Chia sẻ chuyên mục Đề tài Khóa luận: Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi hay nhất năm 2024 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thạc sĩ thì với đề tài Khóa luận: Một số đề xuất hoàn thiện pháp luật về nuôi con nuôi và tổ chức thực hiện dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
3.1 Thực trạng về nuôi con nuôi ở Việt Nam
3.1.1 Kết quả hoạt động đăng ký nuôi con nuôi
Kết quả đăng ký nuôi con nuôi trong nước: Việc nhận và nuôi con nuôi dựa trên tinh thần nhân đạo và tự nguyện xác lập quan hệ cha mẹ con nuôi lâu dài, bền vững nhằm bảo đảm cho trẻ em được nhận làm con nuôi được nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục con nuôi trong môi trường gia đình yêu thương và ổn định.
Kể từ khi thực hiện Luật Nuôi con nuôi đến nay (giai đoạn 2011-2020), trên toàn quốc đã giải quyết 26.623 trẻ em làm con nuôi trong nước, chiếm hơn 87,2% trong tổng số 30.519 trẻ em được giải quyết cho làm con nuôi trong nước và con nuôi nước ngoài. Qua số liệu này cho thấy, số lượng trẻ em được cho làm con nuôi trong nước cao hơn rất nhiều so với số lượng trẻ em được giải quyết cho làm con nuôi nước ngoài.
Về nơi cư trú của trẻ em được nhận làm con nuôi: Trong số 26.623 trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được giải quyết cho làm con nuôi trong nước, 78,9% trẻ em sống ở gia đình gốc (21.005 trường hợp), 3,7% trẻ em sống ở cơ sở nuôi dưỡng (1.005 trường hợp/10 năm), 17,4% trẻ em ở nơi khác (4.613 trường hợp). Qua số liệu này cho thấy, đa số trẻ em được nhận làm con nuôi trong nước thuộc diện sống ở gia đình gốc trước khi được nhận làm con nuôi, thường là trẻ em có quan hệ họ hàng với người nhận con nuôi hoặc trẻ em có cha mẹ đẻ, người giám hộ không đủ khả năng nuôi dưỡng. Đối với trẻ em ở nơi khác được nhận làm con nuôi chủ yếu trẻ em thuộc diện bị bỏ rơi, trẻ em được giao chăm sóc tạm thời hoặc trẻ em có mẹ đẻ đơn thân, đang đi học hoặc chưa có công việc ổn định [3]. Khóa luận: Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi.
Về độ tuổi của trẻ em được nhận làm nuôi trong nước, 48% trẻ em dưới 01 tuổi (12.620 trường hợp), gần 29% trẻ em từ 01-05 tuổi (7.794 trường hợp) và 23% trẻ em từ 05 tuổi trở lên (6.209 trường hợp). Qua số liệu này cho thấy, số trẻ em dưới 01 tuổi được nhận làm con nuôi chiếm phần lớn. Điều này xuất phát từ tâm lý của người nhận con nuôi thường có nguyện vọng nhận trẻ em càng nhỏ tuổi càng tốt, vì con nuôi sẽ dễ dàng hòa nhập với gia đình cha mẹ nuôi hơn, đồng thời cha mẹ nuôi cũng có thể giữ bí mật về nguồn gốc của con nuôi khi con nuôi còn nhỏ để bảo đảm sự phát triển bình thường của con nuôi, con nuôi không phải tự ti về thân phận của mình. Đối với trẻ em trên 5 tuổi được nhận làm con nuôi chủ yếu là trẻ em có quan hệ họ hàng, thân thích với người nhận con nuôi.
Về giới tính của trẻ em được nhận làm con nuôi, trong tổng số 26.623 trẻ em được nhận làm con nuôi, khoảng 52% trẻ em có giới tính nam (13.903 trường hợp) và khoảng 48% trẻ em có giới tính nữ (12.720 trường hợp).
Về tình trạng sức khỏe, hầu hết trẻ em được nhận làm con nuôi trong nước có sức khỏe bình thường, chỉ một số ít trẻ em mắc bệnh. Trong giai đoạn 2011- 2018, có 20.583 trẻ em có sức khỏe bình thường được nhận làm con nuôi (chiếm 99,1%), trong khi đó chỉ 186 trẻ em (chiếm khoảng 0,9 %) mắc bệnh được nhận làm con nuôi. Trên thực tế, hầu hết cha mẹ nuôi trong nước đều lựa chọn trẻ em rất kỹ về diện mạo, độ tuổi và đặc biệt là tình trạng sức khỏe.
Về tình hình phát triển của trẻ em được cho làm con nuôi trong nước, qua số liệu khảo sát, thống kê và qua công tác quản lý nhà nước cho thấy, 69,5% trẻ em được nhận làm con nuôi phát triển tốt, 21,8% trẻ em có mức độ phát triển bình thường và số lượng các trường hợp nuôi con nuôi không thành công chỉ ở mức độ rất thấp (0,3%). Hầu hết trẻ em được nhận làm con nuôi hòa nhập tốt với môi trường gia đình cha mẹ nuôi, do trẻ em được nhận làm con nuôi từ khi còn rất nhỏ tuổi. Các cha mẹ nuôi yêu thương, chăm sóc con nuôi như con ruột của mình; luôn quan tâm, lo lắng tới sự phát triển và hòa nhập của con nuôi.
Kết quả đăng ký nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài: Trong giai đoạn 2011-2020, trên toàn quốc đã giải quyết được 3.896 trẻ em làm con nuôi nước ngoài theo quy định của Luật Nuôi con nuôi và 542 trường hợp giải quyết trong năm 2011 theo quy định của Nghị định 68/2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài (trước khi Luật Nuôi con nuôi được ban hành). So với tổng số các trường hợp giải quyết nuôi con nuôi trong nước và nuôi con nuôi nước ngoài, thì kết quả giải quyết việc nuôi con nuôi nước ngoài chỉ chiếm hơn 12% (3.896/30.519 trường hợp). Trong số 3.896 trẻ em được giải quyết cho làm con nuôi nước ngoài, có 2.811 trường hợp trẻ em được giải quyết cho làm con nuôi nước ngoài sống tại các cơ sở nuôi dưỡng (chiếm 72,1%); 1.085 trẻ em sống tại gia đình, trong đó 1.071 trẻ em thuộc diện là con riêng, cháu ruột của người nhận con nuôi (chiếm 27.9%). [4] Khóa luận: Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi.
Về độ tuổi của trẻ em được giải quyết cho làm con nuôi nước ngoài, 23,84% dưới 01 tuổi (929 trẻ em), 41,17% ở độ tuổi từ 01 – 05 tuổi (1.604 trẻ em), 11,17% ở độ tuổi từ 05 – 10 tuổi (435 trẻ em), 23,82% từ 10 tuổi trở lên (928 trẻ em). Về giới tính, trẻ em nữ chiếm 50,51% và trẻ em nam chiếm 49,49%. Về tình hình sức khỏe, đối với trẻ em sống ở cơ sở nuôi dưỡng được giải quyết cho làm con nuôi ở nước ngoài, 61,1% thuộc diện khuyết tật, mắc bệnh hiểm nghèo (2.382 trẻ em), 11,4% có sức khỏe b́ình thường (443 trẻ em). Đối với 1071 trẻ em thuộc các trường hợp là con riêng hoặc cháu ruột của người nhận con nuôi thì chủ yếu có sức khỏe bình thường. Việc giải quyết cho trẻ em có nhu cầu chăm sóc đặc biệt làm con nuôi nước ngoài vừa tạo cơ hội để trẻ em được sống trong môi trường gia đình cha mẹ nuôi phù hợp, vừa tạo điều kiện cho trẻ em sớm được điều trị bệnh, khuyết tật trong điều kiện y tế hiện đại của nước ngoài, trong khi ở Việt Nam khó có thể có được những điều kiện chữa trị cho các cháu.
Về thủ tục giải quyết, theo thủ tục đích danh đã giải quyết được 3.453/3.896 (chiếm hơn 88%) trong đó có 2.382 trẻ em ở cơ sở nuôi dưỡng bị khuyết tật, mắc bệnh hiểm nghèo (chiếm gần 69%) và 1.071 trẻ em ở gia đình thuộc các trường hợp là con riêng hoặc cháu ruột của người nhận con nuôi (chiếm gần 32%); đã giải quyết 443 trẻ em ở cơ sở nuôi dưỡng làm con nuôi nước ngoài (chiếm gần 12 %) theo thủ tục giới thiệu trẻ em. Trong năm 2020 kể từ khi thực hiện Nghị định số 24/2019/NĐ-CP, số lượng trẻ em ở cơ sở nuôi dưỡng được giải quyết theo thủ tục giới thiệu (116/156) tăng gấp 3 lần so với số lượng trẻ em được giải quyết theo thủ tục đích danh (40/156). Kết quả đạt được thể hiện hướng đi đúng đắn trong việc sửa đổi quy định pháp luật nhằm thi hành tốt Luật Nuôi con nuôi và Công ước La Hay.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
3.1.2 Một số tồn tại trong hoạt động nuôi con nuôi
- Đối với công tác giải quyết nuôi con nuôi trong nước
Thứ nhất, số lượng trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở cơ sở nuôi dưỡng được giải quyết cho làm con nuôi trong nước còn rất hạn chế. Trong cả giai đoạn 2011-2020, trong tổng số 26.623 trẻ em được giải quyết cho làm con nuôi trong nước chỉ có khoảng 3,7% trẻ em sống ở cơ sở nuôi dưỡng. Như vậy, trung bình mỗi năm chỉ có khoảng 0,37% trẻ em được giải quyết nuôi con nuôi trong nước thuộc diện sống ở cơ sở nuôi dưỡng (khoảng 100 trẻ em/năm). Trong khi đó, theo báo cáo rà soát của các Sở Tư pháp, hiện nay trên toàn quốc có khoảng 4.411 trẻ em cần tìm gia đình thay thế đang sống tại 97 cơ sở nuôi dưỡng công lập và 216 cơ sở nuôi dưỡng ngoài công lập [6]. Mặc dù còn một số lượng lớn trẻ em sống ở cơ sở nuôi dưỡng ngoài công lập, đặc biệt là cơ sở tôn giáo nhưng chưa có biện pháp hữu hiệu để tìm gia đình thay thế cho nhóm trẻ em này; còn gặp khó khăn trong rà soát trẻ em đang sinh sống ở cộng đồng có nhu cầu nhận làm con nuôi để chuyển hình thức chăm sóc thay thế. Nhiều địa phương phản ánh không có hoặc không có nhiều trường hợp đăng ký nhu cầu nhận trẻ mở cơ sở nuôi dưỡng làm con nuôi . Khóa luận: Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi.
Thứ hai, vẫn còn tình trạng thỏa thuận cho nhận con nuôi, chỉ có giấy tờ viết tay hoặc tự ý đem trẻ em bị bỏ rơi về chăm sóc nuôi dưỡng, hoặc cho nhận con nuôi trao tay (mẹ đẻ sinh con tại cơ sở y tế và đem con cho người khác); hoặc lợi dụng việc cấp giấy chứng sinh để hợp thức “cha mẹ nuôi” thành cha mẹ đẻ mà không thông qua thủ tục đăng ký nuôi con nuôi diễn ra ở địa phương. Do không tiến hành thủ tục đăng ký nuôi con nuôi cho nên mối quan hệ pháp lý giữa trẻ em và người nuôi dưỡng không được xác lập. Điều này ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của trẻ em. Sau một thời gian dài nuôi dưỡng, người nhận con nuôi mới yêu cầu cơ quan có thẩm quyền đăng ký việc nuôi con nuôi để đảm bảo trẻ em có giấy tờ hộ tịch, đặc biệt là giấy khai sinh có tên cha mẹ nuôi. Bộ Tư pháp nhận định đây là thực trạng nuôi dưỡng chăm sóc trái pháp luật, không có sự tham gia của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở khâu giao nhận trẻ em nên tiềm ẩn nhiều nguy cơ ảnh hưởng tới quyền và lợi ích tốt nhất của trẻ em. Thực trạng này gây khó khăn cho cơ quan nhà nước khi giải quyết yêu cầu đăng ký nuôi con nuôi. Bên cạnh đó, vẫn còn nhiều trường hợp nuôi con nuôi thực tế chưa được đăng ký sau khi hết thời hạn 31/12/2015 do nhiều nguyên nhân khác nhau.
Thứ ba, trách nhiệm hỗ trợ việc nuôi con nuôi trong nước (như tư vấn thủ tục lập hồ sơ, trình tự thủ tục, đánh giá nhu cầu và điều kiện của người nhận con nuôi, báo cáo tình hình phát triển của con nuôi) chưa được thực hiện một cách chuyên nghiệp, chủ yếu do Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện. Do hạn chế về nguồn lực con người và trình độ chuyên môn (công chức tư pháp-hộ tịch chỉ có trình độ pháp lý) nên Ủy ban nhân dân cấp xã không thể thực hiện một cách chuyên nghiệp và hiệu quả những hoạt động hỗ trợ trong lĩnh vực công tác xã hội và tâm lý. Thực trạng này dẫn đến việc thiếu sự kết nối giữa trẻ em có nhu cầu tìm gia đình thay thế với nguyện vọng của những người có nhu cầu nhận con nuôi, sự thiếu chuyên nghiệp trong công tác giải quyết việc nuôi con nuôi trong nước và ảnh hưởng đến hiệu quả của công tác giải quyết nuôi con nuôi.
Thứ tư, đại dịch Covid-19 ảnh hưởng đến tiến độ cũng như chất lượng giải quyết việc nuôi con nuôi. Do phải áp dụng các biện pháp phòng chống dịch bệnh Covid-19 nên người dân gặp khăn trong việc hoàn thiện hồ sơ đăng ký nuôi con nuôi, công chức tư pháp – hộ tịch cũng khó có thể trực tiếp tư vấn, lấy ý kiến của những người liên quan về việc cho trẻ em làm con nuôi theo đúng thời hạn quy định do phải làm việc trực tuyến. Khóa luận: Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi.
- Đối với công tác giải quyết nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
Thứ nhất, công tác giải quyết nuôi con nuôi nước ngoài đối với trẻ em ở các cơ sở nuôi dưỡng chưa được triển khai đồng đều trên toàn quốc. Số lượng các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tham gia giải quyết cho trẻ em ở cơ sở nuôi dưỡng làm con nuôi chỉ chiếm 68% (43/63 tỉnh/thành phố). Trong số 43 tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương tham gia giải quyết việc nuôi con nuôi nước ngoài thì 16/43 tỉnh/thành phố giải quyết dưới 15 trường hợp/10 năm, tức là trung bình chỉ giải quyết 1,5 trường hợp/năm. Về các cơ sở nuôi dưỡng, theo số liệu thống kê của ngành Lao động – Thương binh và Xã hội, trên toàn quốc có 425 cơ sở nuôi dưỡng (bao gồm 195 cơ sở công lập và 230 cơ sở ngoài công lập). Tuy nhiên, tính đến nay thường xuyên chỉ có khoảng 20 cơ sở nuôi dưỡng tham gia giải quyết việc nuôi con nuôi nước ngoài (chỉ chiếm khoảng 4,7% tổng số các cơ sở nuôi dưỡng trên toàn quốc), trong khi vẫn còn một số lượng lớn trẻ em cần tìm gia đình thay thế, đặc biệt là ở các cơ sở ngoài công lập, cơ sở tôn giáo. Thực trạng này dẫn đến nhiều trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt phải sống tập trung lâu dài ở cơ sở nuôi dưỡng, ảnh hưởng đến sự phát triển toàn diện và lâu dài của trẻ em.
Thứ hai, việc bố trí kinh phí giải quyết việc nuôi con nuôi nước ngoài ở địa phương chưa được quan tâm: Theo quy định tại Điều 8 Nghị định số 114/2016/NĐ-CP ngày 8/7/2016 của Chính phủ quy định lệ phí đăng ký nuôi con nuôi, lệ phí cấp giấy phép hoạt động của tổ chức con nuôi nước ngoài, kinh phí thực hiện công tác giải quyết việc nuôi con nuôi nói chung và nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài nói riêng do ngân sách nhà nước bảo đảm theo quy định của pháp luật về phân cấp ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, theo phản ánh của một số địa phương ,việc bố trí kinh phí cho hoạt động giải quyết việc nuôi con nuôi chưa được bảo đảm do một số hoạt động giải quyết việc nuôi con nuôi chưa được quy định mức chi; thủ tục rút kinh phí phức tạp; phần kinh phí chuyển chưa đảm bảo chi phí cho việc xác minh, tổ chức tiến hành lấy ý kiến đồng ý, bàn giao,xác minh lại, khám sức khỏe cho trẻ em. Việc sử dụng chi phí giải quyết việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài theo quy định tại Thông tư liên tịch số 146/2012/TTLT-BTC-BTP cũng còn gặp rất nhiều khó khăn do những lý do cơ bản sau: cơ quan tài chính địa phương phân bổ kinh phí muộn, Sở Tư pháp không kịp sử dụng; phải tạm ứng từ nguồn khác nhưng sau đó không quyết toán được; không được hưởng kho n kinh phí này; chưa có hướng dẫn thủ tục lập dự toán, quản lý, sử dụng, quyết toán kinh phí giải quyết việc nuôi con nuôi; nguồn kinh phí chưa đủ để đảm bảo thực hiện các hoạt động liên quan đến công tác giải quyết việc nuôi con nuôi . Khóa luận: Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi.
Thứ ba, dịch bệnh Covid – 19 có những tác động đáng kể đối với công tác giải quyết việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Số lượng trẻ em được giải quyết cho làm con nuôi nước ngoài bị sụt giảm , việc lập danh sách, hồ sơ của trẻ em để thực hiện thủ tục tìm gia đình thay thế bị kéo dài, nhiều cơ sở nuôi dưỡng chậm, hoặc không lập hồ sơ của trẻ em do không thể cho trẻ em đi khám bệnh. Việc giải quyết hồ sơ bị kéo dài, hoặc bị chậm chễ do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải thực hiện giãn cách xã hội và triển khai các biện pháp phòng chống dịch bệnh. Đối với cha mẹ nuôi nước ngoài, nhiều trường hợp đã có Quyết định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh về việc cho nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi nhưng cha mẹ nuôi không thể thực hiện được thủ tục giao nhận con nuôi do cha mẹ nuôi nước ngoài không thể nhập cảnh vào Việt Nam để thực hiện thủ tục giao nhận con nuôi.
3.2 Một số đề xuất hoàn thiện pháp luật về nuôi con nuôi và tổ chức thực hiện
3.2.1 Các đề xuất pháp lý về nuôi con nuôi
Để đảm bảo và đáp ứng được quyền, lợi ích tốt nhất của trẻ em nhận nuôi, đồng thời nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật nuôi con nuôi phù hợp với thực tiễn và thống nhất với các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan thì cần sửa đổi, bổ sung một số nội dung của Luật Nuôi con nuôi và các văn bản hướng dẫn thi hành.
- Đối với quy định về điều kiện nuôi con nuôi
Theo quy định của pháp luật hiện hành về nuôi con nuôi, các điều kiện nuôi con nuôi bao gồm điều kiện đối với người được nhận làm con nuôi, đối với người nhận nuôi và ý chí của các chủ thể có liên quan trong việc cho – nhận con nuôi. Đối với các quy định này, cần có sự quy định cụ thể, rõ ràng hơn về các nội dung sau:
- Về điều kiện đối với người được nhận nuôi Khóa luận: Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi.
Theo quy định tại Điều 8 Luật Nuôi con nuôi chỉ có duy nhất về độ tuổi của người được nhận làm con nuôi mà không quy định bất kỳ điều kiện gì khác. Điều đó dẫn tới nhận thức là trẻ em ở độ tuổi dưới 16 tuổi đều được nhận làm con nuôi, bất kể cha mẹ có khả năng nuôi dưỡng hay không. Nhận thức này trái với nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi quy định tại khoản 1 Điều 4 Luật Nuôi con nuôi là giải quyết việc nuôi con nuôi cần tôn trọng quyền được sống trong gia đình gốc của trẻ em. Những việc cho nhận con nuôi này không phù hợp với bản chất của việc nuôi con nuôi là xác lập quan hệ cha mẹ và con mới thay thế cho quan hệ cha mẹ và con về huyết thống và tạo điều kiện cho trẻ em sống trong gia đình thay thế khi trẻ em không thể được cha mẹ đẻ chăm sóc, nuôi dưỡng. Do đó, cần bổ sung thêm quy định về hoàn cảnh gia đình của người được nhận nuôi bên cạnh quy định về độ tuổi. Chỉ khi trẻ em trong những hoàn cảnh đặc biệt mới được cho làm con nuôi người khác.
Hoàn cảnh gia đình của trẻ em được giải quyết làm con nuôi được xác định tương ứng với trẻ em cần được chăm sóc thay thế theo quy định tại Điều 62 Luật Trẻ em.. Quy định này tạo cơ sở pháp lý cho việc cơ quan có thẩm quyền từ chối giải quyết việc nuôi con nuôi khi cha mẹ đẻ của trẻ vẫn có đủ khả năng, điều kiện về kinh tế, sức khỏe để chăm sóc, nuôi dưỡng con, tránh được hiện tượng lợi dụng việc nuôi con nuôi nhằm mục đích khác hoặc trục lợi.
Đối với trẻ em làm con nuôi nước ngoài cũng phải đảm bảo tuân thủ quy định về độ tuổi theo Điều 8 Luật Nuôi con nuôi. Tuy nhiên, việc quy định trẻ em từ 5 tuổi trở lên hoặc có hai trẻ em trở lên là anh chị em ruột cần tìm gia đình thay thế thì được giải quyết làm con nuôi nước ngoài ngay mà không cần thực hiện thủ tục tìm gia đình thay thế trong nước trước cho các em đã tước bỏ khả năng các em có thể được nhận nuôi trong nước đồng thời không phù hợp với quy định của Công ước La Hay. Vì vậy cần sửa đổi quy định này theo hướng trẻ em từ 5 tuổi trở lên hoặc có hai trẻ em trở lên là anh chị em ruột cần tìm gia đình thay thế thì phải thực hiện thủ tục tìm gia đình thay thế ở trong nước trước cho các em. Chỉ khi không tìm được gia đình thay thế trong nước thì mới giải quyết cho những trẻ em này làm con nuôi ở nước ngoài.
- Về điều kiện đối với người nhận nuôi Khóa luận: Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi.
Cần quy định rõ ràng, cụ thể về điều kiện kinh tế, sức khỏe của người nhận nuôi con nuôi. Điều kiện kinh tế, chỗ ở của người nhận nuôi có thể được xác định trên cơ sở người nhận nuôi con nuôi có chỗ ở ổn định, có nơi cư trú rõ ràng và có khả năng kinh tế đảm bảo mức sống trung bình tối thiểu cho con nuôi theo mức sống trung bình tại địa phương nơi người nhận nuôi cư trú. Về điều kiện sức khỏe của người nhận nuôi, cần quy định người mắc một số bệnh có nguy cơ lây nhiễm cao như viêm gan B, C, nhiễm HIV/AIDS thì không nên cho nhận nuôi con nuôi vì có khả năng lây nhiễm sang trẻ em, nhất là khi các em không có khả năng tự chăm sóc, bảo vệ mình, đồng thời bản thân người nhận nuôi vì mắc bệnh cũng không có điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng các em. Trong thực tế, người bị mắc bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác dẫn đến có khó khăn trong nhận thức và điều khiển hành vi nhưng chưa bị Tòa án tuyên là người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi thì có được nhận nuôi con nuôi hay không? Những trường hợp này khó có thể trở thành người cha, người mẹ tốt, đủ khả năng giáo dục, chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ; trong một số trường hợp người bị bênh tâm thần còn có khả năng gây nguy hiểm cho trẻ, do việc họ không ý thức và kiểm soát được hành vi của mình. Vì lợi ích tốt nhất của trẻ em được nhận nuôi, pháp luật cần quy định những người mắc bệnh tâm thần dù chưa bị Tòa án tuyên bố mất Năng lực hành vi dân sự hoặc chưa bị Tòa án tuyên là người có khó khăn trong nhận thức và điều khiển hành vi thì không cho họ nhận nuôi con nuôi.
Cần xác định về độ tuổi và khoảng cách giữa người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi trong trường hợp cha dượng nhận con riêng của vợ, mẹ kế nhận con riêng của chồng làm con nuôi hoặc cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận cháu làm con nuôi. Theo quy định tại khoản 3 Điều 14 của Luật Nuôi con nuôi thì trường hợp cha dượng nhận con riêng của vợ, mẹ kế nhận con riêng của chồng làm con nuôi hoặc cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận cháu làm con nuôi không áp dụng điều kiện về độ tuổi (hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên). Bên cạnh quy định về khoảng cách tối thiểu giữa người nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm con nuôi, cần quy định tuổi tối đa được nhận nuôi con nuôi của người nhận nuôi. Người nhận nuôi con nuôi phải hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên và không quá 60 tuổi. Với độ tuổi này, người nhận nuôi có đủ điều kiện về sức khỏe đảm bảo việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi, đảm bảo khoảng cách tuổi tác phù hợp về mặt sinh học với con nuôi và việc nhận nuôi con nuôi mới có tính khả thi. Khóa luận: Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi.
Về ý chí của các chủ thể thuộc gia đình gốc của người được nhận làm con nuôi: Điều 21 Luật Nuôi con nuôi quy định: việc nhận nuôi con nuôi phải được sự đồng ý của cha mẹ đẻ của người được nhận làm con nuôi, nếu cha đẻ hoặc mẹ đẻ đã chết, mất tích, mất Năng lực hành vi dân sự hoặc không xác định được thì phải có sự đồng ý của người còn lại; nếu cả cha mẹ đều chết, mất tích, mất Năng lực hành vi dân sự hoặc không xác định được thì phải được sự đồng ý của người giám hộ, trường hợp trẻ em từ đủ 9 tuổi trở lên làm con nuôi thì còn phải được sự đồng ý của trẻ em đó. Trong thực tế có trường hợp cha hoặc mẹ hoặc cả cha mẹ đã ly hôn, người trực tiếp nuôi con chết, người còn lại không liên lạc được, nhưng không còn ai để xác định là mất tích thì khi có người xin nhận con nuôi sẽ rất khó giải quyết. Trường hợp này không thuộc trường hợp trẻ em bị bỏ rơi hoặc trường hợp trẻ em bị mồ côi theo quy định tại Điều 15 của Luật Nuôi con nuôi. Vì vậy, pháp luật nuôi con nuôi cần có những bổ sung và hướng dẫn cụ thể cho trường hợp này theo hướng: khi một bên cha mẹ trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng, nuôi dưỡng con và khi có người muốn nhận trẻ em làm con nuôi, có thể thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng trong thời hạn nhất định mà không có hồi âm thì có thể cho đứa trẻ đi làm con nuôi. Ngoài ra, độ tuổi xin ý kiến trẻ em nên hạ xuống là 7 tuổi cho phù hợp với quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
- Đối với việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
Bổ sung các biện pháp nhằm tăng cường tính minh bạch về tài chính trong việc giải quyết nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
Theo khoản 2 Điều 12 Luật Nuôi con nuôi, người nước ngoài không thường trú ở Việt Nam nhận con nuôi phải nộp lệ phí đăng ký nuôi con nuôi và phải trả một khoản tiền để bù đắp một phần chi phí giải quyết việc nuôi con nuôi nước ngoài, bao gồm chi phí nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em từ khi được giới thiệu làm con nuôi đến khi hoàn thành thủ tục giao nhận con nuôi, xác minh nguồn gốc của người được giới thiệu làm con nuôi, giao nhận con nuôi và thù lao hợp lý cho nhân viên của cơ sở nuôi dưỡng. Khóa luận: Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi.
Tuy nhiên, khoản 2 Điều 48 Nghị định số 19/2011/NĐ-CP đã quy định miễn chi phí giải quyết nuôi con nuôi nước ngoài nếu người nước ngoài không thường trú ở Việt Nam nhận trẻ em khuyết tật, trẻ em mắc bệnh hiểm nghèo, trẻ em nhiễm HIV/AIDS làm con nuôi. Trong thời gian qua, đa số trẻ em được giải quyết làm con nuôi nước ngoài thuộc diện khuyết tật, trẻ em mắc bệnh hiểm nghèo, trẻ em nhiễm HIV/AIDS nên được miễn chi phí giải quyết nuôi con nuôi nước ngoài. Việc miễn chi phí đối với các trường hợp này cũng gây thêm khó khăn cho cơ sở nuôi dưỡng về kinh phí giải quyết nuôi con nuôi (thiếu kinh phí khám sức khỏe, chăm sóc và chữa trị y tế cho trẻ em, thiếu kinh phí bổ sung cho việc chăm sóc và nuôi dưỡng trẻ, cải thiện điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng cho trẻ em ở cơ sở trợ giúp xã hội). [1] Ngoài ra, việc miễn chi phí giải quyết nuôi con nuôi nước ngoài tạo sự phân biệt trong công tác giải quyết nuôi con nuôi, có thể dẫn đến việc người nhận con nuôi chi trả trực tiếp khoản chi phí được miễn đó cho cơ sở nuôi dưỡng. Do đó, việc minh bạch tài chính là một yêu cầu cơ bản trong thủ tục giải quyết nuôi con nuôi quốc tế, đồng thời việc giải quyết nuôi con nuôi quốc tế phải tách bạch với các khoản hỗ trợ nhân đạo, cho tặng và hỗ trợ kỹ thuật. Nhằm bảo đảm việc gi i quyết nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài tuân thủ đúng chuẩn mực của Công ước La Hay, phòng tránh việc lợi dụng trẻ em cho làm con nuôi để thực hiện nạn buôn bán trẻ em, cần có các biện pháp tăng cường tính minh bạch về tài chính trong hoạt động cho nhận con nuôi, đặc biệt là các khoản cho tặng sau khi nhận con nuôi của cha mẹ nuôi người nước ngoài.
- Bổ sung quy định về hệ quả của việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
Hệ quả của việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là một nội dung quan trọng liên quan đến nhân thân và tình trạng hộ tịch, quốc tịch của trẻ em, nhằm đảm bảo cho trẻ em Việt Nam làm con nuôi nước ngoài có sự gắn bó và hòa nhập trọn vẹn với gia đình cha mẹ nuôi nước ngoài. Trong quá trình xây dựng dự thảo Luật Nuôi con nuôi, Chính phủ đã đề xuất việc giải quyết nuôi con nuôi nước ngoài theo hình thức con nuôi trọn vẹn nhằm bảo đảm quyền và lợi ích của trẻ em. [2] Tuy nhiên, Quốc hội đã không thông qua đề xuất đó của Chính phủ, đồng thời cũng không xây dựng quy định thay thế trong dự thảo Luật. Điều này dẫn đến Luật Nuôi con nuôi không có quy định về hệ quả của việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
Do đó, việc bổ sung quy định về hệ quả của việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là cần thiết nhằm quy định rõ về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ nuôi nước ngoài với con nuôi, việc cắt đứt hoàn toàn mối quan hệ tồn tại trước đó giữa con nuôi và cha mẹ đẻ (trừ trường hợp nhận con riêng/cháu ruột làm con nuôi), thay đổi hộ tịch cho con nuôi, quốc tịch của trẻ em được nhận làm con nuôi ở nước ngoài. Đồng thời cũng cần bổ sung thêm quy định hệ quả của các quyết định nuôi con nuôi được tuyên bố bởi cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài. Cần quy định rõ việc đương nhiên/không đương nhiên công nhận các quyết định nuôi con nuôi do cơ qua có thẩm quyền nước ngoài cấp, quy định các điều kiện để xem xét công nhận các quyết định đó trước khi cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam thực hiện việc ghi chú việc nuôi con nuôi đã được thực hiện ở nước ngoài, nhằm tránh cho các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam ghi chú các quyết định nuôi con nuôi ở nước ngoài nhưng trái với quy định của pháp luật Việt Nam. Khóa luận: Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi.
- Hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi
Hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi tùy thuộc vào hình thức của việc nuôi con nuôi đơn giản hay trọn vẹn. Pháp luật hiện hành của nước ta không quy định về hình thức nuôi con nuôi trọn vẹn, nhưng chủ trương, quan điểm xây dựng luật và tinh thần của điều luật thể hiện sự hướng tới xác lập việc nuôi con nuôi trọn vẹn. Điều đó được thể hiện qua quy định tại Điều 24 Luật Nuôi con nuôi. Việc điều chỉnh hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi không hoàn toàn phù hợp với ý chí, mong muốn của các bên chủ thể.
Do đó, pháp luật nuôi con nuôi cần được sửa đổi, bổ sung một số nội dung về hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi, cụ thể như sau:
Một là, cần quy định một cách tổng quát về các hình thức nuôi con nuôi, đó là nuôi con nuôi trọn vẹn và nuôi con nuôi đơn giản. Pháp luật có thể quy định cả hai hình thức nuôi con nuôi đó, song là hình thức nào thì phải rõ ràng, dứt khoát với các đặc trưng cơ bản của nó. Sự lựa chọn hình thức nuôi con nuôi nào do các bên đương sự quyết định trên cơ sở ý chí tự nguyện của chính mình khi xác lập việc nuôi con nuôi giữa các bên. Sự lựa chọn hình thức nuôi con nuôi được thể hiện qua ý chí của cha mẹ đẻ trong việc đồng ý hay không đồng ý việc nuôi con nuôi dẫn đến hệ quả làm chấm dứt toàn bộ các mối quan hệ pháp lý trước đó giữa cha mẹ đẻ với trẻ em được cho làm con nuôi. Điều này là cơ sở cho việc quy định các quyền và nghĩa vụ cụ thể của các bên trong từng hình thức nuôi con nuôi.
Hai là, cần quy định rõ về hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi theo hai hình thức nuôi con nuôi trọn vẹn và nuôi con nuôi đơn giản. Trong mỗi hình thức cần quy định rõ quyền và nghĩa vụ giữa con nuôi với cha mẹ nuôi, giữa con nuôi với các thành viên khác trong gia đình cha mẹ nuôi; giữa con đã làm con nuôi với cha mẹ đẻ.
- Chấm dứt việc nuôi con nuôi Khóa luận: Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi.
Chấm dứt việc nuôi con nuôi là một việc làm không mong muốn trong quan hệ giữa cha mẹ và con nhưng lại là cần thiết đặt ra trong một số trường hợp để bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của các bên. Luật Nuôi con nuôi đã có những quy định về căn cứ, chủ thể có quyền yêu cầu và hậu quả pháp lý khi chấm dứt việc nuôi con nuôi. Nhìn chung, các quy định này đã tạo điều kiện thuận lợi cho Tòa án giải quyết vấn đề chấm dứt việc nuôi con nuôi một cách thống nhất, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cha mẹ nuôi và con nuôi. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng các quy định về chấm dứt nuôi con nuôi đã bộc lộ một số bất cập trong quy định của Luật Nuôi con nuôi cũng như việc giải quyết của Tòa án. Để giải quyết vấn đề chấm dứt việc nuôi con nuôi phù hợp hơn với bản chất của quan hệ giữa cha mẹ và con, bảo vệ tốt hơn quyền, lợi ích hợp pháp của các bên có liên quan, trước hết cần nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung một số nội dung:
- Về căn cứ chấm dứt việc nuôi con nuôi
Cần bỏ quy định về căn cứ chấm dứt việc nuôi con nuôi quy định tại khoản 1 Điều 25 Luật Nuôi con nuôi vì căn cứ này không phù hợp với thực tế thực hiện việc nuôi con nuôi, không phù hợp với tâm lý, tình cảm giữa cha mẹ nuôi và con nuôi. Về hành vi của con nuôi phá tán tài sản của cha mẹ nuôi, cần sửa đổi theo hướng chỉ coi là căn cứ chấm dứt việc nuôi con nuôi khi hành vi vi phạm của con nuôi có tính chất thường xuyên và nghiêm trọng. Tính nghiêm trọng của hành vi của con nuôi thể hiện ở chỗ hành vi đó xảy ra nhiều lần, mặc dù được giáo dục nhưng con nuôi vẫn tái phạm hoặc con nuôi đã bị kết án về hành vi này với lỗi cố ý, làm cho tình cảm của cha mẹ nuôi đối với con nuôi không còn nữa. Việc sửa đổi quy định như vậy sẽ phù hợp hơn với bản chất của quan hệ giữa cha mẹ và con là ổn định, bền vững, bảo đảm cho người con nuôi được chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục tốt. Để phù hợp hơn với bản chất pháp lý của biện pháp chấm dứt việc nuôi con nuôi, cần bỏ căn cứ chấm dứt việc nuôi con nuôi được quy định tại khoản 4 Điều 25 Luật Nuôi con nuôi.
- Về chủ thể có quyền yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi
Cần sửa đổi quy định theo hướng tôn trọng ý kiến của cha mẹ nuôi và con nuôi. Theo đó, cha mẹ đẻ của con nuôi; cơ quan lao động, thương binh và xã hội và hội liên hiệp phụ nữ chỉ có quyền yêu cầu Tòa án chấm dứt việc nuôi con nuôi khi con nuôi hoặc cha mẹ nuôi không thể tự mình yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi (do con nuôi chưa thành niên hoặc con nuôi đã thành niên nhưng mất Năng lực hành vi dân sự; cha mẹ nuôi bị mất Năng lực hành vi dân sự; con nuôi, cha mẹ nuôi không dám yêu cầu vì bị đe dọa) Khóa luận: Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi.
Cần bổ sung quy định về kê khai tài sản riêng của con nuôi khi đăng ký việc nuôi con nuôi nhằm bảo vệ đầy đủ quyền của con nuôi, nhất là khi xảy ra vấn đề chấm dứt việc nuôi con nuôi. Pháp luật hiện hành không có quy định nào về kê khai tài sản của con nuôi; trong các biểu mẫu Giấy chứng nhận nuôi con nuôi cũng như Biên bản giao nhận con nuôi (nuôi con nuôi trong nước cũng như nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài) ban hành kèm theo Thông tư số 24/2014/TT-BTP của Bộ Tư pháp ngày 29/12/2014 đều không có mục nào ghi nhận về tài sản của con nuôi (nếu có). Điều này sẽ gây khó khăn về chứng minh tài sản của con nuôi khi có tranh chấp liên quan cũng như khi Tòa án giải quyết chấm dứt việc nuôi con nuôi. Vì vậy, để bảo đảm tốt hơn quyền lợi của con nuôi, pháp luật cần bổ sung quy định về kê khai tài sản của con nuôi khi đăng ký việc nuôi con nuôi.
- Về thủ tục giải quyết chấm dứt việc nuôi con nuôi
Theo quy định tại Điều 29 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, chấm dứt việc nuôi con nuôi là yêu cầu, được giải quyết theo thủ tục giải quyết việc dân sự. Theo quy định của pháp luật, giải quyết việc dân sự là không có tranh chấp, nên không tiến hành hòa giải. Tuy nhiên có thể thấy, yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi vẫn có thể có tranh chấp khi một trong các bên chủ thể không muốn chấm dứt việc nuôi con nuôi, còn bên kia lại muốn chấm dứt. Trong những trường hợp đó việc hòa giải để các bên hàn gắn, đoàn tụ trong quan hệ cha mẹ và con là cần thiết, phù hợp với quan hệ nuôi con nuôi. Do đó, có thể thấy giải quyết chấm dứt việc nuôi con nuôi còn có thể là vụ án Hôn nhân và gia đình.
- Về hệ quả pháp lý của việc chấm dứt nuôi con nuôi Khóa luận: Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi.
Với quy định tại khoản 1 Điều 24 Luật Nuôi con nuôi, việc nuôi con nuôi xác lập quan hệ cha mẹ và con giữa cha mẹ nuôi và con nuôi, đồng thời con nuôi với các thành viên khác của gia đình cha mẹ nuôi cũng có những quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật dân sự, Hôn nhân và gia đình. Vì vậy, khi việc nuôi con nuôi được Tòa án tuyên bố chấm dứt thì cũng làm chấm dứt không chỉ quan hệ giữa con nuôi với cha mẹ nuôi mà còn chấm dứt các quyền và nghĩa vụ giữa con nuôi với các thành viên khác trong gia đình cha mẹ nuôi. Vì vậy cần quy định rõ vấn đề này.
Như vậy, việc hoàn thiện pháp luật về nuôi con nuôi là yêu cầu khách quan, cấp thiết trong điều kiện hội nhập và phát triển hiện nay, nhằm giải quyết các vấn đề phát sinh từ thực tiễn nuôi con nuôi và bảo đảm tốt hơn quyền, lợi ích của các chủ thể trong quan hệ nuôi con nuôi. Việc cho nhận con nuôi ngày càng phát triển về quy mô và số lượng, ở cả trong nước và nước ngoài. Điều đó tạo cho trẻ em có cơ hội được sống trong gia đình, nhưng cũng đặt ra những thách thức mới đòi hỏi phải hoàn thiện các thiết chế và pháp luật về nuôi con nuôi, đề giải quyết tốt việc cho nhận con nuôi, đảm bảo lợi ích của trẻ em được nhận nuôi. Tuy pháp luật nuôi con nuôi của nước ta đã có bước phát triển đáng kể, nhưng cũng bộc lộ những điểm hạn chế, cần được sửa đổi, bổ sung. Việc hoàn thiện pháp luật nuôi con nuôi phải giải quyết được những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn, đáp ứng được yêu cầu hội nhập với khu vực và thế giới trong xu thế toàn cầu hóa, đảm bảo lợi ích của trẻ em được nhận nuôi.
- Hoàn thiện thể chế về nuôi con nuôi nhằm cụ thể hóa chính sách của Đảng và Nhà nước
Trong giai đoạn 2011-2020, công tác nuôi con nuôi đã được Đảng, Nhà nước và Quốc hội quan tâm chú trọng. Cụ thể là: ngày 19/6/2020 Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 121/2020/QH14 về tiếp tục tăng cường hiệu lực, hiệu quả việc thực hiện chính sách, pháp luật về phòng, chống xâm hại trẻ em. Ngày 07/01/2021 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg ngày 07/01/2021 về Chương trình bảo vệ trẻ em quốc gia giai đoạn 2021-2030 và ngày 22/01/2021 Quyết định số 112/2021/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về Chương trình công tác xã hội giai đoạn 2021-2030. Đây là những định hướng chính sách pháp luật quan trọng về nuôi con nuôi, theo đó công tác quản lý nhà nước về nuôi con nuôi phải ngăn ngừa và chấm dứt các trường hợp nuôi con nuôi trái pháp luật; nuôi con nuôi thuộc Chương trình bảo vệ trẻ em quốc gia và Chương trình công tác xã hội giai đoạn 2021-2030.
Do đó, trong thời gian tới việc sửa đổi, bổ sung Luật Nuôi con nuôi cần thiết phải đáp ứng những yêu cầu như :
Thể chế hóa những chính sách pháp luật nêu trên, thông qua việc phát triển dịch vụ hỗ trợ việc nuôi con nuôi có tính tới yếu tố xã hội hóa một số khâu trong thủ tục giải quyết việc nuôi con nuôi nhằm giảm tải gánh nặng cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong bối cảnh tinh giản biên chế.
Tiếp tục nội luật hóa Công ước La Hay nhằm bảo đảm sự phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của Công ước như việc tách bạch hỗ trợ nhân đạo trong lĩnh vực nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, bổ sung hệ quả của việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài; quy định rõ trường hợp nào là nuôi con nuôi trong nước và nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài theo tiêu chí thường trú của cha mẹ nuôi và trình tự thủ tục thực hiện. Khóa luận: Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi.
Tăng cường bảo đảm quyền và lợi ích tốt nhất của trẻ em được cho làm con nuôi trong nước thông qua việc sửa đổi, bổ sung quy trình đánh giá điều kiện đối với người nhận con nuôi và trẻ em được nhận làm con nuôi trên phương diện gia đình, xã hội, tâm lý và pháp lý nhằm khắc phục tình trạng người nhận con nuôi tự ý tìm kiếm trẻ em được nhận làm con nuôi, tiềm ẩn nhiều nguy cơ ảnh hưởng tới quyền và lợi ích tốt nhất của trẻ em; bảo đảm tính liên thông giữa nuôi con nuôi trong nước và nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài; nâng cao vai trò của công tác hỗ trợ và công tác xã hội trong lĩnh vực nuôi con nuôi; giải quyết việc nuôi con nuôi trong trường hợp bất khả kháng, trở ngại khách quan như đại dịch Covid-19.
Bổ sung quy định về quản lý hoạt động của các tổ chức con nuôi nước ngoài hoạt động tại Việt Nam theo hướng nâng cao yêu cầu, trách nhiệm trong việc tư vấn, hỗ trợ, sử dụng biểu mẫu, sổ sách về nuôi con nuôi và số liệu thực hiện.
Bảo đảm sự thống nhất và tương thích giữa các quy định pháp luật khác có liên quan. Cụ thể là các quy định về vấn đề dân tộc của con nuôi, thay đổi hộ tịch của con nuôi, sự liên thông giữa thủ tục nuôi con nuôi và chuyển đổi thực hiện các biện pháp chăm sóc thay thế… được điều chỉnh trong các văn bản quy phạm pháp luật khác như Bộ Luật dân sự, Luật Hộ tịch và các văn bản hướng dẫn thi hành, Luật Trẻ em và các văn bản hướng dẫn thi hành.
3.2.2. Các đề xuất tổ chức thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi Khóa luận: Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi.
- Tăng cường công tác quản lý nhà nước về nuôi con nuôi
Cần tăng cường, đổi mới hình thức, cách làm về công tác bồi dưỡng, tập huấn và hướng dẫn nghiệp vụ, tăng cường xây dựng các tài liệu tập huấn, hướng dẫn nghiệp vụ cho địa phương; tăng cường chỉ đạo giải quyết việc nuôi con nuôi; tăng cường quản lý các Văn phòng con nuôi nước ngoài tại Việt Nam dưới hình thức kiểm tra, thanh tra; cần đẩy mạnh hơn nữa công tác kiểm tra, thanh tra tại các địa phương hoặc đề nghị các địa phương gửi bản chụp hồ sơ đăng ký nuôi con nuôi để kiểm tra thông qua việc nghiên cứu hồ sơ; xây dựng và triển khai các bộ công cụ, tiêu chí giám sát, đánh giá việc giải quyết nuôi con nôi cả trong nước và nước ngoài.
Ở địa phương, Sở Tư pháp cần xác định công tác chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ về nuôi con nuôi là nhiệm vụ thường xuyên, tham mưu Ủy ban nhân dân cấp tỉnh bố trí nguồn kinh phí thỏa đáng để bảo đảm công tác tập huấn nghiệp vụ nuôi con nuôi; đẩy mạnh hơn nữa công tác thanh tra, kiểm tra vì việc thực hiện công tác này là một trong những biện pháp hữu hiệu để hạn chế được những sai sót xảy ra trong công tác đăng ký nuôi con nuôi.
- Rà soát, kiện toàn đội ngũ cán bộ làm công tác nuôi con nuôi, nâng cao trình độ, nhận thức của công chức tư pháp – hộ tịch trong công tác giải quyết việc nuôi con nuôi
Đội ngũ công chức tư pháp – hộ tịch ở cấp xã thường hạn chế về số lượng, lại phải kiêm nhiệm nhiều công tác tư pháp, thường xuyên luân chuyển nên tính chuyên nghiệp trong công tác nuôi con nuôi bị hạn chế, nhận thức về công tác nuôi con nuôi đặc biệt trong việc thực hiện nguyên tắc ưu tiên nuôi con nuôi trong nước còn hạn chế. Vì vậy, càng hạn chế luân chuyển công chức tư pháp – hộ tịch, tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, nhận thức trong công tác nuôi con nuôi cho đội ngũ cán bộ làm nhiệm vụ này; tăng cường chế độ, chính sách cho công chức tư pháp – hộ tịch nhằm yên tâm công tác; tăng cường điều kiện và cơ sở vật chất để công chức tư pháp – hộ tịch thực hiện nhiệm vụ một cách thuận lợi hơn.
- Tăng cường các biện pháp bảo đảm thi hành Luật Nuôi con nuôi và Công ước La Hay Khóa luận: Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi.
Nhằm bảo đảm thi hành Luật Nuôi con nuôi và Công ước La Hay, cần chú trọng biện pháp tăng cường nhân lực và nguồn lực tài chính thực hiện công tác đăng ký nuôi con nuôi trong nước và nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Hệ thống nguồn nhân lực từ cấp trung ương tới địa phương cần được bổ sung cho đủ biên chế, đội ngũ cán bộ ổn định; có đạo đức tốt và có kinh nghiệm tham gia giải quyết việc nuôi con nuôi; được tập huấn, bồi dưỡng và đào tạo thường xuyên về quy định pháp luật và nghiệp vụ nuôi con nuôi. Đặc biệt, về lâu dài cần phải phát triển nguồn cán bộ công tác xã hội trong lĩnh vực nuôi con nuôi nhằm bảo đảm việc nuôi con nuôi được thực hiện theo cơ chế đa ngành nghề tâm lý, xã hội, gia đình và pháp lý; bảo đảm việc nuôi con nuôi phù hợp với đặc điểm, nhu cầu của trẻ em và phù hợp với chuẩn mực quốc tế.
Bên cạnh đó, tăng cường công tác phối hợp liên ngành trong việc giải quyết nuôi con nuôi nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước cũng như tạo điệu kiện thuận lợi cho việc giải quyết nuôi con nuôi, công tác phối hợp liên ngành ở cấp trung ương và địa phương đều là những biện pháp bảo đảm thi hành pháp luật. Đặc biệt ở địa phương, công tác này có ý nghĩa quan trọng, bảo đảm giải quyết việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài được thực hiện phù hợp với quyền và lợi ích tốt nhất của trẻ em. Trong thời gian tới, cần tăng cường công tác phối hợp liên ngành trong giải quyết việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài .
- Tăng cường công tác tuyên truyền, tập huấn nghiệp vụ, tọa đàm, trao đổi kinh nghiệm, kỹ năng liên quan đến việc nuôi con nuôi
Thường xuyên hoặc định kỳ tổ chức các lớp tập huấn nghiệp vụ, bồi dưỡng kiến thức chuyên sâu, theo chủ đề về pháp luật về nuôi con nuôi để nâng cao trình độ nghiệp vụ của cán bộ làm công tác giải quyết nuôi con nuôi, đảm bảo thực hiện đúng quy trình, nghiệp vụ giải quyết việc nuôi con nuôi trong thực tiễn, trên cơ sở đó đảm bảo được quyền, lợi ích của người nhận nuôi, của con nuôi.
Mở rộng hình thức tuyên truyền, phổ biến pháp luật về nuôi con nuôi phù hợp với điều kiện thực tế của mỗi địa phương, đặc biệt là vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người… để nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của người dân; đặc biệt nhằm thay đổi nếp nghĩ và cách thức cho và nhận con nuôi
Nhằm thích nghi với tình hình mới, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý nhà nước về nuôi con nuôi cũng là nhiệm vụ trọng tâm khi đại dịch bệnh Covid-19 còn kéo dài. Trong giai đoạn tới, cần nghiên cứu, xây dựng và triển khai phần mềm đăng ký nuôi con nuôi liên thông trong nước và nước ngoài trên nền tảng hệ thống Phần mềm hộ tịch dùng chung; xây dựng phần mềm tư vấn trực tuyến về thủ tục giải quyết nuôi con nuôi trong nước và nước ngoài để người dân có thể tiếp cận được các thông tin pháp luật một cách nhanh chóng, hiệu quả và tiết kiệm chi phí.
KẾT LUẬN Khóa luận: Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi.
Trong mỗi giai đoạn lịch sử, việc nhận và nuôi con nuôi nói chung đều hướng tới việc chăm sóc, nuôi dưỡng, thể hiện tình yêu thương đối với trẻ em được nhận nuôi, nhưng đồng thời cũng chịu ảnh hưởng của đạo đức, văn hóa, phong tục tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo của mỗi quốc gia trong từng hoàn cảnh lịch sử. Việc nuôi con nuôi là cơ sở để xác lập các mối quan hệ trong gia đình, thiết lập một thiết chế xã hội cơ bản trong mọi chế độ xã hội, do đó pháp luật các nước luôn có sự điều chỉnh các mối quan hệ nảy sinh từ việc nuôi con nuôi. Đó là yêu cầu, tất yếu, khách quan của sự điều chỉnh pháp luật về nuôi con nuôi, nhằm đảm bảo quyền, lợi ích tốt nhất cho trẻ em được làm con nuôi. Sự điều chỉnh của pháp luật nhằm đảm bảo xác lập môi trường gia đình an toàn, lành mạnh cho sự phát triển về thể chất, nhân cách của trẻ được nhận nuôi, tạo sự gắn kết chặt chẽ các mối liên hệ giữa con nuôi với các thành viên khác của gia đình cha mẹ nuôi, tạo dựng môi trường gia đình bền vững cho trẻ cũng như đảm bảo trật tự xã hội, phù hợp với mô hình gia đình mà nhà nước mong muốn xác lập.
Quy định của pháp luật về nuôi con nuôi trong giai đoạn hiện nay đã có bước tiến bộ vượt bậc so với các quy định trước, từng bước phù hợp với chuẩn mực quốc tế về nuôi con nuôi. Luật Nuôi con nuôi năm 2010 đã thiết lập khung pháp lý thống nhất điều chỉnh việc nuôi con nuôi, tạo thành một chỉnh thể pháp luật đồng bộ điều chỉnh việc nuôi con nuôi; xác lập những nguyên tắc cơ bản giải quyết việc nuôi con nuôi phù hợp với yêu cầu của Công ước La Hay, trên cơ sở đó thiết lập cơ chế giải quyết việc nuôi con nuôi trong sự liên kết chặt chẽ giữa nuôi con nuôi trong nước và nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, nhằm đảm bảo các quyền cơ bản và lợi ích tốt nhất của trẻ em làm con nuôi; xác lập khung pháp lý quan trọng trong hợp tác quốc tế về nuôi con nuôi giữa các nước, nhằm tạo ra cơ chế bảo vệ tốt nhất, hiệu quả nhất đối với trẻ em được cho làm con nuôi ở nước ngoài trong xu thế hội nhập hiện nay. Khóa luận: Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Khóa luận: Nhận và nuôi con nuôi theo pháp luật Việt Nam
Dịch Vụ Viết Luận Văn Ngành Luật 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://vietluanvanluat.com/ – Hoặc Gmail: vietluanvanluat@gmail.com