Khóa luận: Pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Khóa luận: Pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi hay nhất năm 2024 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thạc sĩ thì với đề tài Khóa luận: Pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.

2.1 Khái quát quá trình phát triển của pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi

2.1.1 Thời kỳ phong kiến 

Ngoài mục đích nhân đạo là mang lại mái ấm gia đình cho trẻ em, nuôi con nuôi cũng xuất phát từ nhu cầu của người nhận con nuôi là do sự từ tâm (làm điều thiện) hay do sự mưu cầu cá nhân (để nương tựa khi về già hoặc thậm chí để có người thờ phụng ông bà, tổ tiên); vì thế, những quy định pháp luật về nuôi con nuôi ở nước ta có từ thời phong kiến, được quy định trong Quốc triều Hình luật (Bộ luật Hồng Đức) năm 1483 triều nhà Lê và Hoàng Việt Luật lệ (Bộ luật Gia Long) năm 1811 Triều nhà Nguyễn. Trong hai bộ luật này đã quy định về vấn đề nuôi con nuôi, theo đó con nuôi được gọi là nghĩa tử, cha mẹ nuôi được gọi là nghĩa phụ và nghĩa mẫu; cha mẹ nuôi phải đối xử với con nuôi như con đẻ và ngược lại con nuôi có nghĩa vụ phụng dưỡng, báo hiếu cha mẹ nuôi như cha mẹ đẻ. Cha mẹ nuôi có toàn quyền nuôi dưỡng, dạy dỗ, đại diện cho con nuôi và quyết định nơi ở cũng như tác thành hôn nhân của con nuôi. Con nuôi phải phụng dưỡng cha mẹ nuôi, không được kiện cáo cha mẹ nuôi, không được tự ý bỏ đi khi cha mẹ nuôi già yếu để thể hiện lòng biết ơn công nuôi dưỡng, khi cha mẹ nuôi chết phải để tang (cư tang) 03 năm… Trong Hoàng Việt Luật lệ đã có sự phân biệt giữa việc nghĩa dưỡng và việc lập tự, tức là nghĩa dưỡng chỉ việc nuôi con nuôi thông thường, có thể nhận bất kỳ đứa trẻ nào làm con nuôi; còn lập tự là kén chọn người nối dõi tông đường, thờ phụng tổ tiên (do cha mẹ nuôi không có con trai), do đó, con nuôi bắt buộc phải là con trai và phải là người đồng tông (trong họ) để không gây rối loạn trong việc thờ cúng tổ tiên.

Như vậy, tuy còn ít và tản mạn nhưng pháp luật phong kiến Việt Nam đã có những quy định điều chỉnh một số nội dung cơ bản về nuôi con nuôi, tạo điều kiện để thực hiện việc nuôi con nuôi trong thực tế và góp phần nhất định bảo vệ quyền lợi của người con nuôi, đặc biệt là xác lập mối quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận nuôi và người được nhận nuôi.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ: 

===>>> Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Luật

2.1.2 Thời kỳ Pháp thuộc 

Thời kỳ Pháp thuộc, pháp luật nuôi con nuôi được điều chỉnh trong ba bộ luật: Bộ Dân luật Giản yếu áp dụng ở Nam Kỳ, Bộ luật Dân sự Bắc Kỳ áp dụng ở Bắc Kỳ và Hoàng Việt Trung kỳ hộ luật được áp dụng ở các tỉnh miền Trung. Tuy nhiên, ảnh hưởng của Bộ Dân luật Giản yếu rất hạn chế vì không phù hợp với phong tục tập quán Việt Nam, không phản ánh đúng thực trạng xã hội Việt Nam lúc bấy giờ. Bộ luật Dân sự Bắc Kỳ và Hoàng Việt Trung Kỳ bộ luật về cơ bản không có gì khác nhau.

  • Các bộ luật này quy định về chế định nuôi con nuôi như sau: Khóa luận: Pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi.

Về điều kiện nhận nuôi con nuôi: Cả ba bộ luật đều quy định điều kiện đối với người nhận nuôi và người được nhận nuôi trong trường hợp nuôi con nuôi thông thường hay nuôi con nuôi lập tự. Con nuôi phải là vị thành niên. Con nuôi thông thường có thể là con trai hoặc con gái, nhưng con nuôi lập tự phải là con trai và cùng họ với người đứng nuôi. Các bộ luật đều quy định tuổi của người nhận nuôi. Bộ Dân luật giản yếu không cho phép người độc thân được nuôi con lập tự.

Về thủ tục nhận nuôi con nuôi: Cả ba bộ luật đều quy định việc nuôi con nuôi phải được lập thành văn tự trước mặt hộ lại với sự ưng thuận của những người có liên quan. Dân luật Giản yếu đòi hỏi văn tự phải được Tòa án phê chuẩn mới có hiệu lực. Khế ước về việc nuôi con nuôi bị vô hiệu hóa khi chứa đựng những yếu tố giả dối, như làm khế ước nuôi con nuôi nhằm bán con (Điều 203 Hoàng Việt Trung kỳ hộ luật). Những khế ước có việc bán con, cầm cố con hoặc gán nợ con đều vô hiệu (Điều 208 Dân luật Bắc kỳ).

Về hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi: Việc nuôi con nuôi có hiệu lực làm phát sinh quan hệ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi như giữa cha mẹ đẻ và con đẻ. “Người đứng nuôi phải trông nom, cấp dưỡng cho con nuôi. Con nuôi đã thuộc về nhà mình thì phải đối đãi như con đẻ” (Điều 193 Dân luật Bắc kỳ, Điều 192 Dân luật Trung kỳ). Con nuôi có nghĩa vụ và phận sự đối với cha mẹ nuôi như con đẻ, nhưng không bắt buộc phải phụng tự cha mẹ nuôi, cùng tổ tiên cha mẹ nuôi, trừ con lập tự (Điều 192 Dân luật Bắc kỳ, Điều 191 Dân luật Trung kỳ). Con nuôi không được lập tự thì không có quyền lợi gì về tài sản thừa kế của cha mẹ nuôi. Cha mẹ nuôi có thể làm chúc thư cho con nuôi một phần tài sản của mình. Nếu không có chúc thư, thì khi phân chia di sản, hội đồng gia tộc có thể chia cho con nuôi một phần gia sản nhưng không quá một nửa của con chính (Điều 196 Dân luật Bắc kỳ, Điều 195 Dân luật Trung Kỳ). Người con nuôi được lập làm thừa tự mà sau đó cha mẹ nuôi sinh được con trai thì người con nuôi đó không đứng thừa tự nữa nhưng vẫn được chia một phần gia sản của cha mẹ nuôi như con đẻ (Điều 199 Dân luật Bắc kỳ, Điều 198 Dân luật Trung Kỳ). Đối với cha mẹ đẻ, người con nuôi vẫn có nghĩa vụ như không đi làm con nuôi, nhưng trước hết phải phục tùng cha mẹ nuôi (Điều 197 Dân luật Bắc kỳ, Điều 198 Dân luật Trung Kỳ). Con nuôi vẫn được giữ nguyên quyền thừa kế gia sản của cha mẹ đẻ (Điều 198 Dân luật Bắc kỳ, Điều 197 Dân luật Trung Kỳ). Hai bộ luật này cũng quy định về việc chấm dứt nuôi con nuôi do lỗi của con nuôi hoặc lỗi của cha mẹ nuôi.

Có thể nói, những quy định của các bộ luật này về nuôi con nuôi có tính hệ thống, rõ ràng hơn và cũng đầy đủ hơn, đồng thời cũng có sự phù hợp nhất định với đời sống xã hội lúc bấy giờ.

2.1.3 Giai đoạn trước khi ban hành Luật Nuôi con nuôi năm 2010 

Trước khi Luật Nuôi con nuôi được ban hành, pháp luật về nuôi con nuôi của Việt Nam mặc dù được quy định trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau, song về cơ bản chế định pháp luật về nuôi con nuôi đã tương đối đầy đủ; từ Hiến pháp đến Bộ luật, Luật, Nghị quyết của Quốc hội, Nghị định của Chính phủ, Thông tư… đã quy định nguyên tắc, điều kiện, trình tự, thủ tục cho nhận con nuôi, đồng thời Việt Nam đã ký kết các Hiệp định hợp tác song phương về nuôi con nuôi với một số quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới. Khóa luận: Pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi.

  • Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi đến Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959

Năm 1945, Cách mạng Tháng 8 thành công, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà được thành lập, chính quyền nhà nước bắt tay vào xây dựng hệ thống pháp luật dân chủ, vì nhân dân “tất cả quyền bính trong nước là của toàn dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo” (Điều 1 Hiến pháp năm 1946). Trẻ em được ưu tiên quan tâm chăm sóc, “trẻ con được săn sóc về mặt giáo dưỡng”. Ngay sau khi giành được độc lập, nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa thực hiện chế độ công sản, xóa bỏ tư hữu, giai đoạn này còn gọi là “thời kỳ bao cấp” nên trẻ em được “hưởng đầy đủ các tiêu chuẩn lương thực, thực phẩm, vải mặc đã được Nhà nước quy định cho từng lứa tuổi. Bộ Lương thực, Bộ Công nghiệp thực phẩm và Bộ Nội thương có trách nhiệm bảo đảm những tiêu chuẩn đó cho các em. Trong trường hợp có khó khăn, trẻ em là đối tượng được ưu tiên phân phối lương thực, thực phẩm và vải mặc” (Điều 1 Nghị định số 293-CP ngày 04/7/1981 của Hội đồng Chính phủ về việc thi hành Pháp lệnh ngày 14/11/1979 về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em).

Thời kỳ này, những quy định về bảo vệ trẻ em và nuôi con nuôi lần đầu tiên được quy định tại Nghị định số 764/TTg ngày 08/5/1956 của Thủ tướng Chính phủ ban hành bản Điều lệ đăng ký hộ tịch và Thông tư số 6/NV-DC-TT ngày 25/5/1956 của Bộ Nội vụ hướng dẫn thi hành Điều lệ đăng ký hộ tịch mới. Pháp luật chỉ quy định thủ tục đăng ký, công nhận và hủy bỏ việc nuôi con nuôi. Cơ quan có thẩm quyền công nhận việc nuôi con nuôi là Ủy ban nhân dân cơ sở, nơi trú quán của người nhận nuôi hoặc đứa trẻ. Các vấn đề về mục đích, điều kiện, quyền và nghĩa vụ của việc nuôi con nuôi chưa được quy định cụ thể.

  • Giai đoạn từ năm 1959 đến trước khi ban hành Luật Nuôi con nuôi

Từ năm 1959-1986: Kế thừa Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959 tiếp tục quy định “Nhà nước bảo hộ quyền lợi của người mẹ và của trẻ em, bảo đảm phát triển các nhà đỡ đẻ, nhà giữ trẻ và vườn trẻ” (Điều 24). Thực hiện Điều 24 Hiến pháp năm 1959, ngày 29/12/1959 Quốc hội đã thông qua Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 quy định về chế độ nuôi con nuôi, theo đó việc nhận nuôi con nuôi phải được Uỷ ban hành chính cơ sở nơi trú quán của người nuôi hoặc của đứa trẻ công nhận và ghi vào sổ hộ tịch (Điều 24). Tòa án nhân dân có thể huỷ bỏ việc công nhận ấy, khi bản thân người con nuôi hoặc bất cứ người nào, tổ chức nào yêu cầu, vì lợi ích của người con nuôi. Con nuôi có quyền lợi và nghĩa vụ như con đẻ. Thủ tục công nhận việc nuôi con nuôi được quy định trong Nghị định số 04/CP ngày 16/01/1961 và Thông tư số 05/NV ngày 21/01/1961 của Bộ Nội vụ hướng dẫn thi hành Điều lệ đăng ký hộ tịch mới. Mặc dù quy định còn khá sơ sài, nhưng điều luật đã thể hiện tư tưởng cơ bản nhất đó là việc nuôi con nuôi phải “vì lợi ích của người con nuôi”. Khóa luận: Pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi.

Từ năm 1986 – 2000: Trên tinh thần kế thừa Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 và Pháp lệnh ngày 14/11/1979 về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, đồng thời cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ đã chấm dứt nhưng vẫn còn để lại hậu quả là nhiều trẻ em bị mồ côi cha mẹ. Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 đã phát triển Điều 24 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 thành một chương gồm 6 điều (Chương VI từ Điều 34 đến Điều 39) quy định về nuôi con nuôi, gồm: mục đích, điều kiện, đăng ký việc nuôi con nuôi, hệ quả pháp lý và chấm dứt việc nuôi con nuôi. Các quy định này tuy chưa được đầy đủ, nhưng đã thể hiện một cách hệ thống, rành mạch, rõ ràng về những vấn đề cần điều chỉnh trong quan hệ nuôi con nuôi.

  • Nuôi con nuôi được xây dựng là một chế định độc lập trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986.

Đến ngày 10/10/1998, Chính phủ ban hành Nghị định số 83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998 về đăng ký hộ tịch quy định trình tự, thủ tục đăng ký nhận nuôi con nuôi. Liên quan đến vấn đề nuôi con nuôi, Pháp lệnh thừa kế năm 1990 và Bộ luật dân sự đầu tiên của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội thông qua ngày 28/10/1995 có hiệu lực từ ngày 01/7/1996 quy định cha nuôi, mẹ nuôi và con nuôi thuộc hàng thừa kế thứ nhất. Ngoài ra, Bộ luật dân sự năm 1995 còn có quy định con nuôi (cháu) cũng được hưởng di sản mà cha nuôi hoặc mẹ nuôi được hưởng nếu còn sống trong trường hợp cha nuôi hoặc mẹ nuôi chết trước hoặc chết cùng thời điểm người để lại di sản (thừa kế thế vị).

Từ năm 2000 – 2010: Tiếp tục kế thừa và phát huy các quy định về nuôi con nuôi trong các văn bản trước, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã quy định khá đầy đủ về nuôi con nuôi trong Chương VIII gồm 12 điều từ Điều 67 đến Điều 78. Điều kiện, trình tự, thủ tục nuôi con nuôi ở trong nước (công dân Việt Nam nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi) đều được quy định trong các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, như: Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Hôn nhân và gia đình quy định việc xác định dân tộc của con nuôi; Nghị định số 32/2002/NĐ-CP ngày 27/03/2002 quy định việc áp dụng Luật Hôn nhân và gia đình đối với các dân tộc thiểu số hướng dẫn đăng ký nuôi con nuôi đối với đồng bào dân tộc thiểu số; Điểm 3 phần II của Thông tư số 01/2008/TT-BTP ngày 02/6/2008 của Bộ Tư pháp hướng dẫn thực hiện một số quy định của Nghị định số 158/2005/NĐ-CP.

Bên cạnh đó, Bộ luật dân sự năm 2005 vẫn tiếp tục quy định cha mẹ nuôi và con nuôi được thừa kế di sản của nhau và ở hàng thừa kế thứ nhất. Ngoài ra, Bộ luật dân sự năm 2005 quy định cha nuôi, mẹ nuôi có quyền thay đổi họ tên cho con nuôi và ngược lại người con nuôi hoặc cha đẻ, mẹ đẻ có quyền yêu cầu lấy lại họ, tên mà cha đẻ, mẹ đẻ đã đặt khi thôi không làm con nuôi nữa (Điểm b Khoản 1 Điều 27); quyền xác định lại theo dân tộc của cha đẻ, mẹ đẻ trong trường hợp làm con nuôi của người thuộc dân tộc khác mà được xác định theo dân tộc của cha nuôi, mẹ nuôi do không biết cha đẻ, mẹ đẻ là ai (Điểm b Khoản 2 Điều 28). [5] Khóa luận: Pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi.

Trong khoảng thời gian từ năm 2000 đến năm 2005, Việt Nam đã ký kết 09 Hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi với 09 quốc gia là Pháp, Đan Mạch, Italia, Ailen, Thụy Điển, Hoa Kỳ, Canada, Thụy Sỹ, Tây Ban Nha. Do đó, một số quy định trong Nghị định số 68/2002/NĐ-CP đã không còn phù hợp vì vậy ngày 21/7/2006 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 69/2006/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 68/2002/NĐ-CP. Nghị định đã quy định rõ hơn, đầy đủ hơn nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi, đối tượng trẻ em Việt Nam được giải quyết làm con nuôi người nước ngoài; sửa đổi, bổ sung về hồ sơ của trẻ em được nhận nuôi; về thủ tục giải quyết việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Tiếp đó, Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 08/2006/TT-BTP ngày 08/12/2006 hướng dẫn thực hiện một số quy định về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài còn được điều chỉnh qua các Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý và Hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi giữa nước ta với các nước.

Nhìn chung, hệ thống pháp luật về nuôi con nuôi trước khi Luật Nuôi con nuôi được ban hành được quy định tản mát trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau (pháp luật về dân sự, hôn nhân gia đình, quốc tịch, hộ tịch…), mỗi văn bản quy định một vấn đề của nuôi con nuôi (nguyên tắc và điều kiện cho nhận con nuôi được quy định trong Luật Hôn nhân và gia đình, trình tự, thủ tục đăng ký nuôi con nuôi được quy định trong các nghị định về hôn nhân gia đình và quản ký hộ tịch; quyền thừa kế, quyền nhân thân của con nuôi được quy định trọng Bộ luật dân sự, pháp luật về thừa kế, Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em… như vậy, thiếu tính thống nhất, dàn trải, dễ bị chồng chéo, mâu thuẫn, gây khó khăn cho việc tiếp cận và áp dụng pháp luật điều chỉnh việc nuôi con nuôi. Là kẽ hở để những cá nhân, hoặc các cơ sở nuôi dưỡng lợi dụng để trục lợi.

2.1.4 Giai đoạn từ khi ban hành Luật nuôi con nuôi đến nay Khóa luận: Pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi.

Ngày 17/6/2010 Quốc hội đã thông qua Luật Nuôi con nuôi, từ ngày 01/01/2011 việc nuôi con nuôi được thực hiện theo quy định của Luật Nuôi con nuôi. Luật Nuôi con nuôi được ban hành đã tạo khuôn khổ pháp lý thống nhất, ổn định, điều chỉnh thống nhất mọi vấn đề liên quan đến nuôi con nuôi, cả nuôi con nuôi trong nước và nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài trong một đạo luật.

Ngay sau khi Luật Nuôi con nuôi có hiệu lực thi hành, ngày 21/3/2011 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 19/2011/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật; Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 12/2011/TT-BTP ngày 27/6/2011 ban hành và hướng dẫn việc ghi chép, lưu trữ, sử dụng biểu mẫu nuôi con nuôi và Thông tư số 21/2011/TT-BTP ngày 21/11/2011 về việc quản lý văn phòng con nuôi nước ngoài tại Việt Nam; Bộ Tài chính và Bộ Tư pháp ban hành Thông tư liên tịch số 146/2012/TTLT-BTC-BTP ngày 07/9/2012 quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ trong lĩnh vực nuôi con nuôi từ nguồn thu lệ phí đăng ký nuôi con nuôi, lệ phí cấp, gia hạn, sửa đổi giấy phép của tổ chức con nuôi nước ngoài, chi phí giải quyết nuôi con nuôi nước ngoài; Chính phủ ban hành Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, Hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã quy định các hành vi vi phạm và mức xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực nuôi con nuôi (Điều 50, Điều 51).

Về quyền và nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ cha mẹ nuôi và con nuôi được quy định tại Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014: quyền và nghĩa vụ về nhân thân (khoản 2, khoản 4 Điều 69, Điều 70, khoản 1 Điều 71, Điều 72, Điều 73); quyền và nghĩa vụ về tài sản giữa cha mẹ nuôi và con nuôi (Điều 74, Điều 75, Điều 76, Điều 77). Trình tự, thủ tục đăng ký thay đổi họ, tên, chữ đệm của con nuôi; việc bổ sung, thay đổi thông tin về cha, mẹ trong nội dung khai sinh đã đăng ký sau khi được nhận làm con nuôi theo quy định của Luật nuôi con nuôi (Điều 26, Điều 27, Điều 28 Luật hộ tịch năm 2014).

Qua 08 năm thi hành Luật Nuôi con nuôi và Nghị định số 19/2011/NĐCP đã bộc lộ bất cập trong việc thực hiện trình tự, thủ tục đăng ký nuôi con nuôi. Do vậy, ngày 05/3/2019 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 24/2019/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 19/2011/NĐ-CP. Nghị định số 24/2019/NĐ-CP đã đơn giản hoá thủ tục hành chính cho người dân khi đi đăng ký việc nuôi con nuôi trong nước như mở rộng thẩm quyền theo hướng lựa chọn nơi cư trú của người nhận con nuôi hoặc của người được nhận con nuôi để thực hiện thủ tục này. Khóa luận: Pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi.

Ngoài các văn bản pháp luật nêu trên, để việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài được thực hiện thuận lợi về thủ tục và đạt được mục đích nhân đạo là tìm mái ấm gia đình cho trẻ em không nơi nương tựa, đến nay Việt Nam đã ký kết Hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi với 14 quốc gia bao gồm: Cộng hòa Ai – len, Vương quốc Bỉ, Ca – na- da, Vương quốc Đan Mạch, Cộng hòa liên bang Đức, Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, Cộng hòa Italia, Đại công quốc Lúc – xăm – bua, Cộng hòa Man – ta, Vương quốc Na – uy, Cộng hòa Pháp, Vương quốc Tây Ban Nha, Vương quốc Thụy Điển, Liên bang Thụy Sỹ . Việt Nam tiếp tục duy trì quan hệ hợp tác với các nước vừa là thành viên Công ước La Hay số 33 vừa là nước có quan hệ hợp tác song phương với Việt Nam như Pháp, Thụy Sỹ, Đan Mạch, I-ta-li-a và Tây Ban Nha; và các nước đã có văn kiện thỏa thuận hợp tác trên cơ sở Công ước La Hay số 33 như Ca-na-da, Ai-len, Cộng đồng Bỉ Hà Lan ngữ, Cộng đồng Bỉ Pháp ngữ; Hoa Kỳ, Đức, Na Uy, Thụy Điển, Lúc-xăm-bua và Man-ta.

Ngoài hoạt động hợp tác trên cơ sở điều ước và thỏa thuận quốc tế, Bộ Tư pháp còn hợp tác chặt chẽ với các nước như Anh, Niu Di – lân, Ô – xtrây – li – a, Hung – ga – ri, Áo, Nhật Bản. Đây là những nước có công dân nhận trẻ em Việt Nam thuộc diện con riêng, cháu ruột làm con nuôi.

Như vậy, từ khi ban hành Luật Nuôi con nuôi thì hệ thống pháp luật điều chỉnh chế định nuôi con nuôi đã tương đối hoàn thiện tạo cơ sở pháp lý đồng bộ, thống nhất, khả thi nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của các cặp vợ chồng trong nước mong muốn có con nuôi; bảo vệ quyền và lợi ích của cha mẹ nuôi, giúp họ ổn định tư tưởng và yên tâm trong việc nuôi dưỡng, chăm sóc con nuôi như con đẻ. Bên cạnh đó, còn thể hiện mối tương quan hài hòa với phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc, pháp luật và sự tôn trọng các cam kết quốc tế của Nhà nước ta đã đưa ra khi tham gia Công ước La Hay; bảo đảm việc nuôi con nuôi được tiến hành trên nguyên tắc nhân đạo, vì lợi ích tốt nhất của trẻ em, hài hòa với nội dung Công ước La Hay về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế. Khóa luận: Pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi.

Việc nhận và nuôi con nuôi ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố. Và sự ảnh hưởng rõ ràng nhất đó là phong tục tập quán và đạo đức truyền thống: Truyền thống vô cùng tốt đẹp của dân tộc ta “lá lành đùm lá rách” luôn được phát huy và sự ủng hộ của xã hội do đó việc nhận trẻ mồ côi, không nơi nương tựa làm con nuôi là việc làm mang tính nhân nhân văn nhân đạo giữ con người với con người. Việc nhận nuôi con nuôi đối với những trường hợp này thể hiện tinh thần tương thân tương ái của người dân Việt Nam. Việt Nam có phong tục nhận nuôi con nuôi theo tập tục nối nòi – tục lệ phổ biến có tính chất đặc trưng ở các đồng bào dân tộc thiểu số. Nối nòi có thể hiểu là sự thay thế người khác bằng một người trong họ hàng của người chết để tiếp tục duy trì quan hệ hôn nhân nhằm duy trì dòng họ, nòi giống “Đối với dân tộc Mường, Thái mà không có con thì họ nhận con của người anh hay em làm con nuôi coi như con đẻ của mình”, “Người Chăm cũng thường nhận nuôi con nuôi là người trong tộc họ, nếu không có thì kiếm người ngoài tộc”. Việc nhận con nuôi trong họ đã trở thành một phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc. Bên cạnh đó, một số người còn có quan niệm nhận con nuôi để lấy phúc hi vọng đem lại may mắn cho gia đình, có thể giảm bớt những điều không may mắn cho gia đình. Quan hệ nuôi con nuôi theo phong tục tập quán, đạo đức truyền thống tồn tại từ lâu trong cộng đồng người dân Việt Nam và đến nay vẫn đang tồn tại, quan hệ này vẫn phát sinh trong cuộc sống hàng ngày mặc dù chưa được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Bên cạnh đó là tình hình thực tế của nước ta: Việt Nam là nước chịu hậu quả nặng nề từ các cuộc chiến tranh để lại, lịch sử phát triển của đất nước ta rất khó khăn, xuất phát điểm thấp chủ yếu là nông nghiệp, điều kiện kinh tế xã hội gặp nhiều khó khăn; việc phát sinh quan hệ nuôi con nuôi có thể do nhiều trường hợp vô sinh, hiếm muộn nên nhận con nuôi để được chăm sóc, nuôi dưỡng con cái; khi phát sinh quan hệ nuôi con nuôi người dân không đi đăng ký có thể do nhiều nguyên nhân. Tuy nhiên, khi đất nước đang ngày càng phát triển, các mối quan hệ xã hội, quan hệ gia đình đang dần có những thay đổi nhất định. Các tranh chấp phát sinh trong gia đình đang ngày càng gia tăng và phức tạp trong cơ chế giải quyết. Việc nuôi con nuôi thực tế do không đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền nên không được pháp luật công nhận và bảo hộ, quyền và lợi ích hợp pháp của cha, mẹ nuôi và con nuôi bị xâm hại. Khi có việc phát sinh từ việc nuôi con nuôi như thừa kế, các tranh chấp giữa con nuôi với gia đình cha, mẹ nuôi (anh chị em nuôi, ông bà nuôi…) đang ngày càng gia tăng. Chính vì lý do này, mà pháp luật về nuôi con nuôi của Việt Nam đã không ngừng hoàn thiện để đảm bảo tốt nhất cho quyền và nghĩa vụ của cả người được nhận nuôi và người nhận nuôi.

2.2 Các nguyên tắc cơ bản về nhận nuôi con nuôi Khóa luận: Pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi.

Nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi là những quan điểm chỉ đạo, thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về việc điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực nuôi con nuôi, có tính định hướng, chỉ đạo và được quán triệt trong toàn bộ các quy phạm pháp luật về nuôi con nuôi cũng như việc thi hành và áp dụng pháp luật về nuôi con nuôi trong thực tiễn.

Các nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi được quy định tại Điều 4 Luật Nuôi con nuôi, được áp dụng cho cả nuôi con nuôi trong nước và nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Các nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi theo quy định của Luật Nuôi con nuôi đã nội luật hóa các nguyên tắc của Công ước La Hay và phát triển những nguyên tắc đó cho phù hợp với đặc điểm văn hóa, xã hội và truyền thống gia đình của Việt Nam.

2.2.1. Nguyên tắc khi giải quyết việc nuôi con nuôi phải tôn trọng quyền trẻ em là được sống trong môi trường gia đình gốc

Đây là một nguyên tắc được thừa nhận chung trong cộng đồng quốc tế.

Gia đình là một đơn vị trung tâm trong đời sống chính trị, xã hội và tôn giáo, là “một hình thức cộng đồng xã hội đặc biệt, được hình thành, duy trì và củng cố trên cơ sở hôn nhân và huyết thống hoặc nuôi dưỡng, giáo dục”. Gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt. [10] Nguyên tắc này cũng được thể hiện rõ nét thông qua quy định về “thứ tự ưu tiên lựa chọn gia đình thay thế” cho trẻ em. Theo đó, nếu trẻ không được cha mẹ đẻ chăm sóc, nuôi dưỡng thì ưu tiên dành cho những người thân trong gia đình, những người có quan hệ huyết thống hoặc nuôi dưỡng với trẻ em như cha dượng, mẹ kế, cô, cậu, dì, chú, bác ruột của người được nhận làm con nuôi. Đây là quy định hoàn toàn mới so với pháp luật về nuôi con nuôi trước đây, nhằm bảo đảm tối đa cơ hội cho trẻ được sống trong gia đình gốc của mình. Khóa luận: Pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi.

2.2.2. Nguyên tắc việc nuôi con nuôi phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người được nhận làm con nuôi và người nhận con nuôi, tự nguyện, bình đẳng, không phân biệt nam nữ, không trái pháp luật và đạo đức xã hội 

Việc nuôi con nuôi phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người được nhận làm con nuôi và người nhận con nuôi. Quyền và lợi ích hợp pháp của con nuôi phải được quan tâm hàng đầu nhưng không phải là duy nhất. Do vậy, pháp luật vừa đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của con nuôi, vừa phải đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của cha mẹ nuôi. Chỉ khi được pháp luật bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của mình thì cha mẹ nuôi mới yên tâm thực hiện đầy đủ trách nhiệm làm cha mẹ đối với con nuôi, và chính điều này mới đảm bảo một cách đầy đủ quyền và lợi ích hợp pháp của con nuôi. Việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cha mẹ nuôi nhằm thiết lập mối quan hệ bền vững, lâu dài và ổn định giữa cha mẹ nuôi với con nuôi, góp phần củng cố, phát triển những tình cảm nhân ái tốt đẹp, yêu thương, đùm bọc trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, tạo nên sự ổn định, bền vững, lành mạnh cho xã hội.

Việc nuôi con nuôi phải được thực hiện tự nguyện, bình đẳng, không phân biệt nam nữ. Đây là nguyên tắc được thừa nhận trong Công ước La Hay: những cá nhân, tổ chức, các cơ quan có thẩm quyền mà việc cho con nuôi cần có sự đồng ý của họ thì họ phải đưa ra sự đồng ý một cách tự nguyện (Điều 4). Đây là sự đồng ý vô điều kiện, không kèm theo bất kỳ một khoản tiền hay bồi thường nào, không bị ảnh hưởng bởi bất kỳ tác động nào. “Tự nguyện” là một trong những nguyên tắc cơ bản trong quá trình giải quyết việc nuôi con nuôi. Sự tự nguyện là yếu tố quan trọng nhất, ảnh hưởng trực tiếp đến thân phận của trẻ em được nhận làm con nuôi, quyết định việc nuôi con nuôi có đúng với bản chất của nó hay không.

Việc nuôi con nuôi không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Việc nuôi con nuôi phải phù hợp với các quy định của pháp luật như không được lợi dụng việc nuôi con nuôi để trục lợi, bóc lột sức lao động, xâm hại tình dục; bắt cóc, mua bán trẻ em; lợi dụng việc cho con nuôi để vi phạm pháp luật về dân số; lợi dụng việc làm con nuôi của thương binh, người có công với cách mạng, người dân tộc thiểu số để hưởng chế độ chính sách ưu đãi của Nhà nước… Việc nuôi con nuôi phải phù hợp với đạo đức, thuần phong mỹ tục, truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Nuôi con nuôi là vấn đề mang tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc, tuy nhiên không phải trường hợp nào pháp luật cũng thừa nhận mối quan hệ này.

2.2.3. Nguyên tắc chỉ cho làm con nuôi người ở nước ngoài khi không thể tìm được gia đình thay thế ở trong nước Khóa luận: Pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi.

Nguyên tắc này được thừa nhận trong các văn kiện pháp lý quốc tế. Lời nói đầu của Công ước La Hay đã “công nhận rằng, nuôi con nuôi quốc tế có lợi là đem lại mái ấm gia đình lâu dài cho trẻ không tìm được một gia đình thích hợp tại nước gốc của mình”. Gia đình gốc luôn được coi là môi trường lý tưởng nhất cho sự phát triển của trẻ em. Vì một số lý do nào đó, trẻ em không được nuôi dưỡng, chăm sóc trong môi trường gia đình gốc, thì cần giúp đỡ tìm cho trẻ gia đình nuôi dưỡng trong nước, lớn lên ngay trên quê hương của mình nếu điều đó vẫn thực hiện được. Con người không chỉ là tổng hòa của các mối quan hệ xã hội mà còn là sự gắn kết của các yếu tố văn hóa, tín ngưỡng, truyền thống lịch sử, tôn giáo và các yếu tố tự nhiên, xã hội khác. Do đó, được trưởng thành ngay trên quê hương, đất nước mình là quyền chính đáng của mỗi con người, việc cho trẻ em ra nước ngoài là điều phải cân nhắc.

Các nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi là những tư tưởng chủ đạo, xuyên suốt quá trình giải quyết việc nuôi con nuôi mà các chủ thể có liên quan phải tuân thủ. Việc thực hiện tốt, đầy đủ các nguyên tắc này sẽ bảo đảm được quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ được nhận làm con nuôi, đồng thời là khung pháp lý nhằm tránh, khắc phục những hiện tượng vi phạm quyền trẻ em trong lĩnh vực nuôi con nuôi.

2.3 Điều kiện nuôi con nuôi

Hiện nay, chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào quy định cụ thể về điều kiện nuôi con nuôi, nhưng có thể hiểu điều kiện nuôi con nuôi là tổng hợp những quy phạm pháp luật do Nhà nước Việt Nam đặt ra mà các bên chủ thể trong quan hệ pháp luật nuôi con nuôi phải tuân thủ để xác lập quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi.

2.3.1. Điều kiện đối với người được nhận làm con nuôi

Người được nhận làm con nuôi phải đáp ứng những điều kiện quy định tại Điều 8 của Luật nuôi con nuôi năm 2010 như sau:

Trẻ em dưới 16 tuổi: Trẻ em là người dưới 16 tuổi do đó để bảo đảm tính thống nhất về độ tuổi trẻ em trong hệ thống pháp luật, Luật nuôi con nuôi quy định trẻ em được nhận làm con nuôi là người dưới 16 tuổi. Quy định về độ tuổi của người được nhận làm con nuôi là trẻ em dưới 16 tuổi nhằm bảo đảm về sự chênh lệch và khoảng cách độ tuổi cần thiết giữa hai thế hệ, bảo đảm được mục đích xác lập quan hệ cha mẹ và con, tạo điều kiện để người được nhận làm con nuôi được trông nom, nuôi dưỡng, giáo dục phù hợp với đạo đức xã hội.

Trường hợp người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi chỉ được nhận làm con nuôi của cha dượng, mẹ kế hoặc cô, cậu, dì, chú, bác ruột: Khi từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi đã có thể tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, nhưng khi thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến bất động sản, động sản phải đăng ký và phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý. Những giao dịch đó là giao dịch lớn và trẻ vẫn chưa đủ chín chắn trong nhận thức để quyết định nên cần có người giám hộ đồng ý và chỉ những người được xem là thân thích nhất với trẻ mới được nhận trẻ làm con nuôi trong trường hợp này để tránh một phần nào đó việc lợi dụng trẻ cho những mục đích không tốt của người nhận nuôi trẻ. Quy định này nhằm mục đích tạo điều kiện cho người được nhận nuôi được sống trong môi trường gia đình gốc, gia đình có mối quan hệ huyết thống hoặc gia đình có quan hệ họ hàng với mình. Khóa luận: Pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi.

Đồng thời, một người chỉ được làm con nuôi của một người độc thân hoặc của cả hai người là vợ chồng. Một gia đình có thể nhận nhiều người con nuôi nhưng một người con nuôi chỉ có thể làm con nuôi của một gia đình mới. Nhà nước khuyến khích việc nhận trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khác làm con nuôi.

2.3.2. Điều kiện đối với người nhận nuôi con nuôi

Người nhận nuôi con nuôi phải có đủ các điều kiện sau đây: Người nhận con nuôi phải có Năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định tại Điều 22, 23, 24 Bộ luật dân sự năm 2015. Điều kiện này thể hiện ý chí của người nhận con nuôi đối với việc nhận con nuôi, nhằm bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục, tạo dựng một mái ấm gia đình đúng nghĩa cho trẻ được nhận làm con nuôi.

Người nhận nuôi hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên: đây là điều kiện về độ tuổi của người nhận con nuôi. Sự chênh lệch độ tuổi giữa người nhận nuôi và con nuôi không chỉ bảo đảm việc người nhận nuôi sẽ có vốn sống, kinh nghiệm chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ nhất định mà việc chênh lệch độ tuổi còn tạo nên khoảng cách thế hệ, giúp hình thành quan hệ gia đình đúng với truyền thống, phong tục, đạo đức xã hội.

Trường hợp cha dượng nhận con riêng của vợ, mẹ kế nhận con riêng của chồng làm con nuôi hoặc cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận cháu làm con nuôi thì không cần chứng minh điều kiện bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục con nuôi. Tuy nhiên, việc miễn điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở cũng dẫn đến những trường hợp không đủ điều kiện đảm bảo để nuôi dưỡng trẻ. Vì vậy, trong trường hợp này, nếu người nhận không đủ điều kiện về kinh tế, sức khỏe, chỗ ở để nuôi dưỡng, chăm sóc trẻ thì việc nhận con nuôi không nên được chấp nhận trừ trường hợp nhận nuôi trẻ từ đủ 09 tuổi trở lên vì trẻ ở tuổi này đã được thể hiện ý chí khi làm con nuôi. Ngoài ra, việc miễn điều kiện này và điều kiện về độ tuổi có được áp dụng với chồng hoặc vợ của cô, dì, chú, bác, cậu ruột nhận cháu làm con nuôi hay không Luật không quy định dẫn đến thực tiễn áp dụng sẽ gặp phải khó khăn, vướng mắc. Khóa luận: Pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi.

Người nhận nuôi có tư cách đạo đức tốt: Tư cách đạo đức của cha mẹ nuôi ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình thành, phát triển nhân cách của trẻ. Cha mẹ không chỉ là tấm gương phản chiếu mà còn là nền tảng tạo nên tính cách, nhân cách của mỗi đứa trẻ. Cho nên, cha mẹ nuôi có tư cách đạo đức tốt sẽ mang đến cho trẻ một mái ấm thực sự, một môi trường sống lành mạnh, an toàn giúp trẻ phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ và nhân cách. Nếu như cha mẹ không có tư cách đạo đức tốt thì đứa trẻ sau này cũng không thể tốt. Đồng thời với quy định này hạn chế việc lợi dụng trẻ vào những mục đích không tốt. Vì vậy, đây là một yếu tố cần thiết đảm bảo cho con nuôi được sống trong môi trường gia đình lành mạnh. Mặc dù đây là một điều kiện cần thiết, tuy nhiên Luật lại không quy định cụ thể tiêu chí nào để xác định một người là “có tư cách đạo đức tốt” mà giới hạn một số trường hợp không được nhận con nuôi theo quy định tại khoản 2 Điều 14 Luật Nuôi con nuôi. Đây là những trường hợp nghiêm trọng, điển hình liên quan đến tư cách đạo đức của một người mà pháp luật bắt buộc phải cấm họ không được nhận nuôi con nuôi để tránh ảnh hưởng xấu, thậm chí nguy hiểm đến con nuôi.

Bên cạnh đó, Luật Nuôi con nuôi cũng cấm ông bà nhận cháu làm con nuôi hoặc anh, chị, em nhận nhau làm con nuôi (Điều 13) để tránh sự đảo lộn thứ bậc trong gia đình, tôn trọng phong tục truyền thống của dân tộc.

Ngoài các điều kiện trên, trường hợp một người độc thân nhận con nuôi sau đó kết hôn thì chồng/vợ người này có được nhận người đó làm con nuôi hay không hoặc trường hợp vợ hoặc chồng chết, người còn lại kết hôn với người khác thì người này có được nhận con nuôi riêng của chồng hoặc vợ hay không Luật cũng chưa quy định.

2.4. Đăng ký nuôi con nuôi Khóa luận: Pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi.

2.4.1. Thẩm quyền đăng ký nhận nuôi con nuôi

Căn cứ theo Điều 9 Luật nuôi con nuôi 2010 quy định về thẩm quyền đăng ký nuôi con nuôi:

  1. Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp xã) nơi thường trú của người được giới thiệu làm con nuôi hoặc của người nhận con nuôi đăng ký việc nuôi con nuôi trong nước.
  2. Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh) nơi thường trú của người được giới thiệu làm con nuôi quyết định việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài; Sở Tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đăng ký việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
  3. Cơ quan đại diện nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài đăng ký việc nuôi con nuôi của công dân Việt Nam tạm trú ở nước ngoài.”

Như vậy, người có nguyện vọng xin nhận con nuôi trong nước mà chưa xác định được trẻ em cần xin làm con nuôi, thì có thể đăng ký nhu cầu với Sở Tư pháp nơi thường trú để Sở Tư pháp giới thiệu.

2.4.2. Hồ sơ nhận nuôi con nuôi Khóa luận: Pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi.

Với mục đích tìm một gia đình thay thế thích hợp nhất cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được nhận làm con nuôi, người nhận con nuôi phải có đủ điều kiện về môi trường gia đình, kinh tế, xã hội của mình bảo đảm việc nuôi con nuôi. Chính vì thế, Luật Nuôi con nuôi quy định Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người nhận con nuôi thường trú có trách nhiệm xác nhận hoàn cảnh gia đình, tình trạng chỗ ở, điều kiện kinh tế của người nhận con nuôi.

Căn cứ Điều 17, 18 Luật con nuôi 2010 quy định chi tiết về hồ sơ của ngừơi nhận con nuôi và hồ sơ của người được giới thiệu làm con nuôi trong nước:

Hồ sơ của người nhận con nuôi gồm có: 1. Đơn xin nhận con nuôi;  2. Bản sao Hộ chiếu, Giấy chứng minh nhân dân hoặc giấy tờ có giá trị thay thế;  3. Phiếu lý lịch tư pháp;  4. Văn bản xác nhận tình trạng hôn nhân; 5. Giấy khám sức khỏe do cơ quan y tế cấp huyện trở lên cấp; văn bản xác nhận hoàn cảnh gia đình, tình trạng chỗ ở, điều kiện kinh tế do Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người nhận con nuôi thường trú cấp, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 14 của Luật này.

Hồ sơ của người được giới thiệu làm con nuôi trong nước gồm có: a) Giấy khai sinh; b) Giấy khám sức khỏe do cơ quan y tế cấp huyện trở lên cấp; c) Hai ảnh toàn thân, nhìn thẳng chụp không quá 06 tháng; d) Biên bản xác nhận do Ủy ban nhân dân hoặc Công an cấp xã nơi phát hiện trẻ bị bỏ rơi lập đối với trẻ em bị bỏ rơi; Giấy chứng tử của cha đẻ, mẹ đẻ hoặc quyết định của Tòa án tuyên bố cha đẻ, mẹ đẻ của trẻ em là đã chết đối với trẻ em mồ côi; quyết định của Tòa án tuyên bố cha đẻ, mẹ đẻ của người được giới thiệu làm con nuôi mất tích đối với người được giới thiệu làm con nuôi mà cha đẻ, mẹ đẻ mất tích; quyết định của Tòa án tuyên bố cha đẻ, mẹ đẻ của người được giới thiệu làm con nuôi mất năng lực hành vi dân sự đối với người được giới thiệu làm con nuôi mà cha đẻ, mẹ để mất năng lực hành vi dân sự; đ) Quyết định tiếp nhận đối với trẻ em ở cơ sở nuôi dưỡng; Cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ lập hồ sơ của người được giới thiệu làm con nuôi sống tại gia đình; cơ sở nuôi dưỡng lập hồ sơ của trẻ em được giới thiệu làm con nuôi sống tại cơ sở nuôi dưỡng.

2.4.3. Thủ tục nhận nuôi con nuôi

Khi đã tiếp nhận hồ sơ của người nhận con nuôi và người được giới thiệu làm con nuôi có đủ điều kiện theo quy định pháp luật thì Ủy ban nhân dân cấp xã tiến hành tổ chức đăng ký nuôi con nuôi. Khi đăng ký nuôi con nuôi, cha mẹ nuôi, cha mẹ đẻ, người giám hộ hoặc đại diện cơ sở nuôi dưỡng và người được nhận làm con nuôi phải có mặt. Công chức tư pháp – hộ tịch ghi vào Sổ đăng ký nuôi con nuôi và trao Giấy chứng nhận nuôi con nuôi cho cha mẹ nuôi, cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ hoặc đại diện cơ sở nuôi dưỡng, tổ chức giao nhận con nuôi trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày có ý kiến đồng ý của những người liên quan. Nếu xét thấy hoặc người nhận con nuôi hoặc người được nhận làm con nuôi không đủ điều kiện theo quy định thì Ủy ban nhân dân cấp xã từ chối đăng ký và phải trả lời bằng văn bản cho người nhận con nuôi, cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ hoặc đại diện cơ sở nuôi dưỡng và nêu rõ lý do trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày có ý kiến của những người liên quan.

Sau khi được công nhận việc nuôi con nuôi kể từ ngày giao nhận con nuôi, cha mẹ nuôi có trách nhiệm thông báo cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi họ thường trú về tình trạng sức khỏe, thể chất, tinh thần, sự hòa nhập của con nuôi với cha mẹ nuôi, gia đình, cộng đồng cứ sáu tháng một lần trong thời hạn 03 năm. Cùng đó Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cha mẹ nuôi thường trú có trách nhiệm kiểm tra, theo dõi tình hình thực hiện việc nuôi con nuôi.

2.5. Hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi Khóa luận: Pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi.

2.5.1. Quan hệ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi

Ngay từ thời điểm quan hệ nuôi con nuôi được xác lập thì giữa cha mẹ nuôi với con nuôi phát sinh quyền và nghĩa vụ theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình. Về quyền nhân thân, cha mẹ có quyền yêu cầu thay đổi họ, tên của con nuôi theo quy định tại khảo 2 Điều 24 Luật nuôi con nuôi và quyền xác định dân tộc của con nuôi. Đối với quyền tài sản: Quyền có tài sản riêng của con (Điều 75 Luật Hôn nhân và gia đình 2014); Quản lý tài sản riêng của con (Điều 76 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014); Định đoạt tài sản riêng của con chưa thành niên, con đã thành niên mất Năng lực hành vi dân sự (Điều 77 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014); Bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của con gây ra (Điều 74 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014); Quyền thừa kế giữa cha mẹ nuôi và con nuôi; Quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng giữa cha mẹ nuôi và con nuôi. Bên cạnh quy định về quyền và nghĩa vụ cha mẹ và con khi quan hệ nuôi con nuôi được xác lập thì pháp luật cũng quy định về Hạn chế quyền của cha mẹ đối với con để nhằm đảm bảo trong mọi trường hợp trẻ em vẫn được ưu tiên bảo vệ, còn quyền và nghĩa vụ của cha mẹ thì phải thực hiện phù hợp với lợi ích của con.

  • Quyền và nghĩa vụ về nhân thân

Theo Luật HNGĐ 2014 trong quan hệ nhân thân của cha mẹ đối với con có các quyền và nghĩa vụ được quy định như sau: “Cha mẹ tạo điều kiện cho con được sống trong môi trường gia đình đầm ấm, hòa thuận; làm gương tốt cho con về mọi mặt, thương yêu con, tôn trọng ý kiến của con để con trở thành người con hiếu thảo của gia đình. Đồng thời cha mẹ có nghĩa vụ chăm lo và tạo điều kiện cho con học tập, phối hợp chặt chẽ với nhà trường, cơ quan, tổ chức trong việc giáo dục con để con phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ, đạo đức. Cha mẹ hướng dẫn con chọn nghề; tôn trọng quyền chọn nghề, quyền tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của con giúp con trở thành công dân có ích cho xã hội. Ngoài ra cha mẹ có thể đề nghị cơ quan, tổ chức hữu quan giúp đỡ để thực hiện việc giáo dục con khi gặp khó khăn không thể tự giải quyết được theo quy định tại Điều 72 Luật Hôn nhân và gia đình 2014; Cha, mẹ có nghĩa vụ và quyền ngang nhau, cùng nhau trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định tại Khoản 2 Điều 69 và Khoản 1 Điều 71 Luật Hôn nhân và gia đình 2014; Cha mẹ là người giám hộ hoặc người đại diện theo pháp luật của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự, trừ trường hợp con có người khác làm giám hộ hoặc có người khác đại diện theo pháp luật; Vì cha mẹ là người giám hộ cho con nên cha hoặc mẹ có quyền tự mình thực hiện giao dịch nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Đối với giao dịch liên quan đến tài sản là bất động sản, động sản có đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng, tài sản đưa vào kinh doanh của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự thì phải có sự thỏa thuận của cha mẹ và cha, mẹ phải chịu trách nhiệm liên đới về việc thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản của con trong những trường hợp trên theo quy định tại Điều 73 Luật Hôn nhân và gia đình 2014; Cha mẹ không được phân biệt đối xử với con về giới tính hoặc theo tình trạng hôn nhân của cha mẹ; nghiêm cấm tình trạng lạm dụng quyền làm cha mẹ của mình để bắt bán sức lao động của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động; không được xúi giục, ép buộc con làm việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội theo quy định tại Khoản 4 Điều 69 Luật Hôn nhân và gia đình 2014.

Quyền và nghĩa vụ về nhân thân của con nuôi với cha nuôi, mẹ nuôi được quy định tại Điều 70 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 như sau: “Con có quyền được cha mẹ thương yêu, tôn trọng, thực hiện các quyền, lợi ích hợp pháp về nhân thân và tài sản theo quy định của pháp luật; được học tập và giáo dục; được phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ và đạo đức; Con có bổn phận yêu quý, kính trọng, biết ơn, hiếu thảo, phụng dưỡng đối với cha mẹ, giữ gìn danh dự, truyền thống tốt đẹp của gia đình; Con có nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ, đặc biệt khi cha mẹ mất năng lực hành vi dân sự, ốm đau, già yếu, khuyết tật; trường hợp gia đình có nhiều con thì các con phải cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ; Con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình thì có quyền sống chung với cha mẹ, được cha mẹ trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc; Con chưa thành niên tham gia công việc gia đình phù hợp với lứa tuổi và không trái với quy định của pháp luật về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em; Con đã thành niên có quyền tự do lựa chọn nghề nghiệp, nơi cư trú, học tập, nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn, nghiệp vụ; tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội theo nguyện vọng và khả năng của mình. Khi sống cùng với cha mẹ, con có nghĩa vụ tham gia công việc gia đình, lao động, sản xuất, tạo thu nhập nhằm bảo đảm đời sống chung của gia đình; đóng góp thu nhập vào việc đáp ứng nhu cầu của gia đình phù hợp với khả năng của mình. Khóa luận: Pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi.

  • Quyền và nghĩa vụ về tài sản

Quyền và nghĩa vụ về tài sản giữa cha nuôi, mẹ nuôi và con nuôi được phát sinh đồng thời với quyền và nghĩa vụ về nhân thân khi mối quan hệ cha mẹ nuôi và con nuôi được xác lập. Quyền có tài sản riêng của con được quy định tại Điều 75 Luật Hôn nhân và gia đình 2014. Dựa trên quy định pháp luật Việt Nam về quyền sở hữu tài sản thì quyền sở hữu tài sản riêng không phân biệt vào độ tuổi cũng như khả năng nhận thức của công dân. Do đó con có quyền có tài sản riêng. Tài sản riêng của con bao gồm: “Tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng; Thu nhập do lao động của con; Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của con và thu nhập hợp pháp khác; Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của con cũng là tài sản riêng của con.” Con có quyền sở hữu tài sản của mình bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản. Tuy nhiên, để thực hiện được các quyền sở hữu của mình thì còn phụ thuộc vào năng lực hành vi dân sự của con (về độ tuổi và năng lực hành vi dân sự). Con từ đủ 15 tuổi đã có quyền tự mình xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự, định đoạt tài sản riêng của mình nhưng nếu con chưa đủ 18 tuổi thì khi thực hiện giao dịch với tài sản có giá trị lớn thì phải có sự đồng ý của cha mẹ nuôi. Bên cạnh quyền được có tài sản riêng thì con từ đủ 15 tuổi trở lên sống chung với cha mẹ phải có nghĩa vụ chăm lo đời sống chung của gia đình; đóng góp vào việc đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình nếu có thu nhập. Con đã thành niên khi sống cùng với cha mẹ, con có nghĩa vụ tham gia công việc gia đình, lao động, sản xuất, tạo thu nhập nhằm bảo đảm đời sống chung của gia đình, đóng góp thu nhập vào việc đáp ứng nhu cầu của gia đình phù hợp với khả năng của mình.

Việc quản lý tài sản riêng của con được quy định tại Điều 76 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 như sau: Con từ đủ 15 tuổi trở lên có thể tự mình quản lý tài sản riêng hoặc nhờ cha mẹ quản lý. Khi con đủ tuổi này đã có thể tự mình tiến hành các giao dịch độc lập. Vì vậy con có thể tự mình quản lý tài sản riêng của mình hoặc nhờ cha mẹ nuôi quản lý thay mình; Tài sản riêng của con dưới 15 tuổi, con mất năng lực hành vi dân sự do cha mẹ quản lý. Cha mẹ có thể ủy quyền cho người khác quản lý tài sản riêng của con. Ở trường hợp này con chưa đủ nhận thức về việc quản lý tài sản của mình nên cần có người thay con quản lý tài sản đó mà người này không ai khác là cha mẹ nuôi, là người giám hộ, người đại diện theo pháp luật của con hoặc ủy quyền cho người khác quản lý. Nhưng cần lưu ý khi con đã đủ tuổi hoặc đã khôi phục năng lực hành vi dân sự đầy đủ thì tài sản riêng của con do cha mẹ hoặc người khác quản lý được giao lại cho con, trừ trường hợp cha mẹ và con có thỏa thuận khác; Trong một số trường hợp cụ thể thì cha mẹ không quản lý tài sản riêng của con như:  Trường hợp con đang được người khác giám hộ theo quy định của Bộ luật dân sự, người tặng cho tài sản hoặc để lại tài sản thừa kế theo di chúc cho người con đã chỉ định người khác quản lý tài sản đó hoặc trường hợp khác theo quy định của pháp luật, Trường hợp cha mẹ đang quản lý tài sản riêng của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự mà con được giao cho người khác giám hộ thì tài sản riêng của con được giao lại cho người giám hộ quản lý theo quy định của Bộ luật dân sự.

Định đoạt tài sản riêng của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự theo quy định tại Điều 77 Luật Hôn nhân và gia đình 2014: “Khi con dưới 15 tuổi thì cha mẹ hoặc người giám hộ quản lý tài sản riêng của con có quyền định đoạt tài sản đó nhưng phải là vì lợi ích của con, nếu con từ đủ 09 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con. Con từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi có quyền tự quản lý tài sản của mình thì con cũng có quyền định đoạt tài sản riêng, trừ trường hợp tài sản là bất động sản, động sản có đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng hoặc dùng tài sản để kinh doanh thì phải có sự đồng ý bằng văn bản của cha mẹ hoặc người giám hộ. Trong trường hợp con đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự thì việc định đoạt tài sản riêng của con do người giám hộ thực hiện.” Khóa luận: Pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi.

Bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của con gây ra theo quy định tại Điều 74 Luật Hôn nhân và gia đình 2014: “Cha mẹ phải bồi thường thiệt hại do con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự gây ra theo quy định của Điều 586 Bộ luật dân sự 2015 như sau: Người chưa đủ mười lăm tuổi gây thiệt hại thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu; Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình; Người từ đủ mười tám tuổi trở lên gây thiệt hại thì phải tự bồi thường. Ngoài ra Bộ luật dân sự còn quy định tại Điều 599: Người chưa đủ mười lăm tuổi trong thời gian trường học trực tiếp quản lý mà gây thiệt hại thì trường học phải bồi thường thiệt hại xảy ra.  Người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại cho người khác trong thời gian bệnh viện, pháp nhân khác trực tiếp quản lý thì bệnh viện, pháp nhân khác phải bồi thường thiệt hại xảy ra. Nhưng nếu Trường học, bệnh viện, pháp nhân khác chứng minh được mình không có lỗi trong quản lý; trong trường hợp này thì không phải bồi thường, cha, mẹ, người giám hộ của người dưới mười lăm tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự phải bồi thường.”

2.5.2 Quan hệ giữa con nuôi với các thành viên khác trong gia đình cha mẹ nuôi

Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã quy định rất cụ thể về những vấn đề phát sinh quyền và nghĩa vụ khi quan hệ nhận và nuôi con nuôi hình thành. Về quan hệ giữa con nuôi với cha mẹ đẻ của cha mẹ nuôi: Trong mối quan hệ này, cha mẹ đẻ của cha mẹ nuôi với nguời con nuôi sẽ có mối quan hệ ông bà và cháu theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình, giữa họ sẽ có quyền và nghĩa vụ đối với nhau theo Điều 103, Điều 104 Luật này. Do vậy, nghĩa vụ cấp dưỡng giữa người con nuôi với cha mẹ đẻ của người nhận nuôi cũng xuất hiện căn cứ theo Điều 107, Điều 113 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Quan hệ giữa con nuôi với các con đẻ của cha mẹ nuôi:  Giữa con nuôi với các các con đẻ của người nhận nuôi sẽ là mối quan hệ giữa các thành viên gia đình với nhau theo quy định tại Điều 103 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Quan hệ giữa con nuôi với anh, chị, em ruột của cha mẹ nuôi: Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: Cô, dì, chú, cậu, bác ruột và cháu ruột có quyền, nghĩa vụ thương yêu, chăm sóc, giúp đỡ nhau; có quyền, nghĩa vụ nuôi dưỡng nhau trong trường hợp người cần được nuôi dưỡng không còn cha, mẹ, con và những người được quy định tại Điều 104 và Điều 105 hoặc còn nhưng những người này không có điều kiện để thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng.

2.5.3. Quan hệ giữa cha mẹ đẻ với con đã làm con nuôi

  • Quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đẻ với con đã cho làm con nuôi khi không có sự thỏa thuận giữa cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi  Khóa luận: Pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi.

Về nguyên tắc, kể từ ngày giao nhận con nuôi, cha mẹ đẻ không còn quyền, nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, cấp dưỡng, đại diện theo pháp luật, bồi thường thiệt hại, quản lý, định đoạt tài sản riêng đối với con đã cho làm con nuôi. Tuy nhiên, quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ đẻ và con đã cho làm con nuôi còn tùy thuộc vào sự thỏa thuận giữa cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi khi xác lập việc nuôi con nuôi.

Trừ trường hợp giữa cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi có thỏa thuận khác, kể từ ngày giao nhận con nuôi, cha mẹ đẻ không còn quyền, nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, cấp dưỡng, đại diện theo pháp luật, bồi thường thiệt hại, quản lý, định đoạt tài sản riêng đối với con đã cho làm con nuôi”. Như vậy, nếu giữa cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi không có thỏa thuận gì thì giữa cha mẹ đẻ và con đã cho làm con nuôi không còn nghĩa vụ và quyền của cha mẹ đối với con theo quy định tại các Điều 69, 71, 72, 73, 74, 76, 77, 110 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Con đã cho làm con nuôi cũng sẽ không có quyền và nghĩa vụ đối với cha mẹ theo quy định tại Điều 70, 71, 111 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Theo quy định tại Điều 653 Bộ luật dân sự năm 2015 thì “Con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 651 và Điều 652 của Bộ luật này”. Theo luật định, người con nuôi vừa được hưởng di sản thừa kế của cha mẹ đẻ, vừa được hưởng di sản thừa kế của cha mẹ nuôi.

  • Quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đẻ với con đã cho làm con nuôi khi không có sự thỏa thuận giữa cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi 

Cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi có quyền thỏa thuận với nhau về các quyền và nghĩa vụ làm cha mẹ đối với con. Sự thỏa thuận của cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi về việc có chấm dứt quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ đẻ với con: Trường hợp cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi thỏa thuận chấm dứt toàn bộ quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ đẻ và con đã đi làm con nuôi thì ngày sau khi con nuôi đã xác lập quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi với gia đình mới, các quyền và nghĩa vụ mới của con nuôi phát sinh với cha mẹ nuôi, chấm dứt toàn bộ quyền và nghĩa vụ kể cả quan hệ thừa kế giữa cha mẹ đẻ và con đã đi làm con nuôi; Trường hợp cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi thỏa thuận chấm dứt một số quyền và nghĩa vụ nhất định của con đã đi làm con nuôi với gia đình cha mẹ đẻ thì những quyền và nghĩa vụ không thỏa thuận chấm dứt sẽ vẫn tồn tại và được thực hiện trên thực tế; Trường hợp cha mẹ nuôi và cha mẹ đẻ thỏa thuận giữ nguyên toàn bộ quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ đẻ và con đã đi làm con nuôi thì quyền và nghĩa vụ của các bên không thay đổi. Có thể thấy, pháp luật tôn trọng ý chí của cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi trong việc xác định quyền và nghĩa vụ của con nuôi.

2.6 Chấm dứt của việc nuôi con nuôi Khóa luận: Pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi.

2.6.1 Căn cứ pháp lý về chấm dứt việc nuôi con nuôi

Kế thừa và phát triển quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 về căn cứ chấm dứt việc nuôi con nuôi, Luật Nuôi con nuôi đã quy định cụ thể hơn tại Điều 25 nhằm bảo vệ quyền lợi của các bên khi thiết lập quan hệ nuôi con nuôi nên pháp luật cho phép được chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi.

Việc chấm dứt nuôi con nuôi chỉ được thực hiện trong các trường hợp luật quy định:  Con nuôi đã thành niên và cha mẹ nuôi tự nguyện chấm dứt việc nuôi con nuôi theo quy định tại khoản 1 Điều 25 Luật Nuôi con nuôi; Con nuôi bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của cha mẹ nuôi; ngược đãi, hành hạ cha mẹ nuôi hoặc con nuôi có hành vi phá tán tài sản của cha mẹ nuôi theo quy định tại khoản 2 Điều 25 Luật Nuôi con nuôi; Cha mẹ nuôi bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con nuôi; ngược đãi, hành hạ con nuôi theo quy định tại khoản 3 Điều 25 Luật Nuôi con nuôi;  Vi phạm quy định tại Điều 13 Luật Nuôi con nuôi. Điều 13 Luật Nuôi con nuôi về các hành vi bị nghiêm cấm trong lĩnh vực nuôi con nuôi và toàn bộ các quy định này được Điều 25 viện dẫn, coi là căn cứ chấm dứt việc nuôi con nuôi. Cụ thể Điều 13 cấm các hành vi sau đây: “Lợi dụng việc nuôi con nuôi để trục lợi, bóc lột sức lao động, xâm hại tình dục; bắt cóc, mua bán trẻ em; Giả mạo giấy tờ để giải quyết việc nuôi con nuôi; Phân biệt đối xử giữa con đẻ và con nuôi; Lợi dụng việc cho con nuôi để vi phạm pháp luật về dân số; Lợi dụng việc làm con nuôi của thương bình, người có công với cách mạng, người thuộc dân tộc thiểu số để hưởng chế độ, chính sách ưu đãi của Nhà nước; Ông, bà nhận cháu làm con nuôi hoặc anh, chị, em nhận nhau làm con nuôi; Lợi dụng việc nuôi con nuôi để vi phạm pháp luật, phong tục tập quán, đạo đức, truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc.

Các hành vi nói trên là trái pháp luật và trái đạo đức xã hội, chính vì thế việc áp dụng một chế tài đối với việc nhận và nuôi con nuôi đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước là vô cùng cần thiết nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của các cá nhân liên quan, lợi ích của gia đình và xã hội.

2.6.2. Thủ tục chấm dứt việc nuôi con nuôi Khóa luận: Pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi.

Giải quyết chấm dứt việc nuôi con nuôi được giải quyết theo thủ tục giải quyết việc dân sự và yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi được coi là việc dân sự không có tranh chấp giữa các bên nên không tiến hành hòa giải.

Để giải quyết việc chấm dứt việc nuôi con nuôi, người có yêu cầu cần nộp đơn yêu cầu giải quyết việc chấm dứt nuôi con nuôi đến Tòa án nhân dân cấp quận, huyện, thành phố nơi cha, mẹ nuôi hoặc con nuôi cư trú, làm việc để giải quyết. Đơn yêu cầu tòa án giải quyết việc dân sự được quy định tại Điều 362 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Sau khi nhận đơn nếu đủ điều kiện thụ lý, Tòa án sẽ tiến hành mở phiên tòa giải quyết việc dân sự: Tòa án sẽ ra quyết định về việc giải quyết chấm dứt việc nuôi con nuôi, người yêu cầu giải quyết việc dân sự nộp lệ phí, án phí theo quy định của pháp luật. Nếu cha nuôi, mẹ nuôi, con nuôi, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham dự phiên tòa giải quyết việc nuôi con nuôi không có kháng cáo với quyết định của tòa cho chấm dứt việc nuôi con nuôi, thì quyết định của tòa án sẽ có hiệu lực pháp luật. Yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi là một trong những yêu cầu về Hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Khi giải quyết yêu cầu này, Tòa án có chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của đương sự thì phải căn cứ vào quy định tại Điều 25 Luật Nuôi con nuôi.

2.6.3. Hậu quả chấm dứt việc nuôi con nuôi

Căn cứ theo Điều 27 Luật Nuôi con nuôi đã có những quy định khá cụ thể về hệ quả của việc chấm dứt nuôi con nuôi. Khi quan hệ nuôi con nuôi được xác lập về nguyên tắc các quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi sẽ phát sinh, bao gồm quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản. Khi có căn cứ chấm dứt việc nuôi con nuôi và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết cho chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi thì hệ quả pháp lý quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi chấm dứt; các quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ đẻ và con đẻ được khôi phục: “Quyền, nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi chấm dứt kể từ ngày quyết định chấm dứt nuôi con nuôi của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Khi chấm dứt việc nuôi con nuôi theo quyết định của Tòa án thì các quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi cũng chấm dứt.

Xét về nhân thân: Nếu con nuôi đã thành niên thì tự mình sẽ tự quyết định mọi vấn đề liên quan đến cuộc sống của mình mà không cần phụ thuộc vào bất kỳ ai. Còn trường hợp con nuôi là người chưa thành niên hoặc đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động thì Tòa án quyết định giao cho cha mẹ đẻ hoặc tổ chức, cá nhân khác chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục vì lợi ích tốt nhất của người đó. Và con nuôi có quyền lấy lại họ, tên của mình như trước khi được cho làm con nuôi. Sau khi được nhận làm con nuôi thì cha mẹ nuôi có thể thay đổi họ tên của con nuôi thì sau khi chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi thì con đã thành niên hoặc cha mẹ ruột của con chưa thành niên có quyền giữ lại họ tên mà cha mẹ nuôi đã đặt cho mình hoặc đổi lại họ tên do cha mẹ ruột đã đặt cho mình.

Trường hợp con nuôi được giao cho cha mẹ đẻ thì các quyền, nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, cấp dưỡng, đại diện theo pháp luật, bồi thường thiệt hại, quản lý, định đoạt tài sản riêng đối với con đã cho làm con nuôi của cha mẹ đẻ đã chấm dứt theo quy định được khôi phục.

Xét về tài sản: Trường hợp con nuôi có tài sản riêng thì được nhận lại tài sản đó; nếu con nuôi có công lao đóng góp vào khối tài sản chung của cha mẹ nuôi thì được hưởng phần tài sản tương xứng với công lao đóng góp theo thỏa thuận với cha mẹ nuôi; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết theo pháp luật dân sự.”

2.7. Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài Khóa luận: Pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi.

2.7.1 Các trường hợp nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài

Theo pháp  luật Việt Nam quy định thì người xin nhận con nuôi phải thường trú ở những nước là thành viên của điều ước quốc tế về hợp tác nuôi con nuôi với Việt Nam. Cụ thể, Điều 28 Luật nuôi con nuôi 2010 về Các trường hợp nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài như sau: “1. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở nước cùng là thành viên của điều ước quốc tế về nuôi con nuôi với Việt Nam nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi; 2. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở nước ngoài được nhận con nuôi đích danh trong các trường hợp sau đây: a) Là cha dượng, mẹ kế của người được nhận làm con nuôi; b) Là cô, cậu, dì, chú, bác ruột của người được nhận làm con nuôi;  c) Có con nuôi là anh, chị, em ruột của trẻ em được nhận làm con nuôi; d) Nhận trẻ em khuyết tật, nhiễm HIV/AIDS hoặc mắc bệnh hiểm nghèo khác làm con nuôi; đ) Là người nước ngoài đang làm việc, học tập ở Việt Nam trong thời gian ít nhất là 01 năm; 3. Công dân Việt Nam thường trú ở trong nước nhận trẻ em nước ngoài làm con nuôi.”

2.7.2 Điều kiện đối với người nhận con nuôi

Đối với người nhận nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, điều kiện của người nhận con nuôi phải đáp ứng được: “1. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở nước ngoài nhận người Việt Nam làm con nuôi phải có đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật nước nơi người đó thường trú và quy định tại Điều 14 của Luật này; 2. Công dân Việt Nam nhận người nước ngoài làm con nuôi phải có đủ các điều kiện theo quy định tại điều 14 của Luật này và pháp luật của nước nơi người được nhận làm con nuôi thường trú.” Chỉ khi đáp ứng được các điều kiện trên theo Điều 29 Luật nuôi con nuôi năm 2010 thì mới được nhận và nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.

2.7.3 Hồ sơ của người nhận con nuôi Khóa luận: Pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi.

Khi đã đủ điều kiện nhận nuôi con nuôi thì người nhận nuôi con nuôi cần chuẩn bị hồ sơ để tiến hành thủ tục nhận nuôi con nuôi. Hồ sơ của người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở nước ngoài nhận người Việt Nam làm con nuôi phải có các giấy tờ, tài liệu sau đây: “1. Hồ sơ của người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở nước ngoài nhận người Việt Nam làm con nuôi phải có các giấy tờ, tài liệu sau đây: a) Đơn xin nhận con nuôi; b) Bản sao Hộ chiếu hoặc giấy tờ có giá trị thay thế; c) Văn bản cho phép được nhận con nuôi ở Việt Nam; d) Bản điều tra về tâm lý, gia đình; đ) Văn bản xác nhận tình trạng sức khỏe; e) Văn bản xác nhận thu nhập và tài sản; g) Phiếu lý lịch tư pháp; h) Văn bản xác nhận tình trạng hôn nhân; i) Tài liệu chứng minh thuộc trường hợp được xin đích danh quy định tại khoản 2 Điều 28 của Luật này; 2. Các giấy tờ, tài liệu quy định tại điểm b, c, d, đ, e, g và h khoản 1 điều này do cơ quan có thẩm quyền của nước nơi người nhận con nuôi thường trú lập, cấp hoặc xác nhận. 3. Hồ sơ của người nhận con nuôi được lập thành 02 bộ và nộp cho Bộ Tư pháp thông qua cơ quan trung ương về nuôi con nuôi của nước nơi người nhận con nuôi thường trú; trường hợp nhận con nuôi đích danh quy định tại Khoả 2 Điều 28 của Luật này thì người nhận con nuôi có thể trực tiếp nộp hồ sơ cho Bộ Tư pháp.”

Giấy tờ, tài liệu trong hồ sơ của người nhận con nuôi, hồ sơ của tổ chức con nuôi nước ngoài do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài lập, cấp hoặc xác nhận phải được hợp pháp hoá lãnh sự khi sử dụng ở Việt Nam, trừ trường hợp được miễn hợp pháp hóa lãnh sự theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc theo nguyên tắc có đi có lại.

2.7.4 Hồ sơ của người được giới thiệu làm con nuôi nước ngoài

Hồ sơ của trẻ em được giới thiệu làm con nuôi nước ngoài do cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ lập đối với trẻ em sống tại gia đình; do cơ sở nuôi dưỡng lập đối với trẻ em sống tại cơ sở nuôi dưỡng. Căn cứ Luật nuôi con nuôi 2010 quy định tại Điều 32 về hồ sơ của người được giới thiệu làm con nuôi nươc ngoài thì: “1. Hồ sơ của người được giới thiệu làm con nuôi nước ngoài gồm có: a) Các giấy tờ, tài liệu quy định tại khoản 1 Điều 18 của Luật này; b) Văn bản về đặc điểm, sở thích, thói quen đáng lưu ý của trẻ em; c) Tài liệu chứng minh đã thực hiện việc tìm gia đình thay thế trong nước cho trẻ em theo quy định tại khoản 2 điều 15 của Luật này nhưng không thành. 2. Hồ sơ quy định tại khoản 1 điều này được lập thành 03 bộ và nộp cho Sở Tư pháp nơi người được giới thiệu làm con nuôi thường trú. 3. Cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ lập hồ sơ của người được giới thiệu làm con nuôi sống tại gia đình; cơ sở nuôi dưỡng lập hồ sơ của trẻ em được giới thiệu làm con nuôi sống tại cơ sở nuôi dưỡng.”

2.7.5 Trình tự, thủ tục nhận nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài Khóa luận: Pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi.

Từ Luật hôn nhân và gia đình năm 1986, 2000 cho tới Luật Nuôi con nuôi, việc đăng ký nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi thường trú của trẻ em được cho làm con nuôi, trường hợp trẻ em ở cơ sở nuôi dưỡng được nhận làm con nuôi, thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi có trụ sở nuôi dưỡng ra quyết định cho trẻ em đó làm con nuôi. Sở Tư pháp thực hiện đăng ký việc nuôi con nuôi nước ngoài sau khi có quyết định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Thẩm quyền đăng ký nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài mang tính ổn định và được kế thừa qua các giai đoạn phát triển của pháp luật về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, phù hợp với thông lệ quốc tế.

Trình tự, thủ tục đăng ký việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài bảo đảm tuân thủ các nguyên tắc ưu tiên cho trẻ em được nhận làm con nuôi trong nước, vì lợi ích tốt nhất của trẻ em và nuôi con nuôi nước ngoài là giải pháp cuối cùng khi không tìm được gia đình thay thế trong nước. Nghị định số 24/2019/NĐ-CP đã bãi bỏ việc giải quyết nuôi con nuôi nước ngoài theo danh sách 1 và danh sách 2, không phân biệt tình trạng sức khỏe của trẻ em. Việc giải quyết việc nuôi con nuôi nước ngoài được thực hiện theo thủ tục giới thiệu trẻ em (matching) theo Điều 36 của Luật nuôi con nuôi nhằm bảo đảm trẻ em ưu tiên nuôi con nuôi trong nước trước khi giải quyết nuôi con nuôi nước ngoài và thủ tục nhận con nuôi đích danh ở các cơ sở nuôi dưỡng (chỉ những trẻ em mắc bệnh hiểm nghèo và khuyết tật theo khoản 1 Điều 3 của Nghị định số 19/2011/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 24/2019/NĐ-CP, đủ điều kiện pháp lý mới được giải quyết đích danh làm con nuôi nước ngoài. Những trẻ em mắc bệnh tật hoặc khuyết tật không thuộc khoản 1 Điều 3 được giải quyết theo thủ tục giới thiệu trẻ em).

Đối với giải quyết các trường hợp con riêng, cháu ruột cho làm con nuôi nước ngoài, người nước ngoài sinh sống, làm việc ở Việt Nam từ trên 01 năm trở lên Khóa luận: Pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi.

Sau khi nhận được hồ sơ của người nhận con nuôi đã được Cục Con nuôi thẩm định và chấp thuận, Sở Tư pháp tiến hành thủ tục xác nhận trẻ em đủ điều kiện làm con nuôi nước ngoài; chuyển văn bản xác nhận trẻ em đủ điều kiện kèm theo hồ sơ trẻ em, văn bản lấy ý kiến của cha, mẹ đẻ hoặc người giám hộ và ý kiến của trẻ em từ đủ chín tuổi trở lên về việc đồng ý cho trẻ em làm con nuôi.

Cục Con nuôi kiểm tra kết quả giải quyết việc nuôi con nuôi nước ngoài theo quy định tại khoản 8 Điều 1 của Nghị định số 24/2019/NĐ-CP và tiến hành thủ tục thông báo cho Cơ quan trung ương về nuôi con nuôi quốc tế của nước ngoài để có được ý kiến chấp thuận theo Điều 17c Công ước La Hay. Đối với những nước không phải là thành viên Công ước La Hay, Cục Con nuôi đề nghị cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cấp ý kiến đồng ý cho phép trẻ em nhập cảnh cùng cha mẹ nuôi.

Pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi của nước ta thể hiện tinh thần nhân đạo sâu sắc, hướng tới bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên trong quan hệ nuôi con nuôi, đặc biệt là lợi ích của trẻ em được nhận làm con nuôi. Pháp luật nuôi con nuôi điều chỉnh một quá trình từ việc xác lập, thực hiện và có thể chấm dứt việc nuôi con nuôi.. Nhà nước tạo mọi điều kiện để các bên trong quan hệ nuôi con nuôi thực hiện được các quyền và nghĩa vụ đó của mình, nhằm bảo đảm sự ổn định cuộc sống của các chủ thể, đặc biệt là cuộc sống của trẻ em được nhận nuôi và hình thành một gia đình bền vững. Phân tích quy định của pháp luật nuôi con nuôi hiện hành cho thấy nhiều quy định của pháp luật thực định chưa giải quyết được các vấn đề nảy sinh trong thực tiễn nuôi con nuôi, vì vậy việc hoàn thiện hơn nữa pháp luật nuôi con nuôi của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là yêu cầu cấp thiết, khách quan. Khóa luận: Pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ: 

===>>> Khóa luận: Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Contact Me on Zalo
0906865464