Khóa luận: Thực trạng pháp luật và đạo đức lĩnh vực giáo dục

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Khóa luận: Thực trạng pháp luật và đạo đức lĩnh vực giáo dục hay nhất năm 2025 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thạc sĩ thì với đề tài Khóa luận: Thực trạng pháp luật và đạo đức lĩnh vực giáo dục phổ thống ở việt nam hiện nay và một số kiến nghị đảm bảo thực hiện dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.

2.1. Thực trạng mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong hệ thống pháp luật Việt Nam về Giáo dục phổ thông

2.1.1. Những điểm tiến bộ của hệ thống pháp luật nói chung khi điều chỉnh các vấn đề thuộc lĩnh vực Giáo dục phổ thông.

Giáo dục và đào tạo có vị trí, vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc. Với vị trí quốc sách hàng đầu, Giáo dục và đào tạo có vai trò là nền tảng, động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội. Khi nguồn lực con người được coi là yếu tố quyết định sự phát triển của mỗi quốc gia thì phát triển giáo dục và đào tạo là phương tiện chủ yếu để quyết định chất lượng con người, là nền tảng của chiến lược con người. Con người vừa là trung tâm của mọi sự phát triển, vừa là mục tiêu, động lực của sự phát triển. Với tư cách là động lực cho sự phát triển, Giáo dục và đào tạo chuẩn bị cho con người sự phát triển bền vững trên tất cả các lĩnh vực, cho lợi ích hiện tại và tương lai của đất nước. Nước ta ngày càng chú trọng đến pháp luật và có những tiến bộ nhất định trong các quy định pháp luật về Giáo dục phổ thông.

  • Hiến pháp năm 2013 quy định về Giáo dục:

Điều 39: Công dân có quyền và nghĩa vụ học tập.

Điều 61: Khóa luận: Thực trạng pháp luật và đạo đức lĩnh vực giáo dục.

  1. Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
  2. Nhà nước ưu tiên đầu tư và thu hút các nguồn đầu tư khác cho giáo dục; chăm lo giáo dục mầm non; bảo đảm giáo dục tiểu học là bắt buộc, Nhà nước không thu học phí; từng bước phổ cập giáo dục trung học; phát triển giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp; thực hiện chính sách học bổng, học phí hợp lý.
  3. Nhà nước ưu tiên phát triển giáo dục ở miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn; ưu tiên sử dụng, phát triển nhân tài; tạo điều kiện để người khuyết tật và người nghèo được học văn hoá và học nghề.

Tinh thần về Giáo dục nước ta còn được thể hiện qua các quy định trong Luật Giáo dục và các Nghị quyết của Nhà nước:

  • Luật Giáo dục 2005 quy định:

Điều 10. Quyền và nghĩa vụ học tập của công dân Học tập là quyền và nghĩa vụ của công dân.

Mọi công dân không phân biệt dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, nam nữ, nguồn gốc gia đình, địa vị xã hội, hoàn cảnh kinh tế đều bình đẳng về cơ hội học tập.

Nhà nước thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, tạo điều kiện để ai cũng được học hành. Nhà nước và cộng đồng giúp đỡ để người nghèo được học tập, tạo điều kiện để những người có năng khiếu phát triển tài năng.

Nhà nước ưu tiên, tạo điều kiện cho con em dân tộc thiểu số, con em gia đình ở vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn, đối tượng được hưởng chính sách ưu đãi, người tàn tật, khuyết tật và đối tượng được hưởng chính sách xã hội khác thực hiện quyền và nghĩa vụ học tập của mình

  • Điều 9. Phát triển giáo dục Khóa luận: Thực trạng pháp luật và đạo đức lĩnh vực giáo dục.

Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.

Phát triển giáo dục phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội, tiến bộ khoa học, công nghệ, củng cố quốc phòng, an ninh; thực hiện chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa; bảo đảm cân đối về cơ cấu trình độ, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu vùng miền; mở rộng quy mô trên cơ sở bảo đảm chất lượng và hiệu quả; kết hợp giữa đào tạo và sử dụng.

Những quy định trong Luật Giáo dục 2005 và Luật Giáo dục sửa đổi đã kế thừa và cụ thể hóa các quy định trong Hiến pháp nước ta, đảm bảo quyền và lợi ích được cho công dân trong lĩnh vực Giáo dục phổ thông

  • Một số nghị định quy định về Giáo dục phổ thông:

Nghị định số 127/2018/NĐ-CP ngày 21/9/2018 quy định trách nhiệm quản lý nhà nước về giáo dục: Yêu cầu đối với việc quy định trách nhiệm quản lý Nhà nước về giáo dục là đảm bảo tính thống nhất, thông suốt và nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong quản lý nhà nước về giáo dục; bảo đảm tương ứng giữa nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm với nguồn lực tài chính, nhân sự, điều kiện đảm bảo chất lượng giáo dục và các điều kiện cần thiết khác để thực hiện nhiệm vụ được giao; xác định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm quản lý của các Bộ, Ủy ban nhân dân các cấp và các cơ quan có liên quan.

2.1.2. Chương trình giáo dục phổ thông mới.

Có thể nêu lên một số điểm của chương trình giáo dục phổ thông hiện hành được kế thừa trong chương trình giáo dục phổ thông mới:

Về mục tiêu giáo dục phổ thông: chương trình mới tiếp tục mục tiêu giáo dục phát triển con người toàn diện “đức, trí, thể, mỹ”; hài hòa về thể chất và tinh thần; chú trọng các yêu cầu học đi đôi với hành, lý thuyết gắn liền với thực tiễn, nhà trường gắn liền với xã hội… Khóa luận: Thực trạng pháp luật và đạo đức lĩnh vực giáo dục.

Về nội dung giáo dục: chương trình giáo dục phổ thông mới tiếp tục tập trung vào những giá trị cơ bản của văn hoá, truyền thống và đạo lý dân tộc, tinh hoa văn hoá nhân loại; bảo đảm yêu cầu cơ bản, hiện đại, phù hợp với đặc điểm tâm – sinh lý lứa tuổi của học sinh các cấp học.

Nhìn chung hệ thống các lĩnh vực giáo dục và hệ thống các môn học của chương trình hiện hành được kế thừa từ tên gọi đến nội dung các mạch kiến thức lớn, thời lượng cho các môn học. Kiến thức cơ bản của tất cả các môn học ở bậc phổ thông, nhất là một số môn học truyền thống của việt nam có thế mạnh, có chất lượng và hiệu quả (được chứng tỏ qua các kỳ đánh giá quốc gia và quốc tế) đều được kế thừa trong chương trình mới, chỉ bớt đi những kiến thức quá chuyên sâu, chưa hoặc không phù hợp với yêu cầu học vấn phổ thông và tâm – sinh lý lứa tuổi, không phục vụ nhiều cho việc phát triển phẩm chất và năng lực. Nội dung các hoạt động giáo dục của chương trình hiện hành cũng được kế thừa trong hoạt động trải nghiệm sáng tạo của chương trình mới như chào cờ, sinh hoạt lớp, hoạt động đoàn đội, hoạt động ngoài giờ lên lớp v.v…

Về phương pháp dạy học: phương pháp dạy học của chương trình mới thể hiện rõ tính kế thừa ở chủ trương: tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo định hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh… tất cả các phương pháp dạy học truyền thống và hiện hành đều được kế thừa trong chương trình mới với một tinh thần và định hướng mới. Đó là vận dụng linh hoạt, kết hợp nhuần nhuyễn các giáo dục phù hợp với đối tượng, hoàn cảnh và đều tập trung hình thành, phát triển năng lực người học.

Về thi, kiểm tra – đánh giá: tính kế thừa thể hiện ở chỗ dù mục tiêu kiểm tra đánh gía hướng tới năng lực và phẩm chất nhưng vẫn phải dựa trên cơ sở hệ thống kiến thức, kĩ năng cơ bản thông qua các môn học và hoạt động giáo dục. Các hình thức và công cụ đánh giá như kiểm tra miệng, kiểm tra viết, câu hỏi trắc nghiệm, câu hỏi tự luận, đề theo hướng mở, kiểm tra thường xuyên, kiểm tra định kỳ,… đều được kế thừa trong chương trình giáo dục mới, kết hợp và bổ sung thêm những hình thức và công cụ mới nhằm đánh giá đúng phẩm chất và năng lực của học sinh.

Về quy trình xây dựng chương trình: chương trình giáo dục phổ thông mới tiếp thu và kế thừa tất cả các ưu điểm về quy trình phát triển chương trình giáo dục phổ thông trước đây, từ việc đánh giá và xác định nhu cầu đổi mới; tiến hành các nghiên cứu cơ bản, đề xuất các căn cứ khoa học cho đến đề xuất các định hướng đổi mới… bảo đảm các bước thiết kế chương trình phù hợp với yêu cầu hội nhập quốc tế. Quy trình xây dựng từ dự thảo chương trình, xin ý kiến công luận đến tiếp thu, sửa chữa, thẩm định và phê duyệt … đều kế thừa kinh nghiệm của lần đổi mới chương trình năm 2000.

2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật và tuân thủ các giá trị đạo đức trong lĩnh vực Giáo dục phổ thông ở nước ta hiện nay Khóa luận: Thực trạng pháp luật và đạo đức lĩnh vực giáo dục.

2.2.1. Thực trạng thực hiện pháp luật và tuân thủ các giá trị đạo đức của đội ngũ giáo viên, cán bộ, công chức.

Sức mạnh của một trường học phụ thuộc chủ yếu vào đội ngũ giáo viên – nhân tố quan trọng quyết định chất lượng giáo dục. Họ là những người trực tiếp giảng dạy, giáo dục, hướng dẫn và truyền thụ kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm cho học sinh. Bởi vậy, xây dựng được đội ngũ giáo viên có đủ phẩm chất và năng lực sẽ là yếu tố then chốt để thực hiện cải cách, đổi mới giáo dục.

Nhìn chung số lượng, chất lượng đội ngũ giáo viên, cán bộ, công chức đã cơ bản đáp ứng được các yêu cầu nhiệm vụ. Đội ngũ giáo viên, cán bộ, công chức tham gia công tác quản lý, lãnh đạo các cấp phát huy tốt vai trò và khả năng của mình, không ngừng nâng cao hiệu quả lãnh đạo, quản lý, điều hành, góp phần quan trọng vào sự đổi mới hoạt động của hệ thống chính trị.

Đa phần giáo viên, cán bộ, công chức đã đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ dặt ra, có tinh thần trách nhiệm trong công việc, giữ vững đạo đức, phẩm chất, có ý thức tổ chức kỷ luật và chấp hành sự phân công của tổ chức, có lối sống lành mạnh và góp to lớn vào sự nghiệp Giáo dục của nước ta. Khóa luận: Thực trạng pháp luật và đạo đức lĩnh vực giáo dục.

Tuy nhiên, nhìn vào thực tế hiện nay, năng lực đội ngũ giáo viên phổ thông đang là vấn đề đáng lo ngại trước yêu cầu của giáo dục vì những quy định pháp luật về tiêu chuẩn giáo viên chưa được quy định rõ ràng và áp dụng triệt để vào thực tế. Trong quá trình kiểm tra, đánh giá năng lực học sinh như giữa kỳ, cuối kỳ còn có sự đuổi theo thành tích mà chưa đánh giá đươc năng lực thực sự của từng người. Ngoài ra với kì thi quan trọng như trung học phổ thông quốc gia để lấy điểm vào Đại học còn có tình trạng gian dối trong chấm và kết quả điểm thi của các học sinh.

Giờ đây, cũng như nhiều ngành nghề khác, nghề dạy học đang phải đối mặt với nhiều thách thức từ một số biểu hiện lệch lạc, bất cập trong đời sống xã hội làm suy giảm truyền thống đạo đức nghề nghiệp, gây ảnh hưởng tiêu cực đến đạo đức người thầy. Giáo viên bị áp lực từ việc hoàn thành các nhiệm vụ giảng dạy, thực hiện các yêu cầu của lãnh đạo và cấp trên, áp lực lương thấp. Hiện tượng đề cao lợi ích vật chất, lối sống thực dụng, các tệ nạn xã hội dường như ngày càng lấn át phẩm giá của con người, tác động xấu đến tình cảm, nguyện vọng của những người làm nghề sư phạm, làm một bộ phận nhà giáo sa sút, thậm chí bị suy thoái đạo đức lối sống.

Vì vậy, vấn đề bồi dưỡng, rèn luyện đạo đức nhà giáo cần phải được xem là nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên, có tính chiến lược không chỉ trong nhận thức mà quan trọng quyết định hơn là mỗi nhà giáo phải tự xây dựng kế hoạch triển khai tự rèn luyện nâng cao đạo đức của mình.

2.2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật và tuân thủ các giá trị đạo đức của các học sinh.

Trong những năm gần đây, nước ta chịu ảnh hưởng rất lớn bởi nền văn hóa phương Tây, tiếp cận với nền kinh tế thị trường nên sẽ có nhiều mặt tiêu cực tác động đến đạo đức, tư duy và lối sống của nhân dân. Đặc biệt, sự tác động của chúng ảnh hưởng đến lối sống, đạo đức của một bộ phận không nhỏ thế hệ trẻ của Việt Nam, nhất là các em học sinh.

Cụ thể, đạo đức trong học đường đang có nguy cơ xuống cấp. Học sinh rơi vào những tệ nạn xã hội, bạo lực học đường; không kính trọng thầy cô, xem thường bạn bè, mọi người xung quanh; không hiếu thảo với ông bà cha mẹ; thiếu tính nhân đạo; các em mê games bỏ học hoặc tự tử vì games; … Từ đó làm suy thoái những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Vì vậy việc giáo dục pháp luật và đạo đức trong học sinh phổ thông là điều rất cấp thiết để thúc đẩy sự hoàn thiện con người nói riêng và đẩy nhanh sự phát triển của đất nước nói chung. Khóa luận: Thực trạng pháp luật và đạo đức lĩnh vực giáo dục.

Một hiện trạng dễ thấy đó là đạo đức học sinh đang trên đà suy thoái trầm trọng. Học sinh ngày càng trở nên thiếu lễ độ với người khác. Hiện tượng học sinh bỏ học, đánh nhau, nói tục chửi thề, ngang ngược, bướng bỉnh, vi phạm pháp luật… trở nên phổ biến. Dù nhà trường, gia đình, xã hội đã vận dụng nhiều biện pháp giáo dục, tuyên truyền, vận động song không mang lại hiệu quả.

Hành vi xấu của học sinh có xu hướng lan nhanh trong các trường học. Số học sinh vi phạm kĩ luật nhà trường ngày càng tăng. Số vụ vi phạm pháp luật ở lứa tuổi học sinh có xu hướng tăng cao. Giáo dục đạo đức, nhân cách, nhân phẩm, ý thức trách nhiệm trong thời đại mới cho học sinh trở thành vấn đề quan tâm của toàn xã hội.

Chương trình giáo dục nặng nề, thiên về lý thuyết hơn thực hành. Điều đó, khiến học sinh càng học càng thấy khó, càng học càng thấy chán. Chế độ thi cử gây nhiều áp lực. Lại thêm tâm lí chạy đua thành tích trong học tập, khiến cho học sinh không còn hứng thú học tập. Học sinh cũng không say mê nghiên cứu hay sáng tạo. Học là để thi, để lên lớp, lấy bằng cấp mà thôi. Kéo theo đó, học sinh cũng không ý thức rèn luyện đạo đức, tác phong của bản thân. Xem đó chỉ là hình thức giao tiếp nhằm làm hài lòng người khác chứ không phải là văn hóa ứng xử.

Phương pháp giáo dục đạo đức theo kiểu “tầm chương trích cú” không còn phù hợp, cần phải đưa học sinh vào các xử lý tình huống thực tế. Giáo dục đạo đức trong nhà trường cần giảm thiểu những vấn đề cao xa, lớn lao, thay vào đó cần kiên trì bồi đắp lòng nhân ái, tính trung thực, lòng tự trọng, nếp nghĩ và lối sống lành mạnh, trọng đạo lý, sống có kỷ luật.

Một xã hội phát triển là một xã hội ở đó có nhiều người tốt, đạo đức được đề cao, con người sống bằng tình thương, lòng nhân ái. Dù có cứng rắn trong hành động giáo dục đạo đức, giúp học sinh tiến bộ song phải xuất phát từ tấm lòng bao dung, độ lượng, vị tha vì con người. Khi các giá trị đạo đức đã định hình, học sinh sẽ tìm thấy động lực học tập, trở thành người hữu ích cho xã hội.

2.3. Những kết quả đạt được và những tồn tại cần khắc phục của pháp luật và đạo đức khi điều chỉnh các vấn đề thuộc lĩnh vực Giáo dục phổ thông ở Việt Nam hiện nay. Khóa luận: Thực trạng pháp luật và đạo đức lĩnh vực giáo dục.

2.3.1. Những kết quả đạt được của pháp luật khi điều chỉnh các vấn đề thuộc lĩnh vực Giáo dục phổ thông.

Giáo dục và đào tạo nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng, góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước ta. Cụ thể là:

Hệ thống trường lớp và quy mô giáo dục phát triển nhanh, thực hiện nền giáo dục toàn dân, đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng tăng của nhân dân và nâng cao được trình độ đào tạo, trình độ và kĩ năng nghề nghiệp của người lao động.

Từ một hệ thông giáo dục chỉ có các trường công lập và chủ yếu là loại hình chính quy, đến nay đã có các trường ngoài công lập, có nhiều loại hình không chính quy, có các trường tư thục, dân lập, có phương thức đào tạo từ xa, phương thức liên kết đào tạo với nước ngoài… Đó là một trong những thành tựu lớn mà nền giáo dục nước ta đã đạt được.

Quy mô giáo dục tăng nhanh ở các vùng, các ngành học và các cấp học. Quy mô phát triển giáo dục trước hết thể hiện ở số lượng người học. Cùng với số lượng người học, quy mô giáo dục còn được đánh giá qua mạng lưới trường học theo địa bàn dân cư, số lượng nhà giáo, trang thiết bị dạy học. Nhìn chung, số học sinh trong toàn bộ hệ thống giáo dục không ngừng được tăng lên, số học sinh trong các trường ngoài công lập tăng nhanh: Số trẻ em tăng bình quân 7%/năm; mẫu giáo tăng bình quân 5,2%/năm.

Công bằng xã hội trong tiếp cận giáo dục có nhiều tiến bộ, nhất là đối với người dân tộc thiểu số, lao động nông thôn, các đối tượng chính sách và người có hoàn cảnh khó khăn, bình đẳng giới cơ bản được bảo đảm.

Trong nhiều năm qua, công bằng xã hội trong giáo dục được quan tâm thực hiện, các trường đại học, cao đẳng và các địa phương đã có nhiều biện pháp giúp đỡ, tạo điều kiện học tập cho con em gia đình thuộc diện chính sách, con em đồng bào dân tộc và học sinh nghèo vượt khó. Khóa luận: Thực trạng pháp luật và đạo đức lĩnh vực giáo dục.

Nhìn chung, công bằng xã hội trong giáo dục về cơ bản được đảm bảo, giáo dục ở các vùng dân tộc thiểu số có những chuyển biến tích cực. Cả nước đã hoàn thành công tác xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học và đang thực hiện phổ cập trung học cơ sở. Gần 94 % dân cư từ 15 tuổi trở lên biết chữ; số năm đi học trung bình đạt 7,3. Về có bản, nước ta đã đạt được sự bình đẳng nam nữ trong giáo dục

Chất lượng giáo dục và đào tạo được nâng lên, góp phần đáp ứng yêu cầu nhân lực phục vụ cho phát triển kinh tế – xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Chất lượng giáo dục có chuyển biến trên một số mặt. Trình độ hiểu biết, năng lực tiếp cận tri thức mới của một bộ phận học sinh, sinh viên được nâng cao; giáo dục trung học phổ thông chuyên đạt trình độ cao của khu vực và thế giới, số học sinh phổ thông đạt giải quốc gia và quốc tế ở một số môn học ngày càng tăng. Số đông sinh viên tốt nghiệp đại học, cao đẳng có hoài bão lập thân, lập nghiệp và có tinh thần tự lập, năng động;

Chất lượng đào tạo của một số ngành khoa học cơ bản và khoa học công nghệ đã được nâng cao một bước. Giáo dục đại học đã từng bước vươn lên, đào tạo được một đội ngũ đông đảo cán bộ khoa học kỹ thuật từ cử nhân, thạc sỹ cho đến tiến sĩ, đã và đang công tác và có những cống hiến quan trọng trong hầu hết các lĩnh vực kinh tế, xã hội.

  1. Công tác quản lí giáo dục có bước chuyển biến tích cực.
  2. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lí giáo dục tăng nhanh về số lượng, trình độ đào tạo được nâng lên, từng bước đáp ứng yêu cầu phát triển giáo dục.
  3. Cơ sở vật chất – kĩ thuật của hệ thống giáo dục và đào tạo được tăng thêm và từng bước hiện đại hoá.
  4. Xã hội hoá giáo dục và hợp tác quốc tế được đẩy mạnh, đạt nhiều kết quả quan trọng.

Hưởng ứng chủ trương xã hội hoá giáo dục, ở hầu hết các địa phương đều đã có phong trào xây dựng quỹ khuyến học, đóng góp công sức tiền của để phát triển giáo dục. Trong những năm gần đây, phần kinh phí do nhân dân đầu tư, trang trải cho các hoạt động giáo dục ước tính khoảng trên dưới 40%. Các nguồn lực thông qua con đường xã hội hóa, cùng với nguồn lực của Nhà nước, tạo nên sức mạnh tổng hợp thúc đẩy sự nghiệp giáo dục – đào tạo, phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước và nhu cầu học tập của các tầng lớp nhân dân.

2.3.2 Những hạn chế của pháp luật khi điều chỉnh các vấn đề thuộc lĩnh vực Giáo dục phổ thông. Khóa luận: Thực trạng pháp luật và đạo đức lĩnh vực giáo dục.

2.3.2.1. Những hạn chế trong các văn bản pháp luật về Giáo dục phổ thông Luật chưa thể hiện tinh thần và cụ thể hóa được Hiến pháp 2013, nhất là Điều 39 và Điều 61. Ví dụ, Điều 39 nêu ‘công dân có quyền và nghĩa vụ học tập’, muốn vậy luật phải định hướng việc thiết kế nền giáo dục sao cho nhu cầu học là nhu cầu thực và bức thiết hằng ngày như ăn, như thở, khi đó tự khắc mọi công dân sẽ đều có nhu cầu ‘học tập suốt đời’, việc học tập mới không còn tính trang trí hình thức. Bên cạnh đó, để làm được điều đã khẳng định tại Điều 61, ‘phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài’, chưa làm rõ các nội hàm thực sự của ‘quốc sách hàng đầu’ và ‘bồi dưỡng nhân tài’ là những gì.

Việc quy hoạch, sắp xếp mạng lưới trường lớp học ở một số địa phương còn chưa phù hợp, chậm hướng dẫn triển khai; thiếu trường, lớp ở các khu đô thị, khu công nghiệp, khu chế xuất; tình trạng thừa, thiếu giáo viên cục bộ vẫn chưa được giải quyết. Năng lực nghề nghiệp của một bộ phận giáo viên còn yếu, phương pháp giảng dạy chậm đổi mới; năng lực quản trị của một bộ phận cán bộ quản lý trường học còn yếu, chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới.

Tính kế thừa chưa cao, mỗi khi thay đổi chính sách cần phải tổng kết chính sách cũ. Chúng ta cần làm rõ về nhu cầu cấp bách chỉnh sửa, bổ sung luật cũ hay thậm chí là xây dựng luật mới, căn cứ trên một báo cáo tổng kết phản ánh đúng với thực tế, trung thực, khách quan về các kết quả đã đạt được cũng như các tồn tại, vướng mắc, hạn chế mà nền Giáo dục đang phải đối mặt. Với từng mặt tồn tại, yếu kém của giai đoạn trước (ví dụ, các hạn chế trong hệ thống giáo dục quốc dân, quy hoạch mạng lưới, cân đối trong cơ cấu, trình độ, mục tiêu phát triển năng lực cá nhân, sự mất cân đối giữa dạy chữ với dạy người, v.v…) cần chỉ ra giải pháp sửa chữa, bổ sung, hoàn thiện trong luật mới, được thể hiện cụ thể và thiết thực. Đặc biệt cần làm rõ hơn trách nhiệm của nhà nước, xã hội, người học và gia đình họ để đạt được mục tiêu của Giáo dục và đào tạo.

Luật giáo dục chưa được coi là luật gốc, là nền tảng, là cơ sở, để từ đó xây dựng các luật về phổ thông, luật về giáo dục nghề nghiệp, luật nhà giáo, v.v…. Khóa luận: Thực trạng pháp luật và đạo đức lĩnh vực giáo dục.

hình thành Bộ Luật về giáo dục trong tương lai. Đồng thời, phải bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất giữa Luật Giáo dục phổ thông và các Luật khác trong hệ thống pháp luật của chúng ta, như Bộ Luật Lao độn, Luật Bình đẳng giới, Luật Giáo dục nghề nghiệp, v.v…

Công tác tự chủ, trách nhiệm giải trình với xã hội của các cơ sở đào tạo còn hạn chế; việc thực hiện tự chủ các cơ sở tư nhân chưa gắn liền với đổi mới quản trị nhà trường. Các điều kiện đảm bảo chất lượng chưa đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Việc ban hành văn bản còn chậm, chưa đồng bộ; công tác xử lý vi phạm sau thanh tra ở một số địa phương chưa nghiêm.

2.3.2.2. Những hạn chế trong chất lượng và các khía cạnh khác của Giáo dục phổ thông.

Bên cạnh các kết quả đạt được, công tác giáo dục đạo đức, lối sống, kỹ năng sống, giáo dục thể chất cho học sinh còn hạn chế; việc xây dựng môi trường giáo dục dân chủ trong một số cơ sở giáo dục chưa được chú trọng; cá biệt có một số giáo viên, học sinh có hành vi ứng xử thiếu văn hóa gây mất niềm tin của cha mẹ học sinh, bức xúc trong xã hội.

Công tác giáo dục hướng nghiệp và định hướng phân luồng học sinh trong giáo dục phổ thông thực hiện chưa được hiệu quả, nhiều nơi còn làm hình thức, gây băn khoăn trong dư luận xã hội.

Trong quá trình thực hiện, giáo dục cũng nảy sinh nhiều vấn đề bức xúc. Quy mô, số lượng học sinh tiểu học, THCS dần dần ổn định nhưng sức ép số lượng ở cấp THPT còn rất lớn do khả năng phân luồng học sinh hạn chế; sự phát triển kinh tế và nhu cầu nguồn nhân lực không đồng đều ở các vùng miền cho nên có nhiều khó khăn trong giải quyết việc làm; phát triển các trường lớp ngoài công lập, phi chính quy, dạy thêm học thêm… chưa theo quy hoạch và thiếu quản lý chặt chẽ dẫn đến giảm sút chất lượng, có dấu hiệu vi phạm, tiêu cực gây bức xúc trong nhân dân và xã hội; xuất hiện sự mất cân đối, mâu thuẫn, không hài hòa, chưa tương xứng giữa quy mô, chất lượng và điều kiện đáp ứng của nền kinh tế trong khi công tác xã hội hóa giáo dục chưa đạt hiệu quả mong muốn. Khóa luận: Thực trạng pháp luật và đạo đức lĩnh vực giáo dục.

Học sinh có xu hướng học lệch, học tủ, phụ huynh muốn con em học thêm nhiều vì mục tiêu trước mắt, chạy theo những bộ môn khoa học tự nhiên, coi nhẹ các bộ môn khoa học xã hội và những lĩnh vực văn hóa nghệ thuật, chạy theo những ngành nghề dễ kiếm việc làm, sớm có thu nhập và thu nhập cao… Vì vậy, khả năng phân luồng và định hướng nghề nghiệp kém hiệu quả. Nội dung kiến thức phổ thông có phần quá tải, nặng lý thuyết kinh viện, thiếu thực hành ứng dụng; thời lượng học trên lớp và làm bài tập ở nhà quá nhiều, học sinh thiếu thời gian để rèn luyện thể chất, vui chơi giải trí và ứng dụng vào thực tế những điều đã học, ít có điều kiện hòa nhập cuộc sống cộng đồng, xã hội. Chất lượng giáo dục phổ thông chỉ có thể đánh giá chủ yếu trên kết quả xếp loại, kết quả thi tốt nghiệp, tuyển sinh vào Cao đẳng, Ðại học; thi học sinh giỏi quốc gia, quốc tế. Trong khi đó hình thức thi cử, kiểm tra đánh giá còn nặng nề, chú trọng đầu vào, thả lỏng đầu ra, chưa theo một quy trình chặt chẽ nghiêm túc, khoa học, khách quan cho nên trong một số trường hợp cho ta một số kết quả theo lối chạy theo thành tích, chưa đánh giá đúng thực tế chất lượng học sinh.

Chất lượng giáo dục phổ thông còn đang được đánh đồng với kết quả tiếp thu kiến thức, kỹ năng làm bài của học sinh mà chưa chú trọng đến việc phát triển phẩm chất và năng lực học sinh; việc giáo dục kỹ năng sống, giá trị sống, năng lực thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn chưa được quan tâm đúng mức thông qua tổ chức dạy học các môn học và hoạt động giáo dục:

Hiện nay giáo dục chú trọng quan tâm đến số lượng nhiều hơn chất lượng

Nội dung, chương trình giảng dạy còn lạc hậu, lỗi thời, chưa đổi mới, cải tiến hiệu quả. Chưa áp dụng thực tiễn nhiều, chưa phát huy được tính sáng tạo, năng lực thực hành cho học sinh Giáo dục Việt Nam hiện nay chỉ quan tâm đến việc dạy “chữ” cho học sinh. Thế nhưng việc dạy “nhân” và “nghĩa” thì lại bị buông lỏng, giảm sút, nhất là các mặt đạo đức, lối sống. Việc cho học sinh có thể thực hành được các bài học vẫn chưa được đẩy mạnh, khiến cho kĩ năng thực hành, tư duy sáng tạo của học sinh sinh viên bị hạn chế rõ rệt. Khóa luận: Thực trạng pháp luật và đạo đức lĩnh vực giáo dục.

Hệ thống giáo dục các cấp bậc phổ thông còn thiếu đồng bộ, chưa có sự cân đối. Ở phổ thông, các học sinh được học các môn học khoa học mang tính lý thuyết rất nhiều, nhưng khi lên cấp bậc đại học thì những lý thuyết ở phổ thông không thể đem áp dụng ra được, khiến các sinh viên phải học lại từ đầu, như thế phải mất thêm một khoảng thời gian nữa

Đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục và giáo viên còn rất nhiều bất cập, như việc phân phối cán bộ giảng dạy vẫn còn chưa hợp lý về các trường học. Bên cạnh đó còn có nhiều cán bộ giảng dạy không có tâm đối với học trò của mình

Việc định hướng và liên kết với nước ngoài trong chương trình giáo dục còn lúng túng, mơ hồ, chưa có mục tiêu, phương hướng rõ ràng

Tư duy của nền giáo dục còn chậm đổi mới, chưa theo kịp tốc độ phát triển, đổi mới của đất nước trong bối cảnh nền kinh tế thị trường, phát triển và hội nhập với thế giới. Việc thực hành cần được áp dụng từ ngay khi còn học phổ thông, để các em có thể phát triển tư duy, sáng tạo, chọn lựa cho mình những ngành nghề phù hợp nhất với bản thân mình.

2.3.3. Những vấn đề cần đổi mới trong nền Giáo dục phổ thông nước ta

Thứ nhất: phải thay đổi triết lý để chuyển một nền giáo dục lấy trang bị kiến thức chuyên môn làm mục tiêu chủ yếu sang một nền giáo dục chỉ dạy những kiến thức chuyên môn căn bản ở mức tối thiểu. Dành nhiều thời gian dạy người học về phương pháp, kỹ năng, cách tự học, dạy cách sử dụng, khai thác các thiết bị… và dạy làm người với mục đích người được đào tạo có khả năng thích ứng nhanh với hoàn cảnh, có khả năng học tập suốt đời và có trách nhiệm cao với gia đình, xã hội và Tổ quốc.

Đi theo sự đổi mới này sẽ là hàng loạt những thay đổi căn bản. Từ chương trình, giáo trình, sách giáo khoa, người thày và cách thức giảng dạy. Theo triết lý mới này cách dạy và học sẽ chuyển từ học để nhớ sang chuyển sang học để hiểu. Cho đến nay hiện tượng quá tải như một căn bệnh không thể chữa và thay đổi sách giáo khoa diễn ra liên năm chính là do triết lý lấy dạy chuyên môn là mục tiêu quan trọng đẻ ra. Khóa luận: Thực trạng pháp luật và đạo đức lĩnh vực giáo dục.

Thứ hai: phải thay đổi một cách căn bản hệ thống đánh giá từ kiểm tra kiến thức sang đánh giá năng lực. Đầu vào thì đánh giá năng lực có học được (cấp học, chương trình học ấy) không. Trong quá trình thì đánh giá năng lực hiểu và tiếp thu sáng tạo những điều đã học. Đầu ra thì đánh giá năng lực vận dụng những điều đã học tập, rèn luyện vào môi trường sắp tới… Tóm lại phải thay đổi căn bản những gì đang làm hiện nay trong việc thi cử, đánh giá. Sự thay đổi này sẽ mở đường cho một giai đoạn mới, người thi sẽ được sử dụng các thiết bị công nghệ thông tin (như máy tính chẳng hạn), sử dụng mạng internet…Việc tổ chức thi sẽ nhẹ nhàng, đơn giản và chắc chắn sẽ chấm dứt việc phải nhờ cậy đến lực lượng công an để bảo vệ đề, phải nhốt thầy ra đề trong khách sạn vừa tốn kém, vừa bức xúc…và nhất là sẽ không còn hiện tượng học vẹt, học tủ và quay cóp nữa.

Thứ ba: việc xây dựng các chương trình giảng dạy phải có chuẩn đầu ra. Chuẩn đầu ra ở đây là phải lấy thực tế khách quan và yêu cầu của xã hội làm căn cứ, chứ không không phải là “chuẩn” nhưng do nhà trường tự quy định như nhiều cơ sở đào tạo đang làm. Như vậy chuẩn đầu ra phải hiểu là đáp ứng nhu cầu rất đa dạng cả về chủng loại và chất lượng.

Giáo dục đào tạo và cung cấp nguồn nhân lực các loại cho xã hội. Sự đa dạng yêu cầu về chủng loại và chất lượng lao động sẽ quy định chủng loại và sự phân tầng của các cơ sở đào tạo. Bên cạnh những yêu cầu chất lượng rất cao của các cơ sở hàng đầu, có yêu cầu vừa phải của các cơ sở không có nhu cầu đến mức ấy. Đây chính là luận lý căn bản để phải có cách nhìn phân tầng đối với giáo dục đại học. Trong ý nghĩa này nhất loạt hô khẩu hiệu “chất lượng cao” là duy ý chí, không thực tế và cũng không phù hợp với thực tiễn.

Thứ tư: cần phải có sự phân biệt căn bản giữa giáo dục phổ thông và giáo dục đại học (bao gồm cả sau đại học). Trong một thời gian dài sự phân biệt này chỉ là hình thức. Không phải vô cớ mà nhiều bậc trí giả ví von một cách hài hước, nhưng lại rất chính xác là đại học Việt Nam là phổ thông cấp 4. Quả thực, trên đại học, sinh viên chỉ học những kiến thức chuyên môn chưa học ở các lớp phổ thông, còn cách dạy cách học không khác mấy so với học phổ thông (cũng giống như lớp 10 học những kiến thức chưa học ở lớp 9). Khóa luận: Thực trạng pháp luật và đạo đức lĩnh vực giáo dục.

Điều khác căn bản giữa giáo dục phổ thông và giáo giáo dục đại học là ở chỗ giáo dục phổ thông là dạy những kiến thức đã ổn định, trang bị nền tri thức và rèn luyện những phẩm chất cơ bản cho công dân, còn giáo dục đại học chủ yếu lại là đào tạo nguồn nhân lực có năng lực sáng tạo và ngay trong quá trình học tập đã tham gia sáng tạo tri thức mới. Ở các nước tiên tiến, những phát minh và giải thưởng khoa học quốc tế lớn đều từ các trường đại học là do đặc điểm này của đại học. Chính từ thuộc tính này mà quyền tự chủ của các đại học, trước hết là tự chủ về học thuật, là điều kiện tiên quyết để giáo dục đại học phát triển. Tự chủ phải gắn liền với tự chịu trách nhiệm. Hãy để đại các trường đại học tự chăm lo lấy thương hiệu và uy tín của mình. Không nên lo “làm bậy” mà phải quản thật chặt. Quản lý nhà nước là vô cùng quan trọng và cần thiết, nhưng nếu không xác định được đầy đủ nội hàm của công tác này mà tăng cường quản lý của Nhà nước với rất nhiều những quy trình khắt khe thì chưa chắc đã đem lại kết quả như mong muốn. Quản lý chặt đến đâu cũng có kẽ hở (đấy là chưa kể tới ngay cả đội ngũ những người làm quản lý cũng không phải tất cả đều giỏi việc và trong sáng vô tư). Không cẩn thận sẽ khiến cho các cơ sở đào tạo ỷ lại, ỷ thế rồi khéo léo lách qua những quy định…khi ấy toàn bộ trách nhiệm lại được đổ lên các cơ quan quản lý.

Thứ năm: để có thể tiến hành đổi mới một cách căn bản thì giải pháp phải đồng bộ và toàn diện. Trước hết là những đổi mới về cơ chế, chính sách. Trong hoàn cảnh khóa khăn hiện nay của đất nước, không nên đặt vấn đề tăng thêm ngân sách cho giáo dục và đào tạo mà có chính sách phân phối nguồn lực cho hợp lý. Trong quá trình này, đầu tư tập trung và đầu tư hiệu quả được coi là ưu tiên. Cần chấm dứt việc đầu tư giàn trải và kém hiệu quả như hiện nay. Ngoài những cơ chế chính sách về tài chính, phải đổi mới hàng loạt các cơ chế chính sách khác có liên quan đến giáo dục, đào tạo, sao cho thực sự là quốc sách hàng đầu.

Vấn đề quyết định cho thành công của sự nghiệp đổi mới giáo dục là chính sách cán bộ. Chọn đúng người, giao đúng việc và có những chính sách thu hút người giỏi vào lĩnh vực giáo dục và đào tạo sẽ đưa giáo dục nước nhà bước vào một thời kỳ phát triển mới.

2.4. Một số quan điểm Giáo dục phổ thông trên thế giới Khóa luận: Thực trạng pháp luật và đạo đức lĩnh vực giáo dục.

  • Giáo dục ở Nhật Bản:

Đạo đức là cốt lõi: Nhật Bản trở thành một nước có nền giáo dục tiên tiến là nhờ thực hiện tiêu chí “con người = đạo đức”, đề cao tính tự lập và tinh thần kỷ luật. Tư tưởng của người Nhật vẫn còn mang đậm dấu ấn văn hóa truyền thống của dân tộc mình, đạo đức là cốt lõi là điều mà một học sinh phải biết đến đầu tiên.

Giáo dục Nhật Bản vận hành theo nguyên lý: “mỗi người học sẽ trở thành một cá nhân hoàn thiện đạo đức”.

Tư duy ‘tự lập’: Giáo dục Nhật Bạn cũng hướng đến tính tự lập cho học sinh, mỗi học sinh có thể tự chủ trong học tập, không ỷ lại để có thể hòa nhập môi trường hội nhập đầy biến động các giá trị văn hóa và tri thức

  • Giáo dục ở Mỹ: Tự do và tôn trọng tự do của người khác

Nền giáo dục Mỹ hướng con người đến tự do, có thể dễ dàng thích nghi với cuộc sống đang biến động hàng ngày, nếu bó buộc học sinh sẽ làm mất tính sáng tạo của trẻ. Các chương trình học tại các trường ở Mỹ rất giàu tính trải nghiệm, kích thích sự phát hiện, khuyến khích trẻ đưa ra tất cả suy nghĩ “xung quanh một câu hỏi”.

Tự do của người Mỹ là tự do về tư tưởng, giữ quan điểm của mình đồng thời tôn trọng quan điểm ý kiến của người khác.

  • Giáo dục ở Đức: Khóa luận: Thực trạng pháp luật và đạo đức lĩnh vực giáo dục.

Bình đẳng: Một trong những đặc tính của giáo dục Đức đó là tính bình đẳng giữa các học sinh, trong lớp học không có lớp trưởng, lớp phó hay tổ trưởng, tổ phó, mà chỉ có “phát ngôn viên” để chuyển thông điệp của thầy cô đến học sinh và ngược lại.“Phát ngôn viên” còn đưa ra các giải pháp, phong trào nhằm cải thiện tình hình học tập, giúp các bạn học lực yếu, phát huy các tài năng văn nghệ, thể thao trong lớp…

Chú trọng trải nghiệm thực tế: Người Đức cho rằng trói buộc những đứa trẻ trong lớp học mà thiếu tính trải nghiệm thực tế sẽ dẫn đến những sản phẩm bị lỗi thời về mặt nội dung. Thầy cô đứng lớp còn quan niệm phải mất cả năm trời, thậm chí là vài năm người ta mới có thể xuất bản một quyển sách hạn hữu trong khi thế giới to lớn, vĩ đại đang vận động hàng giây. Thế nên kiến thức sách vở, phần lớn đã lỗi thời trước khi được trưng bày trên kệ sách.

Đối mặt với những khó khăn và thách thức lớn khiến nền giáo dục nước ta bị trì trệ và chậm phát triển. Chúng ta phải nhìn nhận lại những vấn đề đang gây cản trở và có biện pháp tốt hơn, một số điều tôi nhận thấy chúng ta cần phải học hỏi từ các nước bạn:

  • tập Nhật Bản lấy giáo dục đạo đức và nhân cách làm nền tảng cơ bản.
  • Học tập Phần Lan “học ít thực hành nhiều” để học sinh có thể ứng dụng vào cuộc sống.
  • Học tập Mỹ tạo sự tự do, công bằng trong giáo dục.
  • Học tập Úc thúc đẩy sự sáng tạo, khác biệt trong giáo dục.

Học tập Singapore đầu tư vào công nghệ và chất lượng giáo viên. Việc so sánh giáo dục Việt Nam và giáo dục thế giới giúp chúng ta thấy được những hạn chế cần phải sửa chữa, để làm hành trang cho những cải cách hoàn thiện hơn. Giáo dục chính là cơ sở để đánh giá được trình độ dân trí cũng như sự phát triển của một quốc gia. Khóa luận: Thực trạng pháp luật và đạo đức lĩnh vực giáo dục.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ: 

===>>> Khóa luận: Giải pháp pháp luật và đạo đức lĩnh vực giáo dục

8 thoughts on “Khóa luận: Thực trạng pháp luật và đạo đức lĩnh vực giáo dục

  1. Khóa luận: Thực trạng pháp luật và đạo đức lĩnh vực giáo dục says:

    Khóa luận: Thực trạng pháp luật và đạo đức lĩnh vực giáo dục

  2. Khóa luận: Thực trạng pháp luật và đạo đức lĩnh vực giáo dục says:

    Khóa luận: Thực trạng pháp luật và đạo đức lĩnh vực giáo dục

  3. Khóa luận: Thực trạng pháp luật và đạo đức lĩnh vực giáo dục says:

    Khóa luận: Thực trạng pháp luật và đạo đức lĩnh vực giáo dục

  4. Pingback: Khóa luận: Pháp luật và đạo đức trong lĩnh vực luật giáo dục

  5. Khóa luận: Thực trạng pháp luật và đạo đức lĩnh vực giáo dục says:

    Khóa luận: Thực trạng pháp luật và đạo đức lĩnh vực giáo dục

  6. Khóa luận: Thực trạng pháp luật và đạo đức lĩnh vực giáo dục says:

    Khóa luận: Thực trạng pháp luật và đạo đức lĩnh vực giáo dục

  7. Khóa luận: Thực trạng pháp luật và đạo đức lĩnh vực giáo dục says:

    Khóa luận: Thực trạng pháp luật và đạo đức lĩnh vực giáo dục

  8. Khóa luận: Thực trạng pháp luật và đạo đức lĩnh vực giáo dục says:

    Khóa luận: Thực trạng pháp luật và đạo đức lĩnh vực giáo dục

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Contact Me on Zalo
0906865464