỉnh Lào Cai Việt Nam biết phát huy lợi thế di sản văn hoá phong phú, giàu bản sắc trở thành sản phẩm du lịch hấp dẫn. Tìm hiểu quá trình “xây dựng di sản văn hoá trở thành sản phẩm du lịch” của người Dao Sa Pa nhằm mục đích tìm hiểu kinh nghiệm phát huy lợi thế bản sắc văn hoá dân tộc nhằm phát triển sản phẩm du lịch. Đồng thời cũng nghiên cứu mối quan hệ giữa vấn đề khai thác tài nguyên du lịch với bảo vệ văn hoá truyền thống, xây dựng phương thức phát triển du lịch bền vững

Người Dao khơi dậy nghề thủ công truyền thống:

Người Dao ở Sa Pa có nhiều nghề thủ công truyền thống có giá trị văn hoá cao như nghề chạm khắc bạc, nghề thêu dệt thổ cẩm làm trang phục, nghề rèn đúc, nghề làm đồ mộc…Tuy nhiên, các nghề này chỉ là nghề phụ mang tính chất hỗ trợ cho trồng trọt là chính. Sản phẩm của các nghề thủ công này chưa trở thành sản xuất hàng hoá mà chỉ mang nặng tính tự cung tự cấp, đáp ứng riêng cho nhu cầu của từng gia đình. Nhưng từ khi du lịch phát triển, người Dao ở Sa Pa đã lựa chọn một số nghề để đầu tư tổ chức sản xuất tạo ra sản phẩm cho du lịch. Điền hình là nghề thêu dệt thổ cẩm. Hội phụ nữ các xã Tả Phìn, Suối Thầu, Nậm Cang đã tổ chức các câu lạc bộ sản xuất thổ cẩm. Câu lạc bộ của hội phụ nữ xã Tả Phìn có đến 300 hội viên tham gia. Câu lạc bộ sản xuất thổ cẩm của phụ nữ xã Nậm Cang có gần 100 hội viên tham gia…Các câu lạc bộ này được các tổ chức phi chính phủ tư vấn về mẫu mã sản phẩm, tiêu thụ sản phẩm bước đầu. Chính quyền địa phương cũng tạo điều kiện thuận lợi cho vay vốn, tổ chức lớp dạy nghề miễn phí cho ngườ i dân. Nhờ vậy mỗi người tham gia sản xuất các sản phẩm phục vụ du lịch đều có thu nhập cao. Bình quân mỗi người thu nhập từ 300.000 – 500.000đ/tháng. Có một số hội viên như các chị Lý Mẩy Chạn, Lý Tả Dùng, Lý Mẩy Pham, Chảo Mẩy Cói…của xã Tả Phìn thu nhập mỗi năm từ 4 – 7 triệu đồng nhờ bán các sản phẩm cho du khách. Một số hội viên vừa sản xuất vừa trực tiếp bán sản phẩm mỗi tháng cũng thu nhập từ 1 – 2 triệu đồng. Đây là mức thu nhập rất cao của một lao động người Dao ở Sa Pa.

Nguyên tắc sản xuất nghề thủ công cũng như thêu dệt sản phẩm du lịch phải đảm bảo các yếu tố như kế thừa di sản văn hoá truyền thống. Trong nghề thêu dệt thổ cẩm phụ nữ người Dao đều giữ gìn một số hoa văn cổ độc đáo có dấu ấn riêng của văn hoá tộc người. Các hoạ tiết hoa văn phổ biến là thêu hình cây thông, thêu hình thầy cúng, hình cây đèn trong lễ cấp sắc hoặc dấu ấn về Bàn vương, hình tượng dấu chân của con chó…Người Dao cũng giữ gìn bảng màu truyền thống gồm có 4 màu chủ đạo là vàng, đen, đỏ, trắng. Trong đó, đề cao cách phối màu đối chọi của hoa văn truyền thống như màu đỏ đi liền với màu trắng, màu vàng thêu liền kề với màu trắng, màu trắng trên nền vải chàm đen…Phương pháp sử dụng màu đối chọi như vậy càng làm nổi bật hoạ tiết hoa văn tạo ra chất rực rỡ và hấp dẫn của hoa văn người Dao. Tuy nhiên, sản phẩm nghề thêu dệt thổ cẩm thì lại sản xuất đa dạng, phù hợp với nhu cầu của du khách như các sản phẩm làm đệm, gối, túi đeo điện thoại di động, ví, mũ, túi xách tay, ba lô du lịch…

Trong nghề chạm khắc bạc cũng vậy, người Dao sản xuất đa dạng hoá các sản phẩm như nhẫn, vòng tay, sợi dây chuyền bạc, các hình kỷ niệm bằng bạc…Nhưng mô típ hoa văn chạm khắc trên bạc vẫn là các mô típ hoa văn cổ truyền. Đồng thời một số cơ sở chạm khắc bạc chỉ sản xuất sản phẩm bằng bạc nguyên chất nhằm giữ uy tín của bạc trắng chứ không sản xuất các loại sản phẩm bằng nhôm, hợp kim.

Người Dao ở Tả Phìn, Nậm Cang Sa Pa trước đây có nghề làm trống, nghề đóng đồ mộc ghép các thùng gỗ đựng nước…Nhưng sản phẩm của đồ mộc chủ yếu phục vụ nhu cầu sinh hoạt của người dân. Ngày nay, qua tìm hiểu nhu cầu của du khách thấy nghề làm mộc có thể sản xuất ra nhiều đồ lưu niệm giá trị nên ông Lý Phủ Kinh ở Tả Phìn đã tập hợp một số nghệ nhân thành lập câu lạc bộ sản xuất các loại trống và đồ lưu niệm. Hiện nay, câu lạc bộ sản xuất của ông đã làm ra rất nhiều loại trống khác nhau theo nhu cầu của du khách như các loại trống nhỏ làm đồ lưu niệm, các loại trống trung bình đến các loại trống lớn làm vật trang trí trong các nhà hàng, khách sạn…Sản phẩm của câu lạc bộ đã có thương hiệu, uy tín trên thị trường, được bày bán ở nhiều cửa hàng ở thành phố Lào Cai và huyện Sa Pa và các cửa hàng bán đồ lưu niệm tại Hà Nội, thành phố Hạ Long. Trung bình mỗi một tháng câu lạc bộ sản xuất trống của ông Lý Phủ Kinh sản xuất được từ 20 – 40 chiếc trống trung bình và trống đại và nhiều trống nhỏ làm đồ lưu niệm. Mỗi tháng các nghệ nhân của câu lạc bộ đều có thu nhập từ 1,5 – 2 triệu đồng một người. Khóa luận: Khái quát vai trò về du lịch ở Spa

 Nhìn chung, các nghề thủ công phục vụ khách du lịch của người Dao Sa Pa đã được khôi phục và phát triển. Nhờ có du lịch nên nghề thủ công truyền thống của người Dao đã trở thành hàng hoá, sản phẩm du lịch chứ không chỉ là những sản phẩm tự cung tự cấp cho gia đình. Tuy nhiên, các sản phẩm nghề thủ công phục vụ du lịch của người Dao dù có đa dạng, phong phú nhưng vẫn đảm bảo các nguyên tắc cụ thể:

 Các sản phẩm thủ công đều kế thừa kỹ thuật, hoạ tiết, thẩm mĩ truyền thống. Đặc biệt, nhiều sản phẩm của nghề thêu dệt thổ cẩm, chạm khắc bạc đều nhằm chuyển tải bản sắc văn hoá người Dao thông qua các hoạ tiết, các biểu tượng giàu tính thẩm mĩ.

 Các sản phẩm thủ công này đều đảm bảo nguyên tắc sản phẩm bằng thủ công, không sử dụng máy móc, không sử dụng đồ sản xuất công nghiệp làm nguyên vật liệu. Các sản phẩm thêu dệt thổ cẩm đều thêu bằng tay và dùng vải thô với các khung dệt cổ truyền chứ không dùng sản phẩm dệt của máy móc hiện đại.

Các sản phẩm thủ công đều đa dạng hoá về mẫu mã, chủng loại đáp ứng với nhu cầu hiện tại của du khách.

Các sản phẩm thủ công đều gọn nhẹ, dễ chuyên chở và giá thành không quá đắt mục đích nhằm bán được nhiều sản phẩm.

Khơi dậy dịch vụ tắm lá thuốc:

Trước đây người Dao là dân tộc rất giỏi về y học cổ truyền, sử dụng dược liệu chữa bệnh nổi tiếng trong cộng đồng các dân tộc ở Sa Pa. Phụ nữ người Dao đều có kho tàng tri thức về dược học, nhiều người trở thành những người thầy thuốc nổi tiếng. Trong cuộc sống thường ngày của xã hội người Dao cổ truyền, người Dao đã sử dụng tắm lá thuốc để đảm bảo sức khoẻ của các thành viên gia đình. Nhưng hiện nay, nhằm đáp ứng nhu cầu du khách, người Dao đã phát huy việc lấy lá chế biến thuốc tắm trở thành hàng hoá phục vụ du lịch. Riêng ở thôn Sả Xéng xã Tả Phìn huyện Sa Pa có 11 hộ kinh doanh nghề tắm lá thuốc. Các thôn Nậm Tống, Nậm Cang, Giàng Tà Chải…đều có các hộ kinh doanh dịch vụ tắm lá thuốc. Bình quân mỗi gia đình mỗi tháng cũng thu nhập được từ 500.000 – 2 triệu đồng từ dịch vụ lấy và chế biến thuốc lá cho du khách tắm.

Khai thác nhà ở thành nhà nghỉ cộng đồng:

Nhà người Dao truyền thống thường chật hẹp và ít có công trình vệ sinh. Nhưng hiện nay, trước nhu cầu du khách thích nghỉ tại bản làng nên nhiều hộ gia đình người Dao đã tu sửa ngôi nhà trở thành nhà nghỉ cộng đồng phục vụ du khách (homestay). Năm 2005, ở xã Tả Phìn huyện Sa Pa chỉ có 2 gia đình tu sửa ngôi nhà của mình thành nhà nghỉ cộng đồng thì đến nay đã có 11 hộ gia đình làm dịch vụ homestay. Ở Nậm Cang, Bản Hồ, Nậm Sài cũng có nhiều hộ xây dựng ngôi nhà mới hoặc tu sửa nhà cũ trở thành nhà nghỉ cộng đồng. Các ngôi nhà này đều giữ kiến trúc, khuôn viên, mặt bằng, kết cấu bên trong giống như ngôi nhà cổ truyền. Nhưng làm thêm 1, 2 gian ở phía trước cửa nhà làm nhà nghỉ cho du khách vì quan niệm các du khách không làm ảnh hưởng đến bàn thờ tổ tiên và sinh hoạt của các thành viên gia đình truyền thống. Các phòng nghỉ đều bố trí như kiểu nhà nghỉ bình dân, có đồ dùng mới, tủ, bàn ghế, ti vi và có công trình vệ sinh khép kín. Tuy nhiên, vật liệu xây dựng đều là những vật liệu truyền thống gỗ, tre, không sử dụng các vật liệu hiện đại như xi măng, gạch, ngói. Như vậy, người Dao vẫn giữ được kiến trúc và nếp sống truyền thống trong ngôi nhà đồng thời cũng tạo điều kiện thuận lợi cho du khách sử dụng các dịch vụ của kiểu nhà nghỉ (có ti vi, có hệ thống vệ sinh đảm bảo). Nhờ vậy, số du khách nghỉ tại các nhà nghỉ truyền thống của người Dao tăng rất nhanh. Năm 2005 mới có 200 du khách nghỉ tại các nhà nghỉ cộng đồng ở Tả Phìn thì đến năm 2008 đã tăng lên 514 du khách, và năm 2009 là 1.187 du khách đã nghỉ tại 11 nhà nghỉ của người Dao ở thôn Sả Séng. Ở Nậm Cang, Bản Hồ, Giàng Tà Chải có vị trí xa trung tâm huyện lỵ nên số du khách nghỉ tại các nhà nghỉ cộng đồng đều tăng nhanh. Bình quân mỗi nhà nghỉ ở các vùng này mỗi năm cũng đón từ 300 – 500 lượt du khách.

Bên cạnh các dịch vụ phục vụ du lịch trên, người Dao ở Sa Pa còn biết phát huy di sản văn hoá truyền thống tạo thành nhiều sản phẩm và các yếu tố của sản phẩm du lịch. Các thôn bản người Dao được chọn làm điểm du lịch đều xây dựng các đội văn nghệ dân gian, khai thác các di sản dân ca dân vũ truyền thống của người Dao xây dựng thành các tiết mục, chương trình văn nghệ. Đội văn nghệ xã Tả Phìn huyện Sa pa đã khai thác các điệu múa chuông, múa kiếm, múa đèn, các điệu nhảy trong lễ “pút tồng”, các điệu nhảy “bát quái” để xây dựng các chương trình văn nghệ phục vụ du khách. Đội văn nghệ ở thôn Nậm Cang xã Nậm Cang lại trích đoạn một số nghi thức độc đáo trong lễ “chải miến”, lễ cấp sắc hoặc sử dụng các làn điệu kèn pí lè xây dựng các chương trình văn nghệ. Đội nhạc kèn pí lè đóng vai trò rất quan trọng trong lễ cưới của người Dao truyền thống. Từ nghi thức đi đón dâu, chào đoàn nhà gái, mời thống gia, răn dạy cô dâu, lễ báo tổ tiên…cho đến lễ mời ăn tiệc cưới, mời hát trong đám cưới…đều sử dụng nhạc kèn pí lè. Các đội văn nghệ của người Dao đã phát huy các làn điệu kèn truyền thống trở thành các điệu kèn đón chào du khách, mời tiệc du khách, tặng quà du khách…Nhờ khai thác các chất liệu dân gian truyền thống nên các chương trình biểu diễn nghệ thuật phục vụ du khách đều giàu bản sắc và hấp dẫn. Ở các điểm du lịch của người Dao ở Sa pa đã phối hợp với các doanh nghiệp tổ chức quảng bá các ngày lễ, các ngày hội, các ngày sinh hoạt cộng đồng cho du khách. Các sinh hoạt này đã được các hãng lữ hành xây dựng thành các sản phẩm du lịch chào bán cho khách quốc tế. Đặc biệt du khách rất thích xem các cảnh hát giao duyên, các lễ cưới, lễ “pút tồng”…của người Dao Khóa luận: Khái quát vai trò về du lịch ở Spa

Các làng người Dao ở Sa Pa đang xây dựng trở thành những điểm sáng về du lịch cộng đồng. Du lịch cộng đồng đã hình thành và phát triển, mỗi năm đều đón nhiều du khách, góp phần xoá đói giảm nghèo, nâng cao đời sống của người dân. Có được những thành quả như vậy là nhờ người Dao ở Sa Pa đã xây dựng thành công mô hình du lịch cộng đồng có sự liên kết chặt chẽ của “4 nhà”. Nhà nước định hướng và xây dựng chính sách quản lý phát triển du lịch cho toàn vùng. Các gia đình người dân tham gia làm du lịch đều có quyền lợi và nghĩa vụ bảo tồn di sản văn hoá dân tộc. Các nhà doanh nghiệp tăng cường quảng bá đưa du khách đến tham quan. Các nhà tư vấn (nhất là tổ chức phi chính phủ SNV) đã góp phần tư vấn cho người dân các biện pháp phát triển du lịch cộng đồng gắn với bảo tồn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. Đồng thời các điểm du lịch cộng đồng người Dao ở Sa Pa không chỉ coi trọng chất liệu truyền thống để xây dựng các sản phẩm du lịch, mà quan trong hơn là thực hành các di sản văn hoá ngay tại cộng đồng theo hướng phát triển du lịch bền vững. Bản sắc văn hoá dân tộc trở thành nguồn lực cho du lịch cộng đồng người Dao phát triển. Ngược lại, du lịch càng phát triển thì càng khuyến khích người dân bảo tồn được di sản văn hoá truyền thống của dân tộc mình.

Phát triển du lịch từ văn hóa tộc người Chăm ở Ninh Thuận:

Ninh Thuận là tỉnh có đông người Chăm sinh sống nhất so với các tỉnh, thành phố trong cả nước. Vì thế, văn hóa Chăm ở đây khá đậm đặc, thể hiện qua chữ viết, trang phục, nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc, nghề gốm, dệt thổ cẩm. Nghệ thuật dân ca và múa Chăm đã trở thành di sản của văn hóa Việt Nam. Đến nay, người Chăm vẫn giữ các nghi lễ như: lễ Katê, lễ Rija Nưgar, lễ Rija Praung, lễ khai mương, lễ xuống gặt, lễ mừng cơm mới… Không gian văn hóa Chăm có sức lôi cuốn đặc biệt, từ phong tục tập quán theo chế độ mẫu hệ, đến những nghi lễ, tín ngưỡng cùng nhiều nghệ thuật dân gian truyền thống khác.

Về văn hóa phi vật thể, người Chăm ở Ninh Thuận có hơn 100 lễ hội diễn ra quanh năm và vẫn đang được bảo tồn nhờ ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa của chính cư dân bản địa. Bên cạnh đó, theo thống kê có khoảng 17.000 bài viết, đầu sách nghiên cứu về văn hóa Chăm ở các lĩnh vực như nhân học, sử học, diễn xướng dân gian, các lễ hội… đã được sưu tầm, nghiên cứu. Tỉnh cũng đã có chủ trương bảo tồn, phát triển làng nghề truyền thống, kết hợp khai thác tiềm năng du lịch làng nghề, khi phê duyệt đề án Chiến lược marketing gốm mỹ nghệ Bàu Trúc giai đoạn 2010 – 2015 và tầm nhìn đến năm 2020. Hiện làng nghề Bàu Trúc cùng nghệ thuật làm gốm của người Chăm đang được làm hồ sơ trình UNESCO công nhận là Di sản thế giới.

Từ tiềm năng sẵn có, Ninh Thuận đã xây dựng nhiều chương trình du lịch gắn liền với không gian văn hóa Chăm, trong đó có loại hình du lịch homestay. Khách cùng ăn, ở, sinh hoạt với người địa phương, đắm mình trong các chương trình ca múa dân gian, nhạc kịch truyền thống lâu đời của người Chăm, trải nghiệm cách dệt thổ cẩm (Mỹ Nghiệp) và làm gốm (Bàu Trúc) bằng phương pháp thủ công… Loại hình du lịch này được khách du lịch, đặc biệt là khách nước ngoài yêu thích. Ngoài ra, tỉnh còn phối hợp với các tỉnh, thành phố ở miền Trung có di sản văn hóa Chăm như Bình Định, Nha Trang…, xây dựng các chương trình du lịch về thăm làng Chăm, tham gia các lễ hội theo mùa…; kết hợp du lịch văn hóa Chăm với các loại hình du lịch khác nhằm đưa du lịch văn hóa Chăm trở thành một mắt xích quan trọng trong các sản phẩm du lịch ở Ninh Thuận.

Xác định sự đón tiếp niềm nở, thái độ hiếu khách, phục vụ tận tình của người địa phương sẽ tạo ra ấn tượng tốt đẹp trong lòng khách tham quan, Ninh Thuận đang xây dựng chương trình đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý, bảo tồn, hướng dẫn viên có chuyên môn sâu và đam mê văn hóa Chăm, thông thạo ngoại ngữ. Ngoài ra, tỉnh cũng đẩy mạnh nghiên cứu cung và cầu du lịch đối với văn hóa Chăm, nhằm tạo ra các sản phẩm độc đáo, đa dạng và mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1

Ngày nay, du lịch được xem là ngành kinh tế không khói quan trọng của nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Du lịch trở nên phổ biến và là nhu cầu không thể thiếu của con người khi đời sống tinh thần của họ ngày càng phong phú

Văn hóa là cội nguồn, là tương lai của dân tộc, nó xác định chỗ đứng của một quốc gia dân tộc trên thị trường thế giới. Chính vì thế, muốn được thế giới biết đến mình thì một quốc gia cần phải xây dựng cho mình một nền văn hóa tiêu biểu, đậm đà bản sắc dân tộc. Hoạt động du lịch chính là một trong những phương tiện để thực hiện mục đích đó.

Chương 1 là những cơ sở lí luận, những tìm hiểu chung về văn hóa, du lịch và du lịch văn hóa. Trong đó đã tìm hiểu về các khái niệm văn hóa, đặc trưng của văn hóa, khái niệm về du lịch, du lịch văn hóa, mối quan hệ giữa du lịch và văn hóa. Đây là phần tổng quan về lí luận để đi tới tìm hiểu những vấn đề cụ thể của đề tài. Khóa luận: Khái quát vai trò về du lịch ở Spa

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY

===>>> Khóa luận: Thực trạng về kinh tế và phong tục người H’mong

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Contact Me on Zalo
0906865464