Luận văn: Thực tiễn Pháp luật về cho công nhận và thi hành tại VN

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Thực tiễn Pháp luật về cho công nhận và thi hành tại VN hay nhất năm 2025 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thạc sĩ thì với đề tài Luận văn: Thực tiễn giải quyết đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của trọng tài nước ngoài và giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.

3.1. Thực tiễn giải quyết đơn yêu cầu về công nhận và cho thi hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài tại Việt Nam.

3.1.1. Tình hình giải quyết đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam các phán quyết của Trọng tài nước ngoài.

Việt Nam đã tham gia công ước New York gần 30 năm, với sự phát triển ngày một mạnh mẽ của các hoạt động thương mại quốc tế, các đơn yêu cầu giải quyết việc CNVCTHPQTTNN cũng ngày một tăng lên. Tuy vậy, các Tòa án tiếp nhận và xử lý các loại việc này vẫn còn nhiều lúng túng dẫn đến một số bất cập, các số liệu thống kê chỉ ra rằng tỷ lệ không công nhận PQTTNN tại Việt Nam “còn ở mức cao so với các nước trong khu vực và trên thế giới, ảnh hưởng đến hiệu quả giải quyết tranh chấp bằng trọng tài”. Thực tiễn áp giải quyết đơn yêu cầu về CNVCTHPQTTNN ở Việt Nam được phản ánh ở một số điểm sau:

Một là, năm 2020, Bộ Tư pháp đã công bố trên trang tin Pháp luật quốc tế, Cổng thông tin điện tử của Bộ Tư pháp, cơ sở dữ liệu về CNVCTH bản án, quyết định của tòa án nước ngoài, PQTTNN (tính từ ngày 01/01/2012 đến ngày 30/9/2019). Theo đó, các tòa án địa phương trên cả nước chỉ thụ lý tổng cộng 82 đơn yêu cầu, trong đó có:

  • 40 đơn yêu cầu được công nhận và cho thi hành (chiếm tỷ lệ 48,8%);
  • 30 đơn yêu cầu bị từ chối công nhận và cho thi hành (chiếm tỷ lệ 36,6%); và 12 đơn yêu cầu bị đình chỉ giải quyết (chiếm tỷ lệ 14,6%)

Sau năm 2019, hiện chưa tìm thấy các thống kê chi tiết cho số lượng các đơn yêu cầu về loại việc này được tổng hợp và công bố chính thức. Tức sau gần 03 năm, các số liệu liên quan chỉ mới được cập nhật đến ngày 30/9/2019, Bộ Tư pháp cũng như TANDTC vẫn chưa tổng hợp, cập nhật và công bố công khai dữ liệu hằng năm. Các số liệu về việc xử lý đơn yêu cầu CNVCTTPQTTNN chỉ ra rằng công tác tổng kết, kiểm tra, đánh giá việc CNVCTTPQTTNN còn hạn chế và chưa nhận được sự quan tâm phù hợp. Ngoài ra, theo một thống kê khác của Vụ Thống kê tổng hợp TANDTC thì từ 2015- 2022, số lượng các yêu cầu CNVCTHPQTTNN tại Việt Nam mại ngày càng tăng (năm 2015 có 05 việc; năm 2016 có 09 việc; năm 2017 có 07 việc; năm 2018 có 20 việc; năm 2019 có 64 việc; năm 2020 có 74 việc; năm 2021 có 53 việc; năm 2022 có 52 việc). Có thể thấy số lượng vụ việc yêu cầu CNVCTHPQTTNN đều khá lớn, tuy nhiên vẫn còn nhiều bất cập nhất định dẫn tới việc có nhiều ý kiến tranh cãi xoay quanh các quyết định không công nhận PQTTNN tại Việt Nam của Tòa án. Tuy nhiên, thực tế chỉ ra rằng chưa có thẩm phán chuyên trách có kinh nghiệm đối với loại việc dân sự này. Việc Tòa án không công nhận PQTTNN với tỷ lệ cao mà không có cơ sở, căn cứ thuyết phục có thể gây ra nhiều hệ lụy, gián tiếp có thể tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vi phạm các thỏa thuận hợp đồng và làm cho các nhà đầu tư nước ngoài mất niềm tin khi đầu tư kinh doanh với các đối tác Việt Nam.

Hai là, các vụ việc về công nhận PQTTNN chỉ được tập trung giải quyết ở các tòa án lớn, nơi các hoạt động giao thương quốc tế diễn ra mạnh mẽ và là nơi đặt trụ sở các các doanh nghiệp là một bên trong các yêu cầu công nhận này. Cũng theo thống kê trên, các Tòa án có số lượng giải quyết loại việc này từ 5 vụ việc trở lên chỉ gồm: tòa án Hà Nội (15 vụ), tòa án thành phố Hồ Chí Minh (38 vụ), Tòa án Bình Dương (5 vụ), tòa án Long An (5 vụ). Như vậy có thể thấy số lượng tòa án giải quyết yêu cầu loại vụ việc này không nhiều, chỉ tập trung ở một số tòa án mà lớn nhất là ở Thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Theo quy định của pháp luật thì Tòa án có thẩm quyền công nhận PQTTNN là TAND cấp tỉnh “nơi bên phải thi hành PQTTNN cư trú làm việc, có trụ sở hoặc nơi có tài sản liên quan đến việc thi hành PQTTNN” mà các công ty có hoạt động giao thương với nước ngoài trên thực té đa số tập trung ở các thành phố lớn. Do đó, cũng dễ hiểu khi phần lớn các Tòa án trên cả nước không giải quyết loại việc này trên thực tế mà chỉ tập trung ở các Tòa án của các tỉnh thành lớn. Tuy nhiên, cũng vì vậy các kinh nghiệm giải quyết loại vụ việc cũng sẽ bị hạn chế nhất định khi cần trao đổi kinh nghiệm trong quá trình giải quyết và các loại việc này cũng không nhận được sự quan tâm đúng mực của các cơ quan pháp luật trong bối cảnh hội nhập toàn cầu và ngày càng có nhiều yêu cầu công nhận được gửi tới các Tòa án như hiện nay. Luận văn: Thực tiễn Pháp luật về cho công nhận và thi hành tại VN.

Ba là, qua thực tiễn xử lý đơn yêu cầu công nhận PQTTNN có thể nhận thấy, chỉ có một số các căn cứ phổ biến mà Tòa án thường viện dẫn để không công nhận PQTTNN tại Việt Nam, ngoài ra các căn cứ khác thường ít khi hoặc không được viện dẫn. Các căn cứ không cho công nhận PQTTNN tại Việt Nam trên thực tế bao gồm:

  • Có 24/30 trường hợp (chiếm 80% trên tổng số đơn yêu cầu bị từ chối) với căn cứ là: các bị đơn trong vụ kiện đã “không được Hội đồng trọng tài thông báo kịp thời và hợp lệ các tài liệu liên quan đến tố tụng trọng tài vì vậy các bị đơn đã không được thực hiện hoặc hạn chế trong việc thực hiện quyền tố tụng của mình”;
  • Có 8/30 trường hợp (chiếm 27% trên tổng số đơn yêu cầu bị từ chối) với căn cứ là: “thỏa thuận trọng tài không có giá trị pháp lý, không được ký kết hợp lệ bởi người đại diện có thẩm quyền của bị đơn hoặc không có năng lực để ký kết thỏa thuận trọng tài; hoặc Hội đồng trọng tài giải quyết sai thẩm quyền”.
  • Có 6/30 trường hợp (chiếm 20% trên tổng số đơn yêu cầu bị từ chối) với căn cứ là: PQTTNN “vi phạm nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”. (Chú thích: đa số các PQTTNN bị từ chối với nhiều hơn một lý do)

Không phải căn cứ nào được Tòa án viện dẫn để từ chối không CNVCTHPQTTNN cũng có cơ sở hợp lý, đa số do quy định pháp luật còn nhiều điểm chưa được hướng dẫn cụ thể và quá trình áp dụng các quy định của pháp luật về vấn đề này còn nhiều bất cập dẫn đến việc có nhiều phán quyết của Tòa án về loại việc này còn gây tranh cãi, nhất là các phán quyết về việc không công nhận PQTTNN ở Việt Nam.

3.1.2. Những bất cập, hạn chế trong thực tiễn giải quyết yêu cầu về công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài tại Việt Nam. Luận văn: Thực tiễn Pháp luật về cho công nhận và thi hành tại VN.

Từ thực tiễn của việc xử lý đơn yêu cầu CNVCTHPQTTNN tại Việt Nam hiện nay, có thể nhận thấy một số bất cập, hạn chế sau:

3.1.2.1. Bất cập trong việc xác định vi phạm các quy định về nghĩa vụ thông báo

Bên đương sự phải thi hành án trong quá trình tố tụng trọng tài cần phải “được thông báo kịp thời và hợp thức về việc chỉ định trọng tài viên, về thủ tục giải quyết vụ tranh chấp tại TTNN” hoặc những thông tin “vì nguyên nhân chính đáng khác mà không thể thực hiện được quyền tố tụng của mình” theo Điều 459.1(c) BLTTDS 2015. Để có thể áp dụng pháp luật một cách đúng đắn liên quan tới vấn đề này, khi Tòa án xem xét việc một bên đương sự có vi phạm về việc gửi thông báo theo Hợp đồng hay việc Hội đồng trọng tài gửi thông báo, giấy tờ, tài liệu, thông báo về thủ tục giải quyết, chỉ định Trọng tài viên… thì phải xem xét một cách toàn diện trên cơ sở các quy định của pháp luật điều chỉnh tố tụng trọng tài trong quá trình giải quyết, pháp luật nơi Hội đồng trọng tài được thành lập cũng như các Điều ước, Hiệp định quốc tế mà Việt Nam là thành viên có liên quan… Vì đây là căn cứ nhằm đảm bảo quyền tiếp cận công lý của các bên, theo đó, các bên phải được trao cơ hội một cách công bằng để tham gia tranh tụng nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích của mình. Tuy nhiên, dưới góc độ thực tế, khi Tòa án xem xét, đánh giá hồ sơ cụ thể cần phải xem xét đến các “thói quen thương mại” mà các bên đã thực hiện cũng như không xem xét một các tùy tiện, hay chỉ dựa vào việc diễn giải pháp luật Việt Nam một cách đơn lẻ, không xem xét đến tương quan của pháp luật TTNN được các bên áp dụng. Chẳng hạn, khi Trọng tài gửi tài liệu hoặc thông báo liên quan tới vụ việc qua email cá nhân, Tòa án đã không xem xét trong quá trình giao dịch, ký kết hoặc thực hiện hợp đồng các bên có liên lạc, giao dịch với nhau qua địa chỉ email đó không, mà lại cho rằng liên lạc với pháp nhân qua email cá nhân cán bộ doanh nghiệp là không hợp thức, doanh nghiệp không nhận được… Hay trường hợp, Tòa xác định việc thông báo phải được người đại diện pháp luật của doanh nghiệp hoặc người được đại diện hợp pháp của doanh nghiệp trực tiếp nhận thì mới được chấp nhận và việc thông báo mới được xem là đã được thực hiện. Trên thực tế, Toà án thường căn cứ vào quy định trong BLTTDS về tống đạt, thông báo để xem xét, đánh giá và cho rằng Hội đồng trọng tài đã vi phạm việc thông báo về chỉ định Trọng tài viên, về thủ tục giải quyết tranh chấp… hay một bên yêu cầu đã không thể chứng minh việc được việc thông báo cho bên phải thi hành theo đúng thỏa thuận. Theo đó, việc giải thích máy móc do nhận thức sai lầm của cơ quan Tòa án nên việc áp dụng pháp luật đã không được thực hiện đúng đắn, dẫn đến việc viện dẫn căn cứ này để từ chối không CNVCTHPQTTNN gây ra nhiều bất cập thực tế trong quá trình giải quyết.

Ví dụ: Quyết định số 25/2018/QDKDTM-PT ngày 28/6/2018 của TANDCC tại TP HCM. Tại Quyết định sơ thẩm số “01/2017/QĐKDTM-ST” ngày 29/12/2017, TAND TP. Cần Thơ đã quyết định không CNVCTH tại Việt Nam phán quyết của Tổ chức trọng tài Thụy Sỹ giữa người được thi hành là C PTE LTD với người phải thi hành là Công ty TNHH Sản xuất và Kinh doanh P. Tại Quyết định phúc thẩm số 25/2018/QĐKDTM-PT ngày 28/6/2018, TANDCC tại TP. Hồ Chí Minh đã giữ nguyên Quyết định sơ thẩm. Quan điểm của cả Tòa sơ thẩm và phúc thẩm là “không có bằng chứng nào xác định Bên phải thi hành có được thông báo hợp lệ về việc chỉ định trọng tài viên và thủ tục giải quyết tranh chấp TTNN”. Do đó áp dụng Điều 459.1(c) BLTTDS 2015, Tòa án quyết định không CNVCTHPQTT của Trung tâm trọng tài Thụy Sỹ. Luận văn: Thực tiễn Pháp luật về cho công nhận và thi hành tại VN.

Trong bản án phúc thẩm nêu rõ: “Công ty TNHH P không nhận được thông báo về việc chỉ định trọng tài viên và thủ tục giải quyết tranh chấp TTNN, lý do hồ sơ vụ kiện cũng như tại phiên họp sơ, phúc thẩm không thể hiện Công ty TNHH P nhận được thông báo, triệu tập, tống đạt các giấy tờ liên quan đến việc giải quyết của TTNN.…. Như vậy căn cứ điểm c khoản 1 Điều 459 BLTTDS 2015, thì phán quyết của TTNN cũng không được chấp nhận và cho thi hành tại Việt Nam”.

Nhận xét: Ở Quyết định số 25/2018/QDKDTM-PT này, Tòa án đã nhận định rằng “các văn bản thông báo của Trung tâm trọng tài hoặc Hội đồng trọng tài liên quan tới vụ việc tranh chấp, bắt buộc phải được giao trực tiếp cho người đại diện theo pháp luật hoặc người đã được chỉ định/ủy quyền hợp pháp của người phải thi hành”. Tuy nhiên, trên thực tế thì các giấy tờ, văn bản này đã được giao cho một số bộ phận không có liên quan như lễ tân, bảo vệ của tòa nhà nơi có trụ sở của người phải thi hành. Do vậy, không có căn cứ để xét CNVCTHPQTTNN mặc dù Công ty C (phía đương sự yêu cầu thi hành) đã cung cấp một số xác nhận của đơn vị dịch vụ vận chuyển có chữ ký của người nhận phù hợp với thời gian gửi các văn bản tố tụng. Nhận định này của Tòa án cho thấy việc áp dụng máy móc các quy định của pháp luật Việt Nam mà bỏ qua các “thói quen thương mại” về giao nhận vốn rất phổ biến trong giao thương quốc tế. Thực tế tập quán giao nhận thư từ qua chuyển phát nhanh quốc tế thường sẽ do người đại diện Tòa nhà tiếp nhận và chuyển tới người đại diện của công ty đặt trụ sở là hết sức bình thường, chứ không nhất thiết người nhận được thông báo trực tiếp phải là “người đại diện pháp luật hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp”. Trường hợp này, dù cho phía đương sự yêu cầu CNVCTH đã cung cấp chứng cứ chứng minh về việc gửi thông báo cho bên phải thi hành đã được thực hiện trên thực tế thì vẫn không được Tòa xem xét (mặc dù về mặt lý thuyết thì trách nhiệm chứng minh thuộc về bên phải thi hành chứ không phải bên có yêu cầu thi hành). Đây là một bất cập cần được lưu ý xem xét trong quá trình xử lý yêu cầu CNVCTH PQTTNN tại Việt Nam. Luận văn: Thực tiễn Pháp luật về cho công nhận và thi hành tại VN.

Hay như Quyết định số 39/2021/QĐ-PT ngày 27/5/2021 của Tòa án nhân dân cấp cao tại TP HCM. Tại Quyết định sơ thẩm số 1603/2020/QĐST-KDTM ngày 25/9/2020, TAND TP. Hồ Chí Minh đã quyết định CNVCTH tại Việt Nam PQTT của Trung tâm trọng tài quốc tế Thượng Hải giữa người được thi hành là Công ty W (Trung Quốc) và người phải thi hành là Công ty Nhật H. Tuy nhiên, tại Quyết định phúc thẩm số 39/2021/QĐ-PT ngày 27/5/2021, TANNCC tại TP. Hồ Chí Minh đã có quyết định không CNVCTHPQTTNN tại Việt Nam và đưa ra quan điểm đối lập so với quan điểm của cả Tòa sơ thẩm về việc viện dẫn quy định Điều 459.1(c) BLTTDS 2015. Quan điểm cụ thể của Tòa phúc thẩm như sau: “Vào ngày 12/4/2019, SHIAC đã mở phiên điều trần lần thứ nhất tại địa điểm của SHIAC nhưng người phải thi hành không xuất hiện hoặc chỉ định người đại diện tham dự phiên điều trần nên SHIAC quyết định mở phiên điều trần thứ hai vào ngày 21/4/2019. Trong vụ việc này, Tòa án cấp phúc thẩm nhận định rằng xét về trình tự thời gian, việc bắt đầu chuyển tài liệu cho Công ty Nhật H. từ ngày 18/4/2019 như trình bày của Công ty 2019 là không đảm bảo cho Công ty Nhật H. có đủ thời gian hợp lý để chuẩn bị cho việc tham gia phiên điều trần ngày 21/4/2019. Mặt khác, căn cứ vào các tài liệu do Công ty Nhật H. xuất trình thì Ban Thư ký của SHIAC gửi cho người phải thi hành vào ngày 24/4/2019 thông báo về phiên điều trần lần thứ hai và yêu cầu Công ty Nhật H phải trả lời trong thời hạn 5 ngày. Xét bìa của bưu phẩm cho thấy đến ngày 29/4/2019, Ban Thư ký của SHIAC mới gửi cho DHL và Hồ sơ chuyển phát nhanh của DHL đã thể hiện giao thành công cho người phải thi hành là Công ty Nhật H cũng vào ngày 29/4/2019. Do đó, Tòa án nhận định rằng ý kiến trình bày của người phải thi hành tại phiên họp phúc thẩm xét đơn yêu cầu cho rằng chưa được tống đạt hợp lệ hồ sơ khiếu nại, bằng chứng của bên yêu cầu nộp cho SHIAC cũng như các văn bản của Ủy ban Trọng tài là có cơ sở”.

Nhận xét: Ở quyết định số 39/2021/QĐ-PT ngày 27/5/2021 này, bên đương sự phải thi hành cho rằng “khoảng thời gian kể từ thời điểm nhận được văn bản của Trung tâm trọng tài hoặc Hội đồng trọng tài cho đến khi tham gia phiên họp giải quyết tranh chấp là quá ngắn và không hợp lý. Lý do được xác định là do họ nhận được văn bản của Trung tâm trọng tài hoặc Hội đồng trọng tài vào thời gian muộn hơn so với quy định của thủ tục tố tụng trọng tài. Tuy nhiên, họ vẫn tham gia các phiên họp giải quyết tranh chấp của Hội đồng trọng tài và điều này là bất lợi, không khách quan đối với đương sự”. Tòa án sơ thẩm đã quyết định CNVCTH tại Việt Nam vì không chấp nhận quan điểm của công ty Nhật H như trên. Rõ ràng, Tòa án cấp sơ thẩm đã có thiếu sót, và chưa đánh giá đúng các tình tiết vụ việc vì mấu chốt của quy định về việc thông báo là để đảm bảo tính công bằng, bình đẳng cho các bên trong quá trình tố tụng. Việc áp dụng máy móc việc có thông báo nhưng lại không xét đến tính hợp lý về mặt thời gian thông báo để đảm bảo tính khách quan của việc thông báo đã làm cho Tòa án sơ thẩm ra quyết định CNVCTHPQTTNN này mà bỏ qua nguyên tắc đảm bảo quyền và lợi ích của đương sự. Tuy nhiên, Tòa án cấp phúc thẩm đã có quan điểm hợp lý khi phản bác lại quan điểm của Tòa sơ thẩm và tuyên không CNVCTHPQTTNN. Điều này giúp đảm bảo quyền tiếp cận công bằng của đương sự và không viện dẫn máy móc quy định tại Điều 459.1(c) BLTTDS 2015 gây ảnh hưởng tới quyền lợi hợp pháp của bên phải thi hành. Luận văn: Thực tiễn Pháp luật về cho công nhận và thi hành tại VN.

Việc các cấp Tòa án có quan điểm khác nhau trong quá trình xét xử cũng chỉ ra rằng thực tế các quy định liên quan tới CNVCTHPQTTNN còn chưa được hướng dẫn chi tiết, có nhiều cách giải thích khác nhau được áp dụng cho cùng một vấn đề pháp lý. Do đó, trong thực tiễn xét xử vẫn còn nhiều hạn chế nhất định, làm mất thời gian của các bên, ảnh hưởng quyền lợi hợp pháp của một bên đương sự cũng như kéo dài quá trình tố tụng, làm tốn kém nguồn lực nhà nước của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

3.1.2.2. Bất cập trong việc xác định thỏa thuận trọng tài vô hiệu hay người ký kết thỏa thuận không đủ năng lực ký kết

Đối với trường hợp Tòa án cho rằng “thỏa thuận trọng tài không có giá trị pháp lý”, được thể hiện dưới nhiều dạng khác nhau. Trường hợp phổ biến là xác định năng lực của người ký kết hợp đồng, qua đó xác định giá trị pháp lý của hợp đồng cũng như thỏa thuận trọng tài. Thực tế, “có trường hợp người đại diện hợp pháp của pháp nhân ký kết hợp đồng, sau đó bên đương sự này và Tòa án cho rằng người ký kết hợp đồng đã vượt quá “thẩm quyền”, theo đó, người này không đủ năng lực để ký kết hợp đồng và Hợp đồng vô hiệu, thỏa thuận trọng tài cũng vô hiệu theo. Do đó, việc trọng tài thụ lý giải quyết khi thỏa thuận trọng tài bị vô hiệu là vi phạm thẩm quyền”. Một vấn đề cần lưu ý việc viết xác định giá trị pháp lý của thỏa thuận trọng tài là có tính độc lập tương đối so với hợp đồng thương mại, hợp đồng chính. Dù thỏa thuận trọng tài có được ghi nhận trong hợp đồng thương mại hay nằm trong một văn bản riêng thì thỏa thuận trọng tài vẫn có tính độc lập tương đối của nó. Do đó, dù hợp đồng chính, giao dịch thương mại bị vô hiệu, nhưng thỏa thuận trọng tài vẫn có giá trị pháp lý. Ngoài ra, vì các bên tham gia trong các PQTTNN là những pháp nhân đến từ hai quốc gia, do đó việc xác định năng lực ký kết thỏa thuận trọng tài cũng bắt buộc phải được xem xét dựa vào pháp luật được áp dụng cho mỗi bên..

Ví dụ: Tại Quyết định số 25/2018/QDKDTM-PT ngày 28/6/2018 của TANDCC tại TPHCM nêu trên, Tòa phúc thẩm đã “giữ nguyên Quyết định sơ thẩm theo đó không cho CNVCTHPQTTNN tại Việt Nam dựa trên nhận định người ký kết hợp đồng có thỏa thuận trọng tài không có thẩm quyền ký kết”. Vấn đề đặt ra là người tham gia ký hợp đồng không phải là người đại diện của Công ty TNHH Sản xuất và Kinh doanh P và cũng không được Công ty P ủy quyền bằng văn bản. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện hợp đồng, các bên đã hoàn tất việc giao nhận hàng hóa và đã thanh toán xong tiền hàng cho các lô hàng trên, đồng thời các bên cũng đã có sự xác nhận về các giao dịch đó trên thực tế và không nhận được bất kỳ sự phản đối nào. Do đó, mặc dù tại thời điểm ký kết, người ký không phải đại diện pháp luật của công ty P nhưng có thể nhận định rằng “trong quá trình xác lập, thực hiện thỏa thuận trọng tài hoặc trong tố tụng trọng tài mà người có thẩm quyền xác lập thỏa thuận trọng tài đã chấp nhận hoặc đã biết mà không phản đối thì thỏa thuận trọng tài không vô hiệu” nên việc áp dụng “điểm a khoản 1 Điều 459 BLTTDS 2015” để không CNVCTHPQTTNN của tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm là “chưa đầy đủ cơ sở, không thuyết phục”. Luận văn: Thực tiễn Pháp luật về cho công nhận và thi hành tại VN.

Trong một trường hợp khác, tại quyết định số 66/2022/QĐ-PT ngày 22/9/2022 của TANNCC tại TP HCM, có thể thấy Tòa án các cấp đã lập luận thuyết phục hơn về cơ sở này. Liên quan tới vấn đề “thẩm quyền ký kết thỏa thuận trọng tài”, lập luận của bên phải thi hành về việc “người ký thỏa thuận trọng tài không có thẩm quyền” đã bị tòa án bác bỏ, vì lý do không phù hợp với thông lệ mua bán giữa hai bên trong Hợp đồng. Quan điểm của Tòa án phúc thẩm có đoạn như sau: “Thực tế, thông qua ông L Phan thì Công ty Đ và LDC đã ký kết và thực hiện xong hai Hợp đồng mua bán số 4925 ngày 18/01/2018 và số 4879 ngày 30/04/2018. Hợp đồng mua bán số E0-S05117 ngày 12/7/2018 giữa LDC với Công ty Đ (BL: 184 196), Hợp đồng mua bán số E0-S05117 sửa đổi ngày 18/7/2018 (BL: 171-183), Hợp đồng mua bán số E0- S05117 sửa đổi vào các ngày 13/11/2018, ngày 15/11/2018 và ngày 17/11/2018 (BL: 158-170) được chứng thực, hợp pháp hóa lãnh sự ngày 20/01/2021 và được dịch sang tiếng Việt ngày 18/02/2021, cũng đều thông qua ông L Phan thỏa thuận, đàm phán và sửa đổi hợp đồng nhiều lần”. Như vậy có thể thấy rằng nếu xét đơn lẻ một giao dịch thì có thể nhận thấy “người ký thỏa thuận trọng tài không có thẩm quyền ký kết”, tuy nhiên việc xem xét tập quán thương mại trước đó giữa các bên đã có nhiều giao dịch trước đó là phù hợp với tập quán thương mại quốc tế cũng như thông lệ quốc tế nói chung. Do đó nhận định của Tòa có thể được xem là hợp lý và linh hoạt, có sự xem xét thấu đáo, thể hiện sự cẩn trọng của Tòa án Việt Nam, tránh trường hợp viện dẫn quy định từ chối không phù hợp.

Có thể thấy, trong thực tiễn giải quyết liên quan tới CNVCTHPQTTNN tại Việt Nam, việc xác định giá trị pháp lý của Thỏa thuận trọng tài (chủ yếu liên quan tới việc xác định người ký kết Hợp đồng đủ thẩm quyền) đã đặt ra nhiều vấn đề cần quan tâm. Rõ ràng, quy định tại “điểm a Khoản 1 Điều 459 BLTTDS 2015” yêu cầu tòa án xét đơn phải căn cứ vào “pháp luật được áp dụng cho mỗi bên” để xác định “năng lực, thẩm quyền của người ký kết thỏa thuận trọng tài”. Việc áp dụng pháp luật Việt Nam để xác định “năng lực ký kết thỏa thuận trọng tài” của bên nước ngoài là chưa phù hợp. Các Tòa án dường như gặp nhiều lúng túng khi phải xem xét vấn đề này, lý do lớn nhất đến từ việc các Tòa án hầu như chỉ căn cứ vào pháp luật Việt Nam khi xem xét và đánh giá chứng cứ, hồ sơ mà chưa quan tâm tới các tập quán thương mại chung hay quy định pháp luật của nước ngoài, nơi pháp luật tố tụng trọng tài được áp dụng. Do đó, đối với các bản án đã nêu trên, tòa án phải áp dụng nguyên tắc xung đột pháp luật để xác định. Cụ thể, đối với bên nước ngoài, nên vận dụng các quy định liên quan tại BLTTDS 2015 như Điều 466 về năng lực pháp luật tố tụng dân sự và năng lực hành vi tố tụng dân sự của người nước ngoài và Điều 467 về năng lực pháp luật tố tụng dân sự của cơ quan, tổ chức nước ngoài, chi nhánh, văn phòng đại diện tại Việt Nam của cơ quan, tổ chức nước ngoài và tổ chức quốc tế, cơ quan đại diện của tổ chức quốc tế tại Việt Nam, nhà nước nước ngoài. Đây là một vấn đề cần được hướng dẫn chi tiết để các Tòa án có cơ sở xem xét và áp dụng pháp luật đúng tinh thần của quy định trên thực tế.

3.1.2.3. Bất cập trong việc áp dụng cơ sở “trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam” Luận văn: Thực tiễn Pháp luật về cho công nhận và thi hành tại VN.

Như đã phân tích ở chương 2, Công ước New York cho phép Tòa án nơi được yêu cầu CNVCTH từ chối nếu việc CNVCTHPQTTNN “trái với trật tự công cộng của quốc gia đó”. Tuy nhiên, khác với các căn cứ khác, Công ước không xác định nội hàm của khái niệm “trật tự công” mà để các quốc gia thành viên tự quyết định. Tại Việt Nam, Tòa đã sử dụng thuật ngữ “trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” để áp dụng căn cứ “điểm b khoản 2 Điều 459 BLTTDS 2015”. Thuật ngữ này cũng được xác định trong điểm đ Điều 14 Nghị quyết số 01/2014/ là “các nguyên tắc xử sự cơ bản có hiệu lực bao trùm đối với việc xây dựng và thực hiện pháp luật Việt Nam”. Tuy nhiên, thực tế trong các nhận định của Tòa án đều không nêu rõ cơ sở của quy định này, dẫn tới việc dẫn chiếu thiếu minh bạch và không có cơ sở rõ ràng.

Ví dụ: Tại quyết định số 25/2018/QDKDTM-PT ngày 28/6/2018 của TANDCC tại TP HCM đã nêu ở trên, TANDCC tại TP. Hồ Chí Minh cho rằng “không có tài liệu nào xác định tính hiệu lực của PQTTNN, không có cơ quan có thẩm quyền của Thụy Sỹ xác nhận phán quyết Trọng tài, theo đó dựa vào các căn cứ điểm a, c, d Khoản 1 và điểm b khoản 2 Điều 459 BLTTDS 2015: Quyết định giữ nguyên Quyết định sơ thẩm, không CNVCTHPQTT của Tổ chức trọng tài Thụy Sĩ”. Đối với căn cứ “điểm b Khoản 2 Điều 459 BLTTDS” là “Trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Tòa đã viện dẫn quy định này mặc dù trong phần nhận định của Tòa án đều không có luận điểm nào diễn giải trực tiếp về căn cứ “điểm b Khoản 2 Điều 459 BLTTDS”. Trong khi đó, tại mục quyết định thì lại có căn cứ vào “điểm b Khoản 2 Điều 459 BLTTDS”. Để đảm bảo không áp dụng căn cứ một cách tùy tiện, nếu được, có nên chăng, Tòa nên nói rõ lý do áp dụng “điểm b Khoản 2 Điều 459 BLTTDS” và giải thích tại sao lại “vi phạm nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”.

Hay như tại Bản án số 09/2023/HS-PT ngày 17/01/2023 của TANDCC tại TP Hà Nội. Ở phiên Tòa phúc thẩm, TANDCC tại TP. Hà Nội đã “giữ nguyên Quyết định sơ thẩm, không CNVCTH tại Việt Nam PQTTNN giữa người được thi hành là GLOBAL PAYMENT SE và UTC INVESTMENT CO., LTD (Hàn Quốc); người phải thi hành là Công ty Cổ phần truyền thông VMG”.

Liên quan đến việc giải thích và áp dụng “Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”, Tòa đã viện dẫn các cơ sở như sau:

Về vi phạm thủ tục tố tụng trọng tài: khi HĐTT đã biết ý kiến phản đối của Bị đơn nhưng vẫn tổ chức phiên Tiền điều trần đã làm cho Bị đơn không thực hiện được đầy đủ các quyền tố tụng của mình trong quá trình giải quyết vụ kiện vì lý do khách quan. Và đây là một trong các căn cứ để Tòa án không CNVCTHPQTTNN (điểm c khoản 1 Điều 459 BLTTDS 2015). Điều này cũng dẫn tới không đảm bảo quyền bình đẳng của các bên nên cũng được xem là “vi phạm nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”.

Về việc xác định HĐTT vi phạm quy định đối xử công bằng đối với Bị đơn, theo đó bị đơn đã đề nghị HĐTT lùi thời gian xét xử với 03 lý do, một trong số đó là vì “Chưa có kết quả trả lời của TANDTC”. Tuy nhiên, HĐTT không đồng ý lùi thời hạn xét xử để đợi kết quả giải quyết Đơn tái xét của Bị đơn, đồng thời vẫn sử dụng chứng cứ là Bản án của Tòa Phú Thọ đang trong quá trình xem xét đề nghị giám đốc thẩm để đưa ra phán quyết. Việc HĐTT không đồng ý với đề xuất chờ kết quả giải quyết Đơn tái xét của Bị đơn, đồng thời vẫn áp dụng những nhận định sai lầm của Tòa Phú Thọ và những đánh giá sai lầm của Nhân chứng chuyên gia của Nguyên đơn (ông Phong) khi xét xử và ban hành PQTT là sự “đối xử không công bằng”, tước đi “cơ hội được trình bày đầy đủ” đã vi phạm quy định tại Điều 459.1(đ) BLTTDS 2015. Điều này cũng được xem là “vi phạm nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”. Luận văn: Thực tiễn Pháp luật về cho công nhận và thi hành tại VN.

Về việc xác định luật áp dụng: tại mục 4, 5 của Đơn khởi kiện nguyên đơn đã đưa ra các yêu cầu bồi thường khác nhau, trong đó mục 5 xác định Yêu cầu khởi kiện bổ sung theo Đạo luật về cam đoan sai sự thật của VMG và áp dụng Luật của Singapore để ra phán quyết là không đúng vì đây là “yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” dựa trên những nhận định chưa chính xác của bản án sơ thẩm của TAND tỉnh Phú Thọ (đã được TANDTC Việt Nam xác định lại vấn đề này), HĐTT đã xét xử yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về buộc VMG phải bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và áp dụng Đạo luật về cung cấp thông tin sai sự thật của Singapore đối với một hợp đồng mua bán cổ phần của nguyên đơn và VMG được ký kết và thực hiện tại Việt Nam mà không căn cứ vào các quy định tại Chương XX Bộ luật dân sự 2015 để xét xử và ra phán quyết là “trái với quy định nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam” theo quy định tại BLTTDS 2015.

Như vậy, Tòa án Việt Nam đã kết luận: “Hội đồng trọng tài đã ra phán quyết khi có vi phạm về thủ tục tố tụng (điểm c khoản 1 Điều 459 BLTTDS) đã không đảm bảo quyền bình đẳng của các bên theo quy định tại điều 3 Bộ luật dân sự 2015, Điều 8 BLTTDS 2015; Điều 4 LTTTM là các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam nên phải bị từ chối theo Điều 5 Công ước New York”. Có thể thấy bất kỳ một căn cứ nào cũng có thể được quy về “các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”, từ các nguyên tắc của Luật Thương mại, Luật Dân sự cho đến BLTTDS. Phạm vi quá rộng của nguyên tắc này sẽ dẫn đến nhiều mâu thuẫn vì không có cơ sở pháp lý cụ thể mà chủ yếu dựa trên sự giải thích và nhận định của Tòa án, trên cơ sở dẫn chiếu qua các quy định pháp luật của các Luật khác ở Việt Nam. Cách quy định này chưa cụ thể dẫn đến nhiều cách hiểu và áp dụng không thống nhất ở tòa án các cấp.

3.2. Phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về về công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài tại Việt Nam. Luận văn: Thực tiễn Pháp luật về cho công nhận và thi hành tại VN.

3.2.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam về công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài

Thứ nhất, cần phải tập trung hoàn thiện và xây dựng cơ sở pháp lý đối với lĩnh vực CNVCTHPQTTNN một cách chắc chắn, đảm bảo vấn đề hợp pháp và hợp hiến. Điều này đòi hỏi quy định pháp luật đối với vấn đề tố tụng nói riêng và pháp luật về CNVCTHPQTTNN nói riêng hoạt động một cách hiệu quả, mạnh mẽ thích ứng được với nhưng vấn đề thực tế đang đặt ra cho hệ thống Tư pháp Việt Nam.

Thứ hai, dưới những vấn đề mà thực tiễn đặt ra đối với vấn đề này, một đòi hỏi mang tính chất cấp thiết trong việc hoàn thiện pháp luật chính là phải đảm bảo sự đồng nhất, hiệu quả hóa các quy định pháp luật Việt Nam. Điều này hỗ trợ việc giảm thiểu tình trạng cùng một vấn đề nhưng có quá nhiều văn bản quy phạm pháp luật quy định, tránh sự trùng lặp, mâu thuẫn, từ đó tạo ra được môi trường pháp lý ổn định, dễ áp dụng và hiệu quả. Đặc biệt trong khoảng thời gian vừa qua khi Việt Nam đã và đang gia nhập một lượng lớn các hiệp định song phương, đa phương, các điều ước quốc tế thì việc xem xét và đánh giá các tác động của những điều ước quốc tế, hiệp định này đối với môi trường pháp lý của Việt Nam là điều cấp bách và cần thiết. Vấn đề nội luật hóa những quy định này được đặt ra cho cơ quan soạn thảo luật đòi hỏi trình độ pháp lý của các nhà làm luật, tính bao quát, phổ quát của những quy định pháp luật khi được ban hành cũng cần được tính đến. Vấn đề không chỉ dừng lại ở câu chuyện lập pháp mà còn là vấn đề thực thi pháp luật trong hệ thống tư pháp.

Thứ ba, vấn đề hiệu quả của một PQTTNN lại phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố thừa nhận giá trị pháp lý và việc bảo đảm thực thi phán quyết này của quốc gia, nơi mà PQTTNN cần thực thi. Điều này mang ý nghĩa to lớn và quan trọng đối với những tranh chấp thương mại được giải quyết bằng con đường trọng tài khi mà tài sản thực thi phán quyết, địa điểm giải quyết tranh chấp, yếu tố chủ thể thuộc các nước khác nhau, nơi thực hiện hợp đồng… ở các lãnh thổ khác nhau. Vấn đề đặt ra ở đây cho cơ quan CNVCTHPQTTNN chính là cân bằng lợi ích. Cân bằng lợi ích ở đây không chỉ đơn thuần là giữa những đương sự mà còn là cân bằng lợi ích của quốc gia, của nhà nước và xã hội. Yếu tố công cộng được đặt ra cho cơ quan thực thi phán quyết, pháp luật Việt Nam không sử dụng cụm từ “trật tự công cộng” như công ước New York hay một số nước khác như Trung quốc, thay vào đó pháp luật Việt Nam sử dụng cụm “các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”, một thuật ngữ này cũng đã được hướng dẫn tại Nghị quyết số 01/2014. Rõ ràng nội hàm này cực kì rộng và khó xác định một cách minh thị khi mà năng lực của các thẩm phán hiện nay đối với các bản án, phán quyết của tòa án, PQTTNN còn có phần hạn hẹp. Những nguyên tắc cơ bản này một lần nữa cần được nghiên cứu một cách cụ thể, hoàn thiện hơn nữa trong các văn bản hướng dẫn của Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao và đặc biệt sự phát triển của án lệ hiện nay đối với vấn đề này cần được nâng cao. Điều này đảm bảo tính kế thừa, trên cơ sở tổng kết, đánh giá các quy định của pháp luật hiện nay, kinh nghiệm và thực tiễn giải quyết các yêu cầu CNVCTHPQTTNN. Luận văn: Thực tiễn Pháp luật về cho công nhận và thi hành tại VN.

Thứ tư, bên cạnh vấn đề cân bằng lợi ích, vấn đề đảm bảo lợi ích cũng như trách nhiệm, vai trò của cá nhân, cơ quan nhà nước đối với việc CNVCTHPQTTNN cũng là một trong những yếu tố không thể thiếu trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp lý. Đảm bảo quyền tiếp cận công lý trong tố tụng dân sự theo đúng với tinh thần của Đảng và nhà nước. Điều này đòi hỏi hệ thống pháp luật nội dung cần được hoàn thiện hơn nữa nhằm tiên liệu được những vấn đề mang tính chất cấp thiết của xã hội. Một trong những vấn đề khi người dân sợ “pháp đình” chính là sự phức tạp của các thủ tục và nhiều giai đoạn có phần phức tạp và khó hiểu. Vì vậy nhằm tăng cường quyền tiếp cận công lý cho các bên, các quy định pháp luật phải đảm bảo trình tự và thủ tục tố tụng dân sự dân chủ, công khai, đơn giản hóa, công bằng cho các bên tham gia tố tụng thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình.

Cuối cùng, quá trình xây dựng LTTTM 2010 của Việt Nam đã tiếp thu rất nhiều quy định của Luật Mẫu, tuy nhiên vướng mắc khiến cho số lượng PQTTNN không được CNVCTH tại Việt Nam còn khá cao “đến từ khả năng tiếp cận nội dung pháp luật nước ngoài, cách thức giải thích và áp dụng các căn cứ không CNVCTHPQTTNN cũng như công tác tổ chức thi hành các quy định của pháp luật”. Luật Mẫu được xây dựng với mục tiêu thiết lập cơ sở pháp lý cho việc hài hòa hóa, phát triển pháp luật quốc gia và được thiết kể để hỗ trợ các quốc gia trong cải cách và hiện đại hóa pháp luật trong nước về thủ tục trọng tài cân nhắc đến các đặc điểm cụ thể và nhu cầu của TTTM quốc tế. Như vậy việc xem xét, cân nhắc áp dụng toàn bộ luật Mẫu tại Việt Nam mang lại nhiều lợi ích to lớn cho hoạt động giải quyết tranh chấp bằng trọng tài tại Việt Nam nói chung cũng như chế định CNVCTHPQTTNN nói riêng.

3.2.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài Luận văn: Thực tiễn Pháp luật về cho công nhận và thi hành tại VN.

Thứ nhất, cần có hướng dẫn chính thức và thống nhất các quy định pháp luật liên quan đến việc công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài.

Ngày 17/07/2019, TANDTC công bố dự thảo “Nghị quyết hướng dẫn thi hành một số quy định của BLTTDS về thủ tục CNVCTH tại Việt Nam PQTTNN tại tòa án sơ thẩm”, và đến nay vẫn đang trong quá trình nghiên cứu lấy ý kiến. Hiện chưa có văn bản hướng dẫn, giải thích việc áp dụng thống nhất các quy định có liên quan đến hoạt động CNVCTHPQTTNN trong thực tế. Điều này dẫn đến việc khi thụ lý đơn yêu cầu CNVCTHPQTTNN, mỗi hội đồng xét đơn sẽ có nhiều cách hiểu và vận dụng pháp luật khác nhau, ngay cả các thẩm phán trong cùng một tòa án cũng có thể có các quan điểm khác nhau. Do đó, tác giả đề xuất cần có một văn bản hướng dẫn chi tiết, đồng bộ về các quy định liên quan tới hoạt động CNVACTHPQTTNN, cụ thể như sau:

  • i. Hướng dẫn chi tiết về định nghĩa Phán quyết trọng tài nước ngoài.

Về khái niệm PQTTNN đến nay vẫn còn chưa thống nhất trong việc giải thích và áp dụng pháp luật. Do không áp dụng nguyên tắc lãnh thổ, lại diễn dịch không chính xác khái niệm PQTTNN (foreign arbitral award) của Công ước New York thành phán quyết của TTNN (award of foreign arbitration) nên đã dẫn đến nhiều bất cập khi Tòa án Việt Nam xem xét một PQTT có phải là PQTTNN hay không. Do đó, tác giả cho rằng khái niệm này cần được hướng dẫn một cách rõ ràng để được xác định đúng về mặt bản chất pháp lý cũng như khả năng tương thích với các quy định chung của hệ thống TTTM trên thế giới. Theo đó, tác giả đề xuất:

Cần thống nhất sử dụng thuật ngữ “phán quyết trọng tài nước ngoài” thay vì “phán quyết của TTNN” một cách đồng bộ và thống nhất ở cả LTTTM và BLTTDS cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành.

Từ những phân tích tại chương 2 về định nghĩa PQTTNN theo pháp luật Việt Nam, để giúp cho việc xác định thế nào là một PQTTNN có cơ sở pháp lý ràng và thuận lợi cho việc thực thi pháp luật trên thực tế, tác giả kiến nghị có văn bản hướng dẫn chi tiết việc xác định PQTTNN theo hướng:

“Một là, một phán quyết trọng tài mà pháp luật áp dụng không phải là LTTTM Việt Nam thì được coi là phán quyết của trọng tài nước ngoài, bất kể nơi tuyên phán quyết là Việt Nam.

Hai là, nếu các bên trong quan hệ hợp đồng không thỏa thuận về pháp luật trọng tài áp dụng nhưng có thỏa thuận về địa điểm giải quyết tranh chấp là Việt Nam thì phán quyết trọng tài đó được coi là phán quyết trọng tài Việt Nam vì pháp luật trọng tài áp dụng trong trường hợp này là luật trọng tài thương mại Việt Nam. Trong trường hợp nơi này ban hành phán quyết và nơi tuyên phán quyết là một. Luận văn: Thực tiễn Pháp luật về cho công nhận và thi hành tại VN.

Ba là, trường hợp các bên trong quan hệ hợp đồng có thỏa thuận về việc áp dụng pháp luật trọng tài là pháp luật TTNN nhưng thỏa thuận về địa điểm giải quyết tranh chấp là Việt Nam thì phán quyết trọng tài đó được coi là PQTTNN, trong trường hợp này nơi tuyên phán quyết là nước ngoài nơi áp dụng pháp luật trọng tài và nơi tuyên phán quyết là Việt Nam”.

Như vậy, về mặt nguyên tắc một PQTT là nước ngoài hay trong nước sẽ được xác định dựa trên pháp luật trọng tài áp dụng cho việc giải quyết tranh chấp là pháp luật nước ngoài hay pháp luật Việt Nam, từ đó thống nhất trong các hướng dẫn chi tiết liên quan tới PQTTNN ở các văn bản pháp luật.

  • ii. Hướng dẫn chi tiết về các căn cứ từ chối công nhận và cho thi hành các phán quyết trọng tài nước ngoài:

Đối với việc giải thích, áp dụng những căn cứ không CNVCTHPQTTNN, đặc biệt là căn cứ “Trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam” được cho là quá rộng, dẫn tới việc viện dẫn quy định thiếu chính xác và dẫn tới tỷ lệ không CNVCTTPQTTNN ở Việt Nam luôn ở mức cao so với thế giới. Căn cứ PQTT “trái với các nguyên tắc cơ bản của Pháp luật Việt Nam” được quy định quá chung chung, không rõ ràng nên việc áp dụng một cách tùy tiện là không thể tránh khỏi. Mặc dù HĐTPTANDTC đã có hướng dẫn tại Nghị quyết 01/2014/NQ-HĐTP về quy định trường hợp PQTT vi phạm “các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”, tuy nhiên thực tế vẫn chỉ ra rằng còn nhiều điều chưa rõ ràng về phạm vi áp dụng. Hiện nay, gần như trong các Bộ luật, Luật ở nước ta đều có những quy định về “nguyên tắc”, vì thế bên yêu cầu có thể dễ dàng viện dẫn PQTT “trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam” và đưa ra giải thích có vẻ hợp lý, Tòa án sẽ căn cứ để từ chối. Vì vậy, căn cứ này rất dễ gây ra bức xúc khi Tòa viện dẫn, vì trường hợp việc giải thích, áp dụng pháp luật một cách cứng nhắc mà không tham chiếu đến thông lệ, quy định quốc tế cũng như thỏa thuận của các bên dẫn đến quyết định không CNVCTHPQTT sẽ làm lãng phí công sức, thời gian của các bên liên quan cũng như ảnh hưởng tiêu cực tới các hoạt động tố tụng liên quan nói chung. Theo đó, các nhà làm luật cần ban hành các văn bản cụ thể, hướng dẫn chi tiết các nội dung có liên quan tới CNVCTTPQTTNN.

Có thể thấy, thực tế chỉ ra rằng Tòa án đã viện dẫn một số các căn cứ chính để từ chối CNVCTTPQTTNN tại Việt Nam mà nguyên nhân cơ bản là do không có hướng dẫn chi tiết về các căn cứ này. Do đó, tác giả đề xuất: Luận văn: Thực tiễn Pháp luật về cho công nhận và thi hành tại VN.

Một là, về việc giải thích căn cứ: “phán quyết trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”. Nguyên tắc này đã được giải thích là “vi phạm các nguyên tắc xử sự cơ bản có hiệu lực bao trùm đối với việc xây dựng và thực hiện pháp luật Việt Nam”, nhưng trên thực tế, quy tắc này vẫn được coi là chung chung, không minh bạch, dẫn đến tình trạng lạm dụng để yêu cầu không CNVCTHPQTTNN. Do đó, cần thu hẹp hơn phạm vi của căn cứ này bằng việc cần xác định các nguyên tắc cơ bản là gì? Theo đó, chúng ta cần xem xét việc sửa đổi hay giải thích căn cứ này theo hướng tiếp cận với khái niệm pháp lý quốc tế – “trật tự công” để bảo vệ hữu hiệu chủ quyền và an ninh quốc gia và phù hợp với trách nhiệm và nghĩa vụ pháp lý của Việt Nam theo các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết và gia nhập hoặc các nguyên tắc được thừa nhận rộng rãi về lẽ công bằng và công lý trong pháp luật quốc tế. Tuy nhiên khái niệm trật tự công này cũng cần được giải thích cụ thể và đảm bảo tính áp dụng trong việc thực thi pháp luật, không quá rộng hay mơ hồ trong việc giải thích pháp luật.

Kinh nghiệm quốc tế ở một số quốc gia như Pháp và một số nước khác như Mỹ, Đức, Singapore…khái niệm “trật tự công” này được quy định và áp dụng một cách rất rạch ròi, cụ thể, theo hướng phân biệt giữa trật tự công cộng quốc tế (international public policy) và trật tự công cộng quốc gia (domestic public policy). Theo cách phân định này, thì những gì thuộc về trật tự công cộng trong các quan hệ pháp lý ở tầm quốc gia, không nhất thiết phải áp dụng đối với các quan hệ pháp luật có yếu tố nước ngoài. Điều này có nghĩa là nội hàm trật tự công cộng quốc tế sẽ hẹp hơn trật tự công cộng quốc gia. Thuật ngữ “trật tự công cộng” trong Công ước New York và các văn bản pháp lý quốc tế khác, bao gồm những nguyên tắc có tính chất nền tảng của pháp luật và công lý, về cả mặt nội dung cũng như thủ tục. Trong một loạt các án lệ của Toà án các nước thành viên Công ước New York về công nhận và thi hành quyết định của trọng tài nước ngoài, thì ranh giới giữa trật tự công cộng quốc gia và trật tự công cộng quốc tế đã được phân định rất rõ. Trong vụ án nổi tiếng Fritz Scherk v. Alberto-Culver Co, Toà án Tối cao của Mỹ đã tuyên rằng, trong khi các tranh chấp về chứng khoán phát sinh từ Hợp đồng trong nước không thuộc thẩm quyền xét xử bằng trọng tài, thì nó lại ngược hẳn trong trường hợp Hợp đồng đó có yếu tố nước ngoài, có nghĩa là các tranh chấp đó sẽ thuộc đối tượng giải quyết bằng trọng tài. Trong vụ Parsons and Whittemore Overseas Inc. v. RAKTA, Toà Phúc thẩm của Mỹ cũng cho rằng, “khái niệm trật tự công cộng trong Công ước New York cần phải được hiểu một cách rất hẹp. Việc thi hành quyết định trọng tài nước ngoài có thể bị từ chối chỉ khi việc thi hành đó sẽ vi phạm những nguyên tắc cơ bản nhất của quốc gia về đạo đức và công lý “violate the forum State’s most basic notions of morality and justice”. Toà án Đức tại nhiều vụ án khác nhau cũng đã rất nhiều lần khẳng định rằng, đối với các quyết định trọng tài nước ngoài, thì không phải tất cả mọi vi phạm điều cấm của pháp luật Đức đều bị coi là vi phạm trật tự công cộng; rằng, ở Đức, khái niệm vi phạm trật tự công cộng được viện dẫn chỉ trong những trường hợp vô cùng đặc biệt mà thôi. Các án lệ cũng như thực tiễn thi hành Công ước New York năm 1958 ở các nước thành viên đã cho thấy, Toà án các nước, về cơ bản là đều giải thích điều khoản về trật tự công cộng theo nghĩa rất hẹp, và hạn chế từ chối thi hành PQTTNN, chỉ trong những trường hợp cực kỳ hãn hữu mà thôi. Điều này có nghĩa là, trong việc thống nhất về cách hiểu và giải thích điều khoản trật tự công cộng, Toà án đã thể hiện quan điểm cũng như động thái rất ủng hộ tinh thần của Công ước, là tạo điều kiện thuận lợi cho việc CNVCTHPQTTNN. Luận văn: Thực tiễn Pháp luật về cho công nhận và thi hành tại VN.

  • Về quy định “trật tự công quốc tế” của mọi quốc gia sẽ bao gồm:

“(i) Các nguyên tắc cơ bản về công bằng và đạo đức, mà quốc gia đó muốn bảo vệ, kể cả khi khi quốc gia đó không trực tiếp liên quan; các quy tắc được thiết lập để phục vụ cho lợi ích kinh tế, xã hội hay chính trị của quốc gia, mà được biết với tên gọi các quy tắc về chính sách công; Nghĩa vụ quốc gia để tôn trọng các nghĩa vụ đối với quốc gia khác hay các tổ chức quốc tế.

Ngoài ra, theo giải thích tại trang 28 và 29 của Chuyên đề khoa học xét xử số TPT/K-09-03 đính kèm tại Phụ lục số X của Viện khoa học xét xử – TANDTC hiện vẫn được công bố công khai trên trang thông tin điện tử của Tòa án tối cao thì việc xác định thế nào là “các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam” có thể tham khảo tại các nguyên tắc ký kết gia nhập và thực hiện Điều ước quốc tế quy định tại Điều 3 của Luật ký kết gia nhập điều ước quốc tế, cụ thể là: “Tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, cấm sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi và những nguyên tắc cơ bản khác của pháp luật quốc tế”.

Theo đó, cần có quy định một cách rõ ràng khái niệm trật tự công cộng theo xu hướng phân định “trật tự công cộng quốc gia” và “trật tự công cộng quốc tế”, theo đó sử dụng thuật ngữ “trật tự công quốc tế” tại các văn bản quy phạm pháp luật về trọng tài cũng như trong các hướng dẫn chi tiết của việc áp dụng công ước New York trong hoạt động CNVCTHPQTTNN nhằm ủng hộ tinh thần của Công ước, là tạo điều kiện thuận lợi cho việc CNVCTHPQTTNN. Ngoài ra, trong trường hợp chưa thể ghi nhận quy định về “trật tự công quốc tế” vào thực tiến xét xử và cũng chưa có Nghị quyết hướng dẫn cụ thể về việc “trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam” thì TANDTC cần có án lệ để làm rõ ràng và minh bạch hơn thế nào là việc CNVCTHPQTTNN “trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam” dựa trên tổng kết công tác xét xử của Toà án, nâng nó lên thành một tài liệu pháp lý để đạt được sự chấp nhận chung của các nhà làm luật cũng như thực hiện công tác xét xử, đảm bảo việc áp dụng thống nhất pháp luật. Những quy định nào được xem là “liên quan đến việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài”? Hoặc giới hạn những nguyên tắc đó thuộc BLDS hay luật nào? Hoặc có thể liệt kê cụ thể các nguyên tắc chi tiết liên quan đến trọng tài. Những quy định cụ thể đó có thể khắc phục tình trạng bất cập vì sự không rõ ràng như hiện nay.

Hai là, đối với các căn cứ như vi phạm quy định về thông báo hay “thỏa thuận trọng tài vô hiệu”, “người ký kết thỏa thuận trọng tài không có (đủ) năng lực ký kết”: TANDTC cần có án lệ liên quan tới việc giải thích và áp dụng các nguyên tắc này trong quá trình Tòa án xử lý các đơn yêu cầu. Theo đó, các án lệ này phải đảm bảo chỉ ra được các chủ trương thống nhất của pháp luật khi xét xử các vụ việc liên quan tới thương mại quốc tế nói chung hay việc CNVCTHPQTTNN nói riêng, đảm bảo việc xem xét toàn diện quy định pháp luật không những của Việt Nam mà còn của pháp luật nước ngoài nơi ban hành PQTTNN cũng như các điều ước quốc tế, hiệp định song phương mà Việt Nam tham gia. Vì việc CNVCTHPQTTNN không những được điều chỉnh bởi LTTTM, BLTTDS mà còn liên quan tới pháp luật nước ngoài, các văn bản quốc tế của Việt Nam. Do đó, trong giai đoạn hội nhập hiện nay cũng như trong bối cảnh mà các văn bản hướng dẫn chi tiết chưa được ban hành cũng như không thể điều chỉnh toàn bộ các vấn đề pháp lý xảy ra trong thực tế thì việc ban hành các án lệ cụ thể giúp đảm bảo tính thống nhất của pháp luật, là cơ sở để Tòa án các cấp tham khảo khi giải quyết vụ việc trên thực tế là rất cần thiết và quan trọng. Thứ hai, cần đảm bảo sự đồng bộ của các quy định pháp luật liên quan trong quá trình xây dựng, hoàn thiện pháp luật về CNVCTHPQTTNN tại Việt Nam. Luận văn: Thực tiễn Pháp luật về cho công nhận và thi hành tại VN.

Các quy định pháp luật về CNVCTHPQTTNN được điều chỉnh bởi rất nhiều pháp luật có liên quan, trong đó phải kể tới pháp luật dân sự, các quy định về việc “xác định địa điểm nơi có tài sản” để xử lý đơn yêu CNVCTHPQTTNN … Trong một vụ việc thực tế, khi thụ lý yêu cầu CNVCTHPQTTNN của HĐTT thuộc Trung tâm trọng tài quốc tế Hong Kong, TAND tỉnh Bình Dương đã quyết định đình chỉ yêu cầu này vì lý do: “Công ty A (bên yêu cầu) không thể cung cấp được địa chỉ hiện nay của Công ty C tại Việt Nam, đồng thời cũng không xác định được địa điểm nơi có tài sản của công ty C”. Tuy nhiên, sau khi TAND Cấp cao tại TP. HCM xem xét kháng cáo đã quyết định CNVCTHPQTTNN này với lý do: “Tòa án là bên phải xác định địa điểm nơi có tài sản tại Việt Nam của người thi hành án nên Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng người yêu cầu không cung cấp được địa chỉ hiện nay của công ty C là chưa phù hợp với luật đã viện dẫn”. Mặc dù cùng viện dẫn quy định tại Điều 457.3(đ) BLTTDS (2015), tuy nhiên, hai tòa án khác nhau lại có hai cách hiểu khác nhau. Điều 457.3(đ) BLTTDS (2015) quy định về việc “ra quyết định đình chỉ việc xét đơn yêu cầu” khi có căn cứ sau: “Tòa án không xác định được địa điểm nơi có tài sản tại Việt Nam của người phải thi hành theo yêu cầu của người được thi hành phán quyết trọng tài”. Điều 473.3(đ) BLTTDS (2015) chưa quy định rõ ràng người có trách nhiệm xác minh “địa điểm nơi có tài sản tại Việt Nam” của bên phải thi hành, mà chỉ quy định về vấn đề “tòa án không xác định được”. Điều này gây ra sự không thống nhất trong cách hiểu và áp dụng pháp luật giữa các tòa án về vấn đề này: bên yêu cầu hay tòa án phải có nghĩa vụ “xác định địa điểm có tài sản của bên phải thi hành”.

Như vậy, pháp luật về tố tụng dân sự cần phải có hướng dẫn chi tiết, đồng bộ hơn nữa về các vấn đề liên quan tới địa điểm có tài sản, thẩm quyền hay nghĩa vụ xác minh vấn đề này. Các quy định này cần được thống nhất và đồng bộ nhằm đảm bảo việc điều chỉnh một vấn đề pháp lý nhất định chỉ được quy định ở một văn bản duy nhất, giúp đảm bảo sự ổn định của môi trường pháp lý nói chung. Ngoài ra, một số nội hàm luật nội dung của Việt Nam cũng cần được sửa đổi hoặc hướng dẫn, làm rõ nhằm tháo bỏ những “rào cản kỹ thuật” dẫn đến nguy cơ một PQTT nói chung, PQTTNN nói riêng có thể không được công nhận, thi hành. Chẳng hạn Điều 470 BLTTDS 2015 về “thẩm quyền riêng biệt” của Tòa án Việt Nam, trong đó có “thẩm quyền giải quyết tranh chấp có liên quan đến quyền đối với bất động sản” tại Việt Nam. Hay một số quy định chỉ nhắc đến Tòa án (mà không có trọng tài) là cơ quan có thẩm quyền giải quyết, như quy định về tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu từ Điều 125-129 BLDS 2015 hoặc quy định về hoàn cảnh thay đổi cơ bản tại Điều 420 BLDS 2015. Theo đó, “mặc dù các quy định này chỉ nhắc tới Tòa án nhưng cũng không nêu rõ đây là tranh chấp không được giải quyết bằng Trọng tài. Trái lại, các tranh chấp này có thể vẫn thuộc thẩm quyền của trọng tài theo quy định tại Điều 2 Luật TTTM. Do đó, đây cũng là nội dung cần được sửa đổi hoặc hướng dẫn, làm rõ”.

3.2.3. Giải pháp về nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài. Luận văn: Thực tiễn Pháp luật về cho công nhận và thi hành tại VN.

Như các phân tích ở trên, tại các bản án về việc CNVCTHPQTTNN tại Việt Nam, chúng ta có thể thấy, việc các Thẩm phán có quan điểm khác nhau trong cùng một vụ việc là rất phổ biến. Các quan điểm khác nhau này dẫn tới các kết luận khác nhau trong cùng một vụ việc và thể hiện sự không thống nhất trong việc tiếp cận và thực thi pháp luật của hệ thống Tòa án Việt Nam. Vì vậy, việc các Thẩm phán chưa nắm vững và hiểu đúng các quy định về TTTM quốc tế, cũng như việc hạn chế kinh nghiệm giải quyết thực tế có thể dẫn đến những vụ việc thụ lý sai hoặc không công nhận PQTTNN một cách đáng tiếc. Vai trò hỗ trợ của Tòa án cũng là một vấn đề gây ảnh hưởng tới hiệu quả của việc CNVCTTPQTTNN ở Việt Nam. Hiện nay, pháp luật Việt Nam chưa có cơ chế pháp lý để Tòa án hỗ trợ TTNN trong việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, thu thập chứng cứ, triệu tập nhân chứng, xác minh địa chỉ, … trong quá trình tố tụng TTNN. Thiếu sót này phần nào hạn chế tính kịp thời, thực thi, chung thẩm của PQTTNN. Do đó, tác giả đề xuất các giải pháp sau:

  • i. Nâng cao nhận thức, trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp của Thẩm phán và Trọng tài viên

Thứ nhất, đội ngũ thẩm phán kinh tế chuyên trách về giải quyết loại việc dân sự CNVCTHPQTTNN cần phải nắm vững và hiểu đúng các quy định của pháp luật liên quan đến CNVCTHPQTTNN cũng như có kinh nghiệm trong việc tiếp cận quy định pháp luật của nước ngoài khi xem xét các vụ việc này. Việc tập huấn kiến thức cho Thẩm phán là việc hết sức quan trọng. Do đó, các trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam phải phối hợp với TAND để tổ chức cuộc tập huấn nghiệp vụ, đào tạo chuyên sâu các kiến thức, kinh nghiệm liên quan để nâng cao chất lượng giải quyết xem xét đơn của các thẩm phán cũng như nâng cao hiệu quả thực thi quy định về CNVCTHPQTTNN. Khi giải quyết đơn yêu cầu CNVCTHPQTTNN, các tòa án cần tuyệt đối tuân thủ nguyên tắc “không xét xử lại nội dung tranh chấp”. Nói cách khác, tòa án không nên tiến hành phiên họp xét đơn như một phiên xử “phúc thẩm” các bản án sơ thẩm về kinh doanh, thương mại.

Thứ hai, các Thẩm phán cũng cần nhận thức được hậu quả tiêu cực của quyết định không công nhận PQTTNN mà mình đưa không chính xác. Trong bối cảnh hiện nay, rất nhiều các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam và Việt Nam cũng tăng cường các hoạt động đầu tư ra nước ngoài thì nhu cầu xem xét CNVCTHPQTTNN tại Việt Nam là rất lớn. Trường hợp các Thẩm phán đưa ra các quyết định không có cơ sở pháp lý phù hợp sẽ ảnh hưởng tới uy tín của hệ thống pháp luật Việt Nam, làm giảm khả năng cạnh tranh của thị trường Việt Nam nói chung, chưa kể việc tốn kém rất nhiều chi phí khi quá trình tố tụng kéo dài. Tòa án cũng cần cần đề cao chế độ trách nhiệm cá nhân đối với từng chức danh cán bộ, công chức, đặc biệt là người đứng đầu Toà án và Thẩm phán, tăng cường công tác kiểm tra và xử lý nghiêm minh đối với các tập thể và cá nhân, công chức của Toà án có vi phạm. Các trường hợp vi phạm pháp luật, phẩm chất đạo đức cần phải xử lí nghiêm minh.

  • ii. Tăng cường công tác tổng kết, rà soát, đánh giá việc công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài

Để từng bước nâng cao chất lượng xét đơn yêu cầu CNVCTHPQTTNN cũng như nâng cao tỷ lệ đơn yêu cầu được CNVCTH tại Việt Nam, cần tiến hành nghiên cứu, thống kê, tổng kết lại các số liệu, dữ liệu liên quan đến các vụ việc công nhận này nhằm đánh giá, rút ra được các nguyên nhân thực tế, các thiếu sót trong công tác xử lý đơn yêu cầu CNVCTHPQTTNN. TANDTC cũng cần tổ chức các hội nghị tổng kết, sơ kết công tác ngành, trong đó, cần dành thời gian hợp lý để nghiên cứu kĩ năng xét đơn yêu cầu CNVCTTPQTTNN, làm rõ trường hợp nào thì nên đưa ra phán quyết không công nhận và trường hợp nào thì nên tạo điều kiện cho các bên khắc phục, tránh tình trạng phán quyết bị từ chối vì những lý do không phù hợp.

  • iii. Tăng cường vai trò của tòa án trong việc hỗ trợ hoạt động của trọng tài. Luận văn: Thực tiễn Pháp luật về cho công nhận và thi hành tại VN.

Hệ thống tòa án cần phát huy và thể hiện rõ sự ủng hộ với hệ thống trọng tài, chỉ từ chối không công nhận các PQTT trừ khi rõ ràng có vi phạm quy định cụ thể theo LTTTM. Đây là một đòi hỏi hết sức quan trọng. Kinh nghiệm ở các nước có sự phát triển của trọng tài như Singapore hay Đức cho thấy Tòa án chỉ can thiệp vào tố tụng trọng tài hoặc không công nhận PQTT trong những trường hợp hết sức hạn chế.

Ví dụ như có vi phạm nghiêm trọng trong tố tụng, thiên vị với một bên, không cho một bên cơ hội trình bày, lập luận hoặc những trường hợp PQTT vi phạm những nguyên tắc cơ bản của xã hội như buộc các bên phải thi hành những việc làm phi pháp, sai trái mà xã hội không thể chấp nhận. Tuy nhiên, thực tế tại Việt Nam vẫn cho thấy Tòa án chưa thực sự có một chính sách quan điểm thống nhất ủng hộ mạnh mẽ hoạt động trọng tài. Một số trường hợp PQTT không được CNVCTH vì những lý do chung chung như “không tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam” mà không nêu cụ thể nguyên tắc đó là nguyên tắc nào và bị vi phạm như thế nào?

3.2.4. Xem xét việc áp dụng Luật mẫu UNCITRAL trong hoạt động giải quyết các tranh chấp về trọng tài thương mại nói chung và yêu cầu về công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài nói riêng.

Thế kỷ XX là thời điểm bùng nổ của kinh tế quốc tế, cùng với đó, số lượng các vụ tranh chấp thương mại cũng gia tăng. Mặc dù TTTM quốc tế được công nhận đã mang tới nhiều lợi ích trong giải quyết tranh chấp nhưng những khó khăn của phương thức này vẫn tồn tại do sự không đồng nhất giữa luật pháp của các nước khác nhau. Do đó, Luật Mẫu và Quy tắc UNCITRAL đã ra đời. Luật Mẫu được Ủy ban LHQ về Luật thương mại quốc tế (UNCITRAL) thông qua vào ngày 21 tháng 6 năm 1985 (Luật Mẫu). Khác với Công ước chỉ quy định về hai hoạt động là thi hành PQTT và CNVCTHPQTTNN, các quy định của Luật Mẫu bao gồm toàn bộ quá trình tố tụng trọng tài. Ngoài ra, Luật Mẫu không có tính chất như một điều ước quốc tế nên không buộc các quốc gia phải tuân thủ tuyệt đối. Luật Mẫu chỉ mang tính chất khuyến nghị và mềm dẻo, linh hoạt để các quốc gia vận dụng và chuyển hóa vào hệ thống pháp luật trong nước, đảm bảo tối đa sự hài hòa pháp luật về trọng tài của các quốc gia. Về việc áp dụng Luật mẫu trong thực tiễn tố tụng trọng tài ở khu vực ASEAN, hiện nay đã có tới 7/10 quốc gia thành viên áp dụng Luật Mẫu, bao gồm: Brunei, Malaysia, Philippines, Campuchia, Myanmar, Singapore, Thái Lan. Bên cạnh đó Luật Mẫu cũng được áp dụng tại nhiều quốc gia nơi có hệ thống trọng tài phát triển như Anh, Singapore, Hồng Kông, Nhật bản, Hàn Quốc, … Điều này cho thấy tính ưu việt của Luật mẫu trong việc giải quyết tranh chấp bằng TTTM quốc tế nên Luật Mẫu đã nhận được nhiều sự đồng thuận của nhiều quốc gia. Luận văn: Thực tiễn Pháp luật về cho công nhận và thi hành tại VN.

Theo khoản 3 Điều 1 Luật Mẫu thì tính chất quốc tế của trọng không được xác định trên cơ sở quốc tịch của trọng tài viên. Theo đó, tính quốc tế trước tiên phụ thuộc vào địa điểm kinh doanh của các bên theo thỏa thuận trọng tài. Nếu địa điểm kinh doanh của các bên tại các quốc gia khác nhau, thì trọng tài được xem là “quốc tế”. Trong trường hợp địa điểm kinh doanh của các bên không cùng ở tại một quốc gia, các yếu tố khác sẽ được xem xét để xác định địa điểm tố tụng trọng tài, bất kỳ địa điểm nào mà một phần đáng kể của các nghĩa vụ liên quan tới quan hệ thương mại được thực thi, … Bên cạnh đó, yếu tố quốc tế của trọng tài còn có thể được xác định do thỏa thuận của các đương sự. Về quy định CNVCTHPQTTNN (không nhắc tới “Phán quyết trọng tài nước ngoài” như Công ước) được quy định tại Điều 35 và các căn cứ từ chối CNVCTH quy định tại Điều 36 Luật Mẫu. Nội dung của Điều 35 cũng khẳng định việc công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài là “không phụ thuộc vào quốc gia phán quyết được tuyên”. Việc áp dụng chung thủ tục CNVCTH với tất cả các phán quyết không phân biệt nơi phán quyết được tuyên để tạo ra cơ chế công bằng cho cả PQTT trong nước và PQTTNN. Như vậy, có thể thấy, phạm vi áp dụng áp dụng của Luật Mẫu là rộng hơn Công ước bởi lẽ việc CNVCTHPQTTNN không chỉ bị giới hạn trong phạm vi phán quyết “nước ngoài”. Luật Mẫu cũng bổ sung một quy định về việc tòa án nơi công nhận hoặc thi hành có thể hoãn việc ra quyết định nếu có đơn yêu cầu hủy hoặc đình chỉ PQTT tại quốc gia nơi phán quyết được tuyên và khi đó tòa án, theo yêu cầu của bên đề nghị CNVCTH PQTT yêu cầu bên phải thi hành nộp phí bảo đảm. Đây là quy định nhằm mục đích đảm bảo và cân bằng quyền lợi của các bên trong tố tụng trọng tài ở giai đoạn công nhận và cho thi hành. Tuy nhiên, việc có hoãn ra quyết định hay không là quyền của tòa án nơi CNVCTH. Các quyết định về biện pháp tạm thời cũng sẽ được CNVCTH theo Luật Mẫu. Các quy định về CNVCTH quyết định về biện pháp tạm thời không bị giới hạn bởi việc hội đồng trọng tài ban hành biện pháp tạm thời tại nơi tiến hành tố tụng trọng tài. Tòa án nơi quốc gia có yêu cầu công nhận hoặc cho thi hành có thể buộc bên đưa ra yêu cầu thực hiện bảo đảm phù hợp nếu xét thấy là hành động cần thiết để bảo vệ quyền lợi của bên thứ ba. Tòa án cũng sẽ không xem xét lại các nội dung của biện pháp bảo đảm đó mà chỉ xem xét các căn cứ để từ chối NVCTH.

Luật Mẫu thể hiện các thực tiễn quốc tế tốt nhất về trọng tài, dựa trên ý tưởng chính là hạn chế sự can thiệp tư pháp của tòa án vào tố tụng trọng tài, từ việc tiến hành thủ tục tố tụng trọng tài đến việc phản đối phán quyết cuối cùng. Việc áp dụng các quy định của Luật Mẫu sẽ tăng cường sự hấp dẫn của các quốc gia để các bên đặc biệt là bên nước ngoài lựa chọn làm địa điểm tố tụng trọng tài, thay vì áp dụng các thủ tục tố tụng trọng tài trong nước có tính cục bộ và địa phương, các bên có thể sẽ dễ chấp nhận khuôn khổ quốc tế hơn. Đối với việc áp dụng các phương pháp giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, việc áp dụng Luật mẫu sẽ là tiền đề quan trọng cho những cải cách để pháp luật về trọng tài của Việt Nam tiến gần hơn các quy định của quốc tế. Hơn nữa, việc cùng xây dựng trên nền tảng Công ước các quy định về hủy và từ chối CNVCTHPQTTNN có nhiều điểm tương đồng. Do đó, việc áp dụng Luật Mẫu sẽ làm tăng khả năng thực thi hiệu quả của Công ước. Với mục tiêu hài hòa và hoàn thiện pháp luật quốc gia, Luật Mẫu phản ánh sự đồng thuận quốc tế các vấn đề cơ bản nhất của pháp luật về thủ tục tố tụng trọng tài, đây là cơ chế mềm dẻo để các quốc gia khi áp dụng có thể thay đổi phù hợp.

Với việc áp dụng toàn bộ nội dung của Luật Mẫu vào Việt Nam “sẽ không chỉ “quốc tế hóa” các quy định của pháp luật trọng tài, tạo niềm tin cho các bên trong việc lựa chọn trọng tài làm phương thức giải quyết tranh chấp mà còn hỗ trợ phát triển nền kinh tế thông qua thu hút đầu tư và phát triển dịch vụ pháp lý giải quyết tranh chấp”.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 Luận văn: Thực tiễn Pháp luật về cho công nhận và thi hành tại VN.

Khi các tranh chấp được giải quyết bằng TTTM quốc tế ngày càng tăng cao, một nhu cầu hiển nhiên của các cá nhân, pháp nhân ở các quốc gia khác nhau là được đảm bảo quyền lợi của mình khi lựa chọn cơ quan giải quyết tranh chấp là trọng tài quốc tế và khi phán quyết cuối cùng được tuyên thì các PQTTNN này sẽ được CNVCTH trên thực tế. Việc thực thi PQTTNN hiệu quả có nhiều ý nghĩa trong việc phát triển kinh tế và chính trị, xã hội, pháp lý trong quá trình hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, việc cho công nhận và thi hành PQTTNN ở Việt Nam hiện nay còn một số vướng mắc, bất cập nhất định. Qua nghiên cứu các bản án, quyết định của Tòa án về CNVCTHPQTTNN tại Việt Nam, có thể nhận thấy thực tế giải quyết loại về này còn gặp nhiều khó khăn, thiếu sự đồng nhất giữa các cơ quan tài phán do chưa có hướng dẫn cụ thể và thống nhất. Việc từ chối không CNVCTHPQTTNN dựa trên một số căn cứ đưa ra là hợp lý, một số khác được tòa viện dẫn còn chưa được thuyết phục và thiếu cơ sở pháp lý rõ ràng. Để nghiên cứu chuyên sâu về hoạt động CNVCTHPQTTNN tại Việt Nam, tác giả đã chọn lọc ra những bản án, quyết định cuối cùng để phân tích, phân loại ra những khía cạnh cần được tập trung nghiên cứu. Trong đó, tác giả dùng phương pháp phân tích, bình luận án để xác định các lý do chính Tòa án sử dụng để làm cơ sở từ chối CNVCTHPQTTNN là gì, các cơ sở đã được viện dẫn hợp lý hay chưa và nếu chưa thì có những bất cập thực tế nào trên thực tế. Tác giả đã tóm tắt bản án, quyết định của tòa án để từ đó đối chiếu với quy định pháp luật hiện hành và đưa ra các quan điểm, nhận xét của tác giả. Qua phân tích, bình luận án cũng như tham khảo kinh nghiệm một số nước, tác giả cũng đã đưa ra các kiến nghị góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật.

KẾT LUẬN Luận văn: Thực tiễn Pháp luật về cho công nhận và thi hành tại VN.

Dựa trên những phân tích về mặt lí luận, các quy định pháp luật hiện nay và thực tiễn giải quyết các đơn yêu cầu về CNVCTHPQTTNN tại Việt Nam, đây là một chế định cần được nghiên cứu chuyên sâu nhưng chưa được chú trọng đúng mực, chỉ dừng ở mức độ quy định chung, thực tiễn áp dùng còn khá nhiều vướng mắc, các Tòa án xử lý loại việc liên quan đến vấn đề này đều dựa vào nhận định chủ quan, lăng kính nhận thức cục bộ và chưa có sự thống nhất trong hệ thống các cơ quan Tòa án với nhau. Thực tế, các Tòa án còn bối rối trong việc xác định “các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam” là gì, cũng như chưa có nhiều kinh nghiệm trong loại việc này hay thiếu kiến thức về pháp luật nước thứ ba khi giải quyết các loại việc này để có thể ban hành những quyết định phù hợp. Mặc dù đã có khung pháp lý tương đối đầy đủ đối với hoạt động cho CNVCTHPQTTNN tại Việt Nam, tuy nhiên vấn đề này vẫn cần được quan tâm nhiều hơn nữa. Việc nghiên cứu, đi sâu mặt bản chất của hoạt động cho CNVCTHPQTTNN là điều cần thiết trong khoa học pháp lý, hoàn thiện, bổ sung những thiếu sót, lỗ hổng đối với chế định này. Hệ quả từ việc không CNVCTHPQTTNN một cách không hợp lý là nguyên nhân khuyến khích các bên vi phạm hợp đồng và mất niềm tin đối với các doanh nghiệp, các nhà đầu tư quốc tế khi làm ăn với Việt Nam. Chưa dừng lại ở đó, việc Việt Nam không CNVCTHPQTTNN chưa phù hợp với Công ước còn có thể dẫn đến việc phía nước ngoài kiện Chính phủ Việt Nam theo các hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư cũng như các điều ước quốc tế khác mà Việt Nam tham gia, gây ra hệ lụy phức tạp, tốn kém về nguồn lực xử lý. Từ những nghiên cứu về cả mặt lý luận lẫn thực tiễn đã trình bày, tác giả đã tổng hợp, đề xuất các phương hướng hoàn thiện pháp luật, cũng như đề xuất bổ sung các giải pháp hoàn thiện pháp luật, cũng như giải pháp về nâng cao hiệu quả trong việc áp dụng pháp luật đối với hoạt động này. Luận văn: Thực tiễn Pháp luật về cho công nhận và thi hành tại VN.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:   

===>>> Luận văn: Pháp luật về cho công nhận và thi hành tại Việt Nam

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Contact Me on Zalo
0906865464