Luận văn: Chất lượng đào tạo ở Trường Cao đẳng SaigonAct

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Chất lượng đào tạo ở Trường Cao đẳng SaigonAct hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm khóa luận thì với đề tài Luận văn: Biện pháp quản lý chất lượng đào tạo ở Trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật và Du lịch Sài Gòn hiện nay dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.

LỜI MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Chất lượng đào tạo và quản lý chất lượng đào tạo là vấn đề tiên quyết của một nhà trường, là đòi hỏi của xã hội, của người học và của nhà sử dụng nhân lực. Chất lượng đào tạo bậc Cao đẳng, Đại học góp phần quan trọng vào nâng cao chất lượng đội ngũ nhân lực phục vụ cho sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước trong đó có ngành Văn hoá Nghệ thuật và Du lịch. Nghị Quyết Đại hội Đảng lần thứ XI chỉ rõ một trong ba đột phá Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2011 – 2020 là “Phát triển nhanh nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục và đào tạo quốc dân; gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ”. Luận văn: Chất lượng đào tạo ở Trường Cao đẳng SaigonAct

Trường Cao đẳng Văn hoá Nghệ Thuật và Du Lịch Sài Gòn là nơi đào tạo nhiều ngành nghề với nhiều loại hình, phương thức đào tạo phong phú ở mọi cấp độ từ ngắn hạn, dài hạn, chính quy với 2 bậc đào tạo là Trung cấp và Cao đẳng. Tuy nhiên, là một trường mới thành lập, lại đi theo một mô hình trường dân lập ở Việt Nam, Trường Cao đẳng Văn hoá Nghệ thuật và Du lịch Sài Gòn gặp nhiều khó khăn trong việc đảm bảo chất lượng đào tạo, do còn nhiều bất cập, hạn chế như: các yếu đố đầu vào, công tác tuyển sinh, tư vấn cho học sinh chưa đáp ứng yêu cầu, các điều kiện bảo về cơ sở vật chất, kỹ thuật, trang thiết bị thực hành, thực tập thiếu thốn, chương trình chậm đổi mới; đội ngũ giảng viên thiếu về số lượng, hạn chế về chất lượng… Vì vậy vấn đề quản lý chất lượng đào tạo của Nhà trường hiện nay đang trở nên rất cấp thiết.

Trong thời gian qua Trường Cao đẳng Văn hoá Nghệ thuật và Du lịch Sài Gòn đã triển khai nhiều giải pháp đổi mới giáo dục – đào tạo đi đôi với đẩy mạnh nghiên cứu khoa học nhằm nâng cao chất lượng đào tạo của Nhà trường. Tuy nhiên, những nghiên cứu chuyên biệt, có hệ thống về quản lý chất lượng đào tạo ở đây vẫn còn thiếu vắng. Từ những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài: “Biện pháp quản lý chất lượng đào tạo ở Trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật và Du lịch Sài Gòn hiện nay ” làm luận văn tốt nghiệp cuả mình.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ: 

===>>>  Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Quản Lý Giáo Dục

2. Tình hình nghiên cứu có liên quan Luận văn: Chất lượng đào tạo ở Trường Cao đẳng SaigonAct

Đã có nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề quản lý chất lượng đào tạo theo các góc độ khác nhau: từ nâng cao chất lượng đầu vào, hoàn thiện các định chế bảo đảm và kiểm soát chất lượng, quản lý kế hoạch và hoạt động đổi mới quá trình dạy học, đến quản lý kết quả dạy học, chất lượng đầu ra và nâng cao khả năng thích ứng của sản phẩm đào tạo với đòi hỏi của xã hội. Để thấy được tình hình nghiên cứu có liên quan ta có thể khái lược về một số công trình tiêu biểu sau đây.

Sau Cách mạng Tháng Mười Nga, nhằm đáp ứng nhiệm vụ xóa bỏ, cải tạo những tàn dư của chế độ cũ, xây dựng nhà trường của chế độ mới nền giáo dục Xô Viết đã xác định quan điểm đánh giá người học một cách khách quan, toàn diện là cơ sở và điều kiện để quản lý, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo. Do đó nhiều nhà khoa học giáo dục Xô Viết tiêu biểu như: Palôxki, Bônđarenkô, Papakhtrian…đã đi sâu nghiên cứu những vấn đề lý luận, nguyên tắc, quan điểm đánh giá người học và coi đó là hướng giải quyết vấn đề quản lý chất lượng giáo dục, đào tạo. Tác giả Travinxki đã chỉ rõ để quá trình đánh giá bảo đảm tính chân thực, khách quan trước hết cần xác định các mức độ đánh giá và ông đã nêu lên 4 tham số chung để đánh giá như sau:

  • Trình độ tri thức thực tế: Thể hiện ở chỗ, người học ghi nhớ được các sự kiện, các khái niệm, qui luật, lý thuyết nằm trong các môn học tự nhiên, khoa học xã hội được quy định trong chương trình.
  • Trình độ vận dụng: Người học biết vận dụng những tri thức đã học để giải quyết các nhiệm vụ nhận thức cũng như hoạt động thực tế.
  • Trình độ phân tích, tổng hợp: Người học có khả năng phát triển, chứng minh làm sáng tỏ những tư tưởng, những luận điểm cơ bản của những tài liệu đã học và biết vận dụng chúng để trả lời câu hỏi hay bài tập với nhiều mối liên hệ đa dạng giữa một số đại lượng.
  • Trình độ sáng tạo: Người học có kỹ năng phát hiện cái mới, biết giải quyết các nhiệm vụ nhận thức không theo mẫu có sẵn, đồng thời có thái độ tích cực đối với các hiện tượng tự nhiên và đời sống xã hội, nắm vững các kỹ năng tự học, tự nghiên cứu.

Những nghiên cứu trên của các tác giả Xô viết tuy chưa thật hoàn chỉnh, song nó có giá trị mở ra hướng quản lý chất lượng giáo dục, đào tạo dựa trên xác định chuẩn đánh giá về sự tiến bộ của người học đáp ứng yêu cầu của cuộc sống.

Đến cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI do nhu cầu phát triển nguồn nhân lực đáp ứng đòi hỏi của cách mạng khoa học và công nghệ trong bối cảnh toàn cầu hóa thì vấn đề quản lý chất lượng đào tạo của các trường cao đẳng, đại học càng thu hút nhiều nhà khoa học đi sâu nghiên cứu. Do đó nhiều mô hình bảo đảm, kiểm soát chất lượng đào tạo đã được đề xuất, trong đó có thể kể đến một số công trình và tác giả tiêu biểu dưới đây.

AUN QA (Asian University Network Quality Assurance) (1998) đã xây dựng mô hình đảm bảo chất lượng nhằm hướng đến mục tiêu đảm bảo chất lượng trong trường đại học gồm các yếu tố sau: chất lượng đầu vào, quá trình dạy học, chất lượng đầu ra.

Tác giả Alexander W.Astin (1993) cũng đưa ra mô hình đánh giá IEO, đòi hỏi sự đo lường đầu vào (Input), thông qua một quá trình với sự tác động của môi trường (Enviroment) lên kết quả đạt được và đo lường đầu ra (Output).

Trong công trình nghiên cứu của Bourke (1986) đã sử dụng các chỉ số để đánh giá chất lượng đào tạo đại học như: tỷ lệ hoàn thành khoá học, chất lượng giảng dạy, tỷ lệ sinh viên trên giáo  viên, diện tích lớp học, mức độ thu hút các nguồn ngân sách cho nghiên cứu, thu hút sinh viên nhập học, khả năng tìm việc làm của sinh viên tốt nghiệp, chất lượng dịch vụ của thư viện vv… Luận văn: Chất lượng đào tạo ở Trường Cao đẳng SaigonAct

Trong một công trình nghiên cứu khác, Ronley (1996) đã đánh giá chất lượng đào tạo đại học thông qua các hoạt động và chất lượng giảng dạy, được thể hiện ở: mức độ đáp ứng nhu cầu của sinh viên, chất lượng dịch vụ trong nhà trường, chất lượng của môi trường dạy và học, tỷ lệ hoàn thành khoá học v.v…Theo đó, việc đánh giá chất lượng đào tạo đại học thường dựa trên các chỉ số cơ bản như: mức độ hài lòng của sinh viên khi kết thúc khoá học về các vấn đề: sự rõ ràng, cụ thể của mục tiêu, yêu cầu và chuẩn mực; cấu trúc nội dung, chương trình, chất lượng giảng dạy, sự nâng cao tay nghề và mở rộng kiến thức; khả năng tìm việc làm và sự thăng tiến của những sinh viên sau khi tốt nghiệp…

Nghiên cứu về vấn đề quản lý  chất lượng đào tạo từ trước đến nay tại Việt Nam đã được xem xét trên nhiều khía cạnh của hoạt động quản lý đào tạo như đánh giá chương trình, xây dựng và quản lý thời khóa biểu, đánh giá chất lượng hoạt động dạy và học… nhưng chưa thống nhất được các tiêu chí đánh giá chất lượng đào tạo.

Thực tế , năm 1986 trong Hội nghị giáo dục toàn quốc lần thứ III, GS Đặng Vũ Hoạt có bài tham luận“.. Đánh giá tri thức của học sinh trong lịch sử giáo dục nhà trường”. Năm 1995 Viện nghiên cứu phát triển giáo dục đã nghiên cứu thành công đề tài B94-38-09PP về “Cải tiến phương pháp kiểm tra, đánh giá chất lượng học tập của sinh viên các trường đại học và cao đẳng”. Từ công trình nghiên cứu đó tác giả Đặng Bá Lãm đã xuất bản cuốn sách “Phương pháp kiểm tra, đánh giá trong giảng dạy ở đại học”. Cũng trong thời gian này, Viện khoa học giáo dục đã nghiên cứu thành công đề tài B94 – 37- 43 về “ Cơ sở lý luận của việc đánh giá trong quá trình dạy học ở trường phổ thông”. Đã đưa ra nhiều giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo, gắn quá trình đào tạo với nghiên cứu khoa học, trong đó có chất lượng học tập và quản lí chất lượng học tập của sinh viên.

Trong những năm gần đây, công tác quản lý chất lượng đã đặc biệt được chú trọng. Đã hình thành các tổ chức chuyên trách về đánh giá và kiểm định chất lượng. Ngoài Cục Khảo thí và Kiểm định chất lượng cấp trung ương được thành lập vào tháng 8/2004, phòng Khảo thí và Kiểm định chất lượng đã được thành lập tại 60 trong số 63 Sở Giáo dục và Đào tạo (95%), 77 đơn vị chuyên trách về đảm bảo chất lượng được thành lập ở các trường đại học và cao đẳng,  tháng 12/2008, đã có 114/163 (70%) trường đại học tự đánh giá, trong đó có 40 trường được đánh giá ngoài.

Các trường phổ thông chất lượng cao được hình thành ở nhiều địa phương. Nhiều trường đại học đã tổ chức dạy học theo các chương trình tiên tiến quốc tế. Tháng 12/2008 có 23 chương trình đào tạo tiên tiến quốc tế đang được thực hiện ở 17 trường đại học giảng dạy trực tiếp bằng tiếng Anh, đã tăng cường sự gắn kết giữa hoạt động khoa học công nghệ với hoạt động đào tạo sau đại học, tập trung vào các lĩnh vực: công nghệ sinh học, công nghệ thông tin, công nghệ vật liệu, khoa học nông – lâm – ngư và khoa học giáo dục.

Trong cuốn sách “Khoa học Quản lý giáo dục – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Trần Kiểm…có bàn luận rất sâu sắc về chất lượng đào tạo. Chất lượng đào tạo được tiếp cận nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. Khái quát những vấn đề cơ bản về lý luận chất lượng và quản lý chất lượng GD – ĐT, làm sáng tỏ cấu trúc của chất lượng GD – ĐT, cũng như mối quan hệ biện chứng của chất lượng dạy, chất lượng giáo dục và chất lượng hoạt động học của người học “chất lượng quá trình đào tạo phụ thuộc vào chất lượng hoạt động dạy và chất lượng hoạt động học”. Các tài liệu nghiên cứu xoay quanh chất lượng đào tạo và quản lý chất lượng đào tạo chỉ rõ những dấu hiệu cơ bản về chất lượng đào tạo, sự cần thiết phải tăng cường quản lý chất lượng đào tạo trong nhà trường. Tuy nhiên, cách thức tổ chức như thế nào để quản lý chất lượng đào tạo trong điều kiện hoàn cảnh cụ thể của từng trường lại là một vấn đề chưa được bàn luận sâu sắc, triệt để.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn: Chất lượng đào tạo ở Trường Cao đẳng SaigonAct

Mục đích nghiên cứu

Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn để đề xuất hệ thống biện pháp quản lý chất lượng đào tạo ở Trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật và Du lịch Sài Gòn, đáp ứng yêu cầu phát triển nhà trường hiện nay.

Nhiệm vụ nghiên cứu

Nghiên cứu cơ sở lý luận của quản lý chất lượng đào tạo ở trường Cao đẳng Văn Hóa Nghệ thuật và Du lịch Sài Gòn.

Đánh giá thực trạng, nguyên nhân trong quản lý chất lượng đào tạo ở Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật và Du lịch Sài Gòn.

Đề xuất hệ thống biện pháp quản lý chất lượng đào tạo ở Trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật và Du lịch Sài Gòn hiện nay.

4. Khách thể, đối tượng, phạm vi nghiên cứu

Khách thể nghiên cứu

Hoạt động quản lý chất lượng đào tạo ở trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật và Du Lịch Sài Gòn

Đối tượng nghiên cứu

Biện pháp quản lí chất lượng đào tạo ở trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật và Du lịch Sài Gòn hiện nay.

Phạm vi nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu biện pháp quản lý chất lượng đào tạo tại trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật và Du lịch Sài Gòn  từ năm 2007-2012.

5. Giả thuyết khoa học

Chất lượng đào tạo của trường cao đẳng và đại học phụ thuộc trước hết vào các yếu tố bảo đảm để thực hiện được mục tiêu, yêu cầu đào tạo. Nếu các chủ thể quản lý giáo dục của Trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật và Du lịch Sài Gòn làm tốt việc hoàn thiện hệ thống văn bản pháp qui và cụ thể hoá mục tiêu đào tạo vào các quy chế, quy định; bảo đảm và kiểm soát chặt chẽ chất lượng đào tạo chuyên ngành; phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, các lực lượng sư phạm trong quá trình giáo dục; nêu cao tính tích cực, chủ động học tập của sinh viên; xây dựng môi trường chính trị, văn hoá lành mạnh thì sẽ quản lý được chất lượng đào tạo của Nhà trường.

6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn: Chất lượng đào tạo ở Trường Cao đẳng SaigonAct

Phương pháp luận

Trong quá trình nghiên cứu tác giả dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng Mác – Lê nin, quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về giáo dục, dựa trên các quan điểm, nguyên tắc phương pháp của khoa học quản lí giáo dục, lý luận về quản lí chất lượng giáo dục trong các trường cao đẳng và đại học. Đề tài tiếp cận theo quan điểm hệ thống, lôgic và quan điểm thực tiễn trong nghiên cứu đề tài.

Phương pháp nghiên cứu

Sử dụng nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận bao gồm; phân tích và tổng hợp tài liệu, phương pháp phân loại tài liệu có liên quan đến đề tài nghiên cứu.

Sử dụng nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn bao gồm: các phương pháp điều tra, khảo nghiệm, phân tích nhận định, thống kê toán học, phương pháp chuyên gia để làm rõ kết quả nghiên cứu.

7. Ý nghĩa, giá trị của luận văn

Đề tài góp phần các khái niệm công cụ, hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về quản lí chất lượng đào tạo ở trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật và Du lịch Sài Gòn

Đề xuất yêu cầu, những biện pháp cơ bản quản lí chất lượng đào tạo ở trường Văn hóa Nghệ thuật và Du lịch Sài Gòn hiện nay.

Đề tài hoàn thành có thể làm tài liệu tham khảo cho nhà trường trong công tác giáo dục – đào tạo, nghiên cứu khoa học.

8. Kết cấu của luận văn

Luận văn  bao gồm: Phần mở đầu, 3 chương, kết luận, kiến nghị, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA BIỆN PHÁP QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO Ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG VĂN HÓA NGHỆ THUẬT VÀ DU LỊCH SÀI GÒN

1.1. Các khái niệm cơ bản của đề tài. Luận văn: Chất lượng đào tạo ở Trường Cao đẳng SaigonAct

1.1.1. Khái niệm về chất lượng đào tạo

Hiện nay thuật ngữ “chất lượng” đang được sử dụng rất phổ biến trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và hoạt động của con người. Mặc dù có rất nhiều quan niệm về chất lượng ở các cấp độ khác nhau như: chất lượng là sự hoàn hảo, chất lượng là mức tốt, sự xuất sắc; chất lượng là cái tạo nên phẩm chất, giá trị của con người, sự vật; chất lượng là phạm trù triết học chỉ cái bản chất của sự vật, mà nhờ đó có thể phân biệt được sự vật này với sự vật khác. Tuy nhiên, có thể hiểu khái niệm “chất lượng” trên hai khía cạnh: chất lượng tuyệt đối và chất lượng tương đối. Chất lượng tuyệt đối được dùng chỉ những sản phẩm, đồ vật hàm chứa trong đó những phẩm chất, những tiêu chuẩn cao nhất khó có thể vượt qua. Nó được dùng với chất lượng cao hoặc chất lượng hàng đầu, đó là cái để chiêm ngưỡng, muốn có, ít người có thể có. Với quan niệm chất lượng tương đối dùng chỉ một số phẩm chất, thuộc tính của sự vật, hiện tượng hay sản phẩm nào đó. Quan niệm chất lượng tương đối cũng được hiểu trên hai mặt: Thứ nhất, chất lượng là sự đạt được mục tiêu ( phù hợp với mục tiêu) do con người đặt ra; ở khía cạnh này chất lượng được xem như là chất lượng bên trong (nội hàm). Thứ hai, chất lượng xem là sự thoả mãn khách hàng (người tiêu dùng sản phẩm), ở khía cạnh này chất lượng được xem là chất lượng bên ngoài (ngoại diên).

Như vậy, chất lượng là một khái niệm đa chiều, có tính lịch sử, hàm chứa nhiều yếu tố định lượng và định tính, có thể nói là “dung sai” tương đối lớn trong quan niệm đo lường và đánh giá. Dưới các cấp độ quan niệm khác nhau, mục đích khác nhau thì việc đánh giá chất lượng có thể cũng khác nhau. Trong lĩnh vực giáo dục, thuật ngữ chất lượng thường được sử dụng khi xem xét, đánh giá hoặc so sánh kết quả với mục tiêu đã xác định dưới hai góc độ chính là: chất lượng trong hệ thống giáo dục và chất lượng sản phẩm giáo dục.

Theo cách hiểu thông thường, chất lượng đào tạo là mức độ kiến thức, kỹ năng và thái độ mà học sinh đạt được sau khi kết thúc một cấp học, bậc học nào đó so với các chuẩn đã được đề ra trong mục tiêu giáo dục. Ở đây, chuẩn cũng chỉ là những quy định có tính giai đoạn, trong những điều kiện nhất định nào đó; nó sẽ phải thay đổi khi có yêu cầu phải nâng cao chất lượng hoặc khi các điều kiện để thực hiện giáo dục được nâng cấp hơn. Mỗi giai đoạn lịch sử có những chuẩn riêng, không thể lấy chuẩn của giai đoạn lịch sử này để đánh giá chất lượng của một giai đoạn lịch sử khác.

Để đánh giá được chất lượng đào tạo, trước hết cần thống nhất với nhau chuẩn để đánh giá. Căn cứ vào sản phẩm của giáo dục là nhân cách của học sinh, các chuẩn (tiêu chí) đang được dùng phổ biến trên thế giới để đánh giá chất lượng giáo dục là kiến thức, kỹ năng và thái độ mà học sinh đạt được sau khi kết thúc một cấp học, bậc học nào đó. Luận văn: Chất lượng đào tạo ở Trường Cao đẳng SaigonAct

Theo tác giả Trần Khánh Đức (Viện nghiên cứu phát triển giáo dục) quan niệm: Chất lượng đào tạo được đánh giá qua mức độ đạt tới mục tiêu đào tạo đã đề ra đối với một chương trình đào tạo và chất lượng đào tạo là kết quả của quá trình đào tạo được phản ánh ở các đặc trưng về phẩm chất, giá trị nhân cách và giá trị sức lao động hay năng lực hành nghề của người tốt nghiệp tương ứng với mục tiêu, chương trình đào tạo theo các ngành nghề cụ thể.

Với yêu cầu đáp ứng nhu cầu nhân lực của thị trường lao động quan niệm về chất lượng đào tạo nghề không chỉ dừng ở kết quả của quá trình đào tạo trong nhà trường mà còn phải tính đến mức độ phù hợp và thích ứng của người tốt nghiệp với thị trường lao động như tỷ lệ có việc làm sau khi tốt nghiệp, năng lực hành nghề tại các vị trí làm việc cụ thể ở các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức sản xuất – dịch vụ, khả năng phát triển nghề nghiệp… Quá trình thích ứng với thị trường lao động không chỉ phụ thuộc vào chất lượng đào tạo mà còn phụ thuộc vào các yếu tố khác của thị trường như quan hệ cung – cầu, giá cả sức lao động, chính sách sử dụng và bố trí công việc của nhà nước và người sử dụng lao động … Do đó, chất lượng đào tạo còn là sự thỏa mãn mục tiêu và đáp ứng yêu cầu của những đơn vị, cá nhân có sử dụng người đã tốt nghiệp từ hệ thống giáo dục, đào tạo.

Từ những phân tích ở trên, ta có thể khái quát rằng: Chất lượng đào tạo của trường cao đẳng, đại học là mức độ đạt được mục tiêu đào tạo đã đề đối với chương trình đào tạo của nhà trường và được thể hiện ở phẩm chất nhân cách, trình độ kiến thức, kỹ năng và năng lực chuyên môn nghề nghiệp của người được đào tạo.

Với quan niệm như vừa nêu ta có thể hiểu chất lượng đào tạo của trường cao đẳng, đại học cụ thể như sau:

Thứ nhất, chất lượng đào tạo không phải là những con số cộng lại giản đơn của tất cả các giá trị kiến thức, kỹ xảo, kỹ năng của các yếu tố, các phẩm chất nhân cách của người học hợp thành, mà là sự tích hợp, tổng hoà của các yếu tố, các phẩm chất được hình thành và phát triển trong quá trình đào tạo, các yếu tố đó có quan hệ biện chứng tác động qua lại trong một chỉnh thể thống nhất.

Thứ  hai, chất lượng đào tạo phản ánh năng lực nhận thức và các phẩm chất của sinh viên so với mục tiêu yêu cầu đào tạo của nhà trường; nó được biểu hiện ra ở mục đích, động cơ thái độ học tập, mức độ nắm kiến thức, kĩ xảo, kĩ năng và trình độ vận dụng một cách sáng tạo các kiến thức kĩ xảo, kĩ năng trong các tình huống học tập và hoàn thiện các phẩm chất nhân cách của họ.

Thứ ba, chất lượng đào tạo ở trường Cao đẳng Đại học còn được biểu hiện ở sản phẩm đào tạo (đầu ra). Đó là sự phù hợp của sản phẩm đào tạo với nhu cầu của xã hội. Biểu hiện của sự phù hợp đó là mức độ thích ứng với công việc và phát huy tác dụng của sinh viên sau khi ra trường.

Thứ tư, chất lượng đào tạo ở  trường  cao đẳng, đại học là tổng hợp chất lượng của tất cả các yếu tố cấu thành quá trình đào tạo, trước hết là: Sự phong phú, mềm dẻo, linh hoạt, sáng tạo về nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức dạy học; kết quả đạt được của quá trình đào tạo thể hiện ở mức độ kiến thức, kỹ xảo kỹ năng và các phẩm chất nhân cách mà sinh viên đạt được sau khi kết thúc khoá học; sự phù hợp của sản phẩm đào tạo với nhu cầu của xã hội và sứ mệnh của nhà trường.

1.1.2. Khái niệm về quản lí chất lượng đào tạo ở các trường cao đẳng, đại học

Có nhiều quan niệm và cách hiểu khác nhau về quản lý chất lượng đào tạo ở trường cao đẳng, đại học, trong đó nổi lên một số quan niệm chính như:

Quản lí chất lượng đào tạo là quá trình thiết kế các tiêu chuẩn và duy trì các cơ chế bảo đảm chất lượng để sản phẩm đào tạo đạt được các tiêu chuẩn xác định. Luận văn: Chất lượng đào tạo ở Trường Cao đẳng SaigonAct

Quản lí chất lượng đào tạo là thuật ngữ được sử dụng để miêu tả các thủ pháp hoặc các quy trình được tiến hành nhằm kiểm tra, đánh giá xem các sản phẩm đào tạo của một nhà trường, một cơ sở đào tạo có bảo đảm được các thông số chất lượng theo mục đích, yêu cầu đã được định sẵn hay không.

Để quản lý được chất lượng đào tạo, từng trường cao đẳng, đại học thường phải làm tốt các nhiệm vụ chủ yếu sau:

Một là, hình thành nền nếp, thói quen xây dựng chiến lược và kế hoạch chất lượng cho mỗi tổ chức và toàn trường. Cần quan niệm rằng, xây dựng chiến lược phát triển chất lượng là việc cần làm của tất cả các nhà trường chứ không phải chỉ là chức năng của các cơ quan quản lý cấp hệ thống. Thực chất của hoạt động này là xác định tầm nhìn chiến lược về chất lượng đào tạo của nhà trường/cơ sở đào tạo của mình cho 5-10 năm sau, đưa ra được những phương châm hành động, mục tiêu dài hạn và ngắn hạn, những tuyên bố về chuẩn mực chất lượng và việc xác lập các chiến lược, phương pháp quản lý chất lượng bên trong các cơ sở giáo dục…

Hai là, xây dựng và tổ chức thực hiện hệ thống chuẩn mực chất lượng và hệ thống chỉ số thực hiện trong các cơ sở giáo dục. Trước hết, cần thấy rằng: mục tiêu đặt ra trong kế hoạch chiến lược phải được cụ thể hóa theo các chuẩn và chỉ số thực hiện thì mới có thể quản lý, thực hiện và đánh giá được. Do vậy, cần lượng hóa thành các cấp độ mục tiêu (từ mục tiêu tổng quát tới mục tiêu bộ phận, từ chung đến riêng) và xác lập các mối quan hệ giữa chúng. Sau nữa là việc xác định hệ thống chuẩn mực chất lượng mà bản chất là tiến hành xem xét các định chế và mức độ thực hiện cho phù hợp với tình hình của một cơ sở nhà trường, dựa trên cơ sở bám sát chuẩn mực của cả hệ thống (huyện – tỉnh – quốc gia) để nâng cao chất lượng cho bằng hoặc vượt chuẩn.

Ba là, chọn lọc, vận dụng các tri thức về khoa học quản lý chất lượng để xây dựng và tổ chức thực hiện quy trình, cơ chế quản lý chất lượng trong các nhà trường. Hiện nay, trong cơ chế quản lý của các nhà trường đã có những yếu tố tiền đề của các quy trình quản lý chất lượng. Bởi thế, cần củng cố, chuẩn hóa, đổi mới nó trên cơ sở các quan điểm, phương pháp quản lý chất lượng, theo hướng quy trình hóa, pháp lý hóa và văn bản hóa. Có hai loại quy trình thực hiện chất lượng cần được chú trọng: quy trình đảm bảo và cải tiến nâng cao chất lượng và quy trình kiểm định đánh giá chất lượng.

Bốn là, xây dựng hệ thống thông tin quản lý ở cả cấp trường và cấp hệ thống cho quản lý chất lượng. Một mặt, chú trọng sử dụng các phương pháp thống kê trong thu thập, phântích thông tin; mặt khác, ban hành công khai các chỉ số thực hiện, quy trình đảm bảo chất lượng, cơ chế đánh giá, kết quả đánh giá để mọi thành viên trong các nhà trường

Từ những quan niệm về phương hướng, nhiệm vụ chung của quản lí chất lượng đào tạo như vừa nêu, ta có thể xác định khái niệm: Quản lý chất lượng đào tạo ở trường cao đẳng, đại học là bảo đảm các điều kiện thực hiện và kiểm soát chất lượng của các yếu tố cấu thành quá trình đào tạo nhằm làm cho sản phẩm đào tạo đạt tới được mục tiêu đào tạo đã đề ra.

1.1.3. Khái niệm về biện pháp quản lí chất lượng đào tạo ở Trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật và Du lịch Sài Gòn. Luận văn: Chất lượng đào tạo ở Trường Cao đẳng SaigonAct

Trong cuộc sống thường ngày, từ “biện pháp„ thường được hiểu là cách thức, thủ thuật tác động tới một khách thể nào đó nhằm làm cho nó biến đổi theo ý đồ của chủ thể tác động. Trong quản lý giáo dục, biện pháp quản lý được hiểu là hệ thống những cách thức nắm giữ và điều khiển của chủ thể quản lý đối với đối tượng quản lý nhằm đạt tới mục đích giáo dục.

Biện pháp quản lý chất lượng đào tạo là một loại biện pháp quản lý giáo dục nhằm hướng đến việc bảo đảm chất lượng và kiểm soát chất lượng theo đúng yêu cầu của hệ thống quản lý giáo dục. Vì vậy, để hiểu rõ khái niệm về biện pháp quản lý chất lượng đào tạo ở Trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật và Du lịch Sài Gòn trước hết cần nắm vững yêu cầu của xã hội đối với việc bảo đảm  và kiểm soát chất lượng giáo dục hiện nay.

Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Muốn nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện phải đổi mới cơ cấu tổ chức, cơ chế quản lý, nội dung, phương pháp dạy và học”. Chính sự đổi mới cơ cấu tổ chức, cơ chế quản lý, nội dung, phương pháp dạy học đã đặt ra đối với các trường cao đẳng, đại học những yêu cầu về thực hiện các giải pháp quản lý chất lượng đào tạo, trong đó nổi lên các yêu cầu cơ bản sau:

  • Xây dựng và công bố chuẩn đầu ra ngành đào tạo; thực hiện cam kết về chất lượng đào tạo; tổ chức biên soạn giáo trình; lựa chọn; mua bản quyền của nước ngoài những tài liệu dạy học tiên tiến.
  • Chủ động phối hợp chặt chẽ với các doanh nghiệp tham gia quá trình đào tạo của trường, gắn đào tạo với thực tiễn xã hội, coi doanh nghiệp là một yếu tố của quá trình đào tạo, tham gia xây dựng, đánh giá phản biện chương trình đào tạo, hỗ trợ và hướng dẫn sinh viên thực hành thực tập, tham gia báo cáo các chuyên đề, hướng dẫn tốt nghiệp, nhận sinh viên sau tốt nghiệp, hợp  tác  nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ,…
  • Xây dựng quy hoạch, lộ trình cụ thể để phát triển đội ngũ giảng viên đủ về số lượng, hợp lý về cơ cấu, phấn đấu đến năm học 2014 – 2015 phải chấm dứt tình trạng đại học dạy đại học. Kiên quyết chấm dứt giảng viên lên lớp vượt quá nhiều giờ so với quy định.
  • Các trường tập trung thực hiện đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy học, thi và áp dụng công nghệ đo lường hiện đại trong đánh giá để đáp ứng tốt hơn nhu cầu người học.
  • Tăng cường các hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên và giảng viên, khuyến khích giảng viên công bố các kết quả nghiên cứu ở các tạp chí có uy tín ở nước ngoài.
  • Rà soát chuẩn đầu ra của các trường theo hướng đối sánh mức độ đạt được của sinh viên tốt nghiệp so với chuẩn đầu ra của nhà trường làm cơ sở để điều chỉnh, hoàn thiện chuẩn đầu ra theo hướng đáp ứng nhu cầu xã hội và thị trường lao động…

Việc vận dụng những giải pháp quản lý chất lượng đào tạo chung của toàn bộ hệ thống giáo dục vào từng trường cao đẳng và đại học sẽ đưa tới hình thành những biện pháp quản lý chất lượng đào tạo của nhà trường. Với quan niệm như vậy, ta có thể hiểu: Biện pháp quản lý chất lượng đào tạo ở Trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật và Du lịch Sài Gòn là cách thức tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến quá trình đào tạo nhằm tạo ra những điều kiện bảo đảm chất lượng, đồng thời kiểm soát chặt chẽ chất lượng của từng yếu tố cấu thành quá trình đó theo đúng mục tiêu, yêu cầu đào tạo của Nhà trường.

Như vậy khái niệm “biện pháp quản lý chất lượng đào tạo” đặt ra cho chủ thể quản lý những công việc rất quan trọng, đó là: Tạo ra được các điều kiện bảo đảm chất lượng đào tạo và thường xuyên kiểm soát được những biến đổi về chất lượng của từng thành tố của quá trình đào tạo, trên cơ sở đó kịp thời chỉ đạo, điều hành hoạt động đào tạo, nhằm làm cho sản phẩm đào tạo đáp ứng được mục tiêu đào tạo và đòi hỏi của hoạt động thực tiễn.

1.2. Mô hình và nội dung quản lí chất lượng đào tạo ở các trường cao đẳng, đại học Luận văn: Chất lượng đào tạo ở Trường Cao đẳng SaigonAct

1.2.1. Các mô hình quản lí chất lượng đào tạo đang được sử dụng phổ biến hiện nay

Mô hình kiểm soát chất lượng đào tạo

Đây là mô hình quản lí truyền thống về chất lượng giáo dục, đào tạo. Ở cấp độ quốc gia, Nhà nước với tư cách là tổ chức quyền lực cao nhất, kiểm soát chất lượng giáo dục nhằm trước hết bảo đảm tính mục đích của các hoạt động giáo dục, đáp ứng lợi ích của thể chế chính trị – xã hội, lợi ích quốc gia và của các tầng lớp xã hội đóng góp và hưởng thụ lợi ích của giáo dục. Mặt khác, về khía cạnh đầu tư, Nhà nước là người đầu tư lớn vào lĩnh vực giáo dục. Trong kiểm soát chất lượng có 2 loại hình hay kiểu cơ bản là:

Mô hình kiểm soát đầu vào: thông qua chính sách phát triển giáo dục- đào tạo, hệ thống pháp luật, thanh tra giáo dục, v.v… để kiểm soát đầu vào từ quy mô đào tạo các bậc học qua các chỉ tiêu tuyển sinh, định mức kinh phí đào tạo; tỷ lệ chuyển cấp, chính sách phổ cập giáo dục v.v… cho các yêu cầu về chương trình đào tạo, đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất v.v… Đây là mô hình đặc trưng của cơ chế quản lý tập trung, bao cấp của các nước xã hội chủ nghĩa trước kia và một số nước Châu Âu hiện nay.

Mô hình kiểm soát đầu ra: là mô hình hướng trọng tâm quản lý, kiểm soát vào kết quả đào tạo thông qua chính sách sử dụng, đánh giá, kiểm soát chặt chẽ thi cử, tốt nghiệp, văn bằng chứng chỉ quốc gia. Ví dụ, việc tổ chức các kỳ thi quốc gia đánh giá chất lượng tốt nghiệp các cấp và khảo sát tình hình việc làm sau tốt nghiệp; sát hạch cấp bằng lái xe theo các quy định chặt chẽ về trình độ kiến thức, kỹ năng, không quan tâm nhiều đến người học ở đâu và học khi nào.

Ở cấp độ nhà trường, các hoạt động quản lý chất lượng tập trung vào đầu vào (tuyển sinh) và đầu ra (các kỳ thi tốt nghiệp) và do đó trách nhiệm về chất lượng chỉ tập trung vào một số người liên quan đến hai công tác trên.

Mô hình bảo đảm chất lượng đào tạo

Theo tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 5814: “Bảo đảm chất lượng là toàn bộ hoạt động có kế hoạch và hệ thống được tiến hành trong hệ chất lượng và được chứng minh là đủ mức cần thiết để tạo sự tin tưởng thoả đáng rằng thực thể (đối tượng) sẽ thoả mãn đầy đủ các yêu cầu chất lượng”.

Trong đào tạo, khái niệm bảo đảm chất lượng có thể được coi như là một “hệ thống các biện pháp, các hoạt động có kế hoạch được tiến hành trong và ngoài nhà trường, được chứng minh là đủ mức cần thiết để tạo ra sự tin tưởng thoả đáng rằng các hoạt động và sản phẩm đào tạo sẽ thoả mãn đầy đủ các yêu cầu về chất lượng đào tạo”.

Bảo đảm chất lượng đào tạo là toàn bộ các chủ trương, chính sách, cơ chế quản lí, mục tiêu hoạt động, điều kiện nguồn lực, các thủ tục, quy trình và những biện pháp để duy trì, nâng cao chất lượng đào tạo, thông qua sự tồn tại và sử dụng chúng, các chuẩn mực trong đào tạo sẽ được duy trì và chất lượng sẽ được nâng lên.

Nói cách khác, bảo đảm chất lượng có nghĩa là tạo ra sản phẩm không lỗi, làm đúng như thiết kế ngay từ đầu và làm đúng ở mọi thời điểm.

Chất lượng đào tạo ở trường cao đẳng Văn hóa nghệ thuật và Du lịch Sài Gòn được bảo đảm bởi một hệ thống, đó là hệ thống bảo đảm chất lượng, hệ thống này sẽ chỉ ra chính xác phải làm thế nào và theo những tiêu chuẩn nào. Các tiêu chuẩn chất lượng được sắp xếp theo những thể thức thích hợp trong hệ thống bảo đảm chất lượng.

Mô hình BS 5750/ ISO 9000

Khoảng từ đầu thập kỷ 90, giới quản lý giáo dục quan tâm tới tiêu chuẩn Anh BS 5750 và tương đương với nó là tiêu chuẩn quốc tế ISO 9000

Bản chất của mô hình BS 5750/ ISO 9000 là một hệ thống các văn bản quy định tiêu chuẩn và quy trình chi tiết, nghiêm ngặt ở mỗi giai đoạn của quá trình sản xuất bảo đảm mọi sản phẩm hay dịch vụ phải phù hợp với mẫu mã, quy cách, các thông số kỹ thuật quy định trước đó với mục tiêu là tạo một đầu ra “phù hợp với mục đích”.

BS 5750/ ISO 9000 đưa ra một kỷ luật nghiêm ngặt đối với những người sử dụng, đồng thời đòi hỏi sự đầu tư về nhân lực, tài lực và thời gian. Mọi người phải nắm được các yêu cầu đặt ra và tuân thủ các quy trình một cách nghiêm túc. Mô hình này đã và đang được ứng dụng để xây dựng hệ thống quản lý chất lượng các cơ sở đào tạo theo tiêu chuẩn ISO 9000.

Mô hình quản lý chất lượng đào tạo theo ISO 9000: 2000

Với quan điểm các cơ sở đào tạo là một loại hình dịch vụ xã hội, một số nước đã và đang áp dụng mô hình quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9000: 2000 với yêu cầu cơ bản là hình thành ở các cơ sở đào tạo hệ thống quản lý chất lượng

Hệ thống quản lý chất lượng

Mô hình quản lý chất lượng theo ISO 9000: 2000

Mô hình quản lý chất lượng theo ISO là quá trình tuân thủ chặt chẽ theo các yêu cầu sau: Viết những gì đã làm, làm những gì đã viết, kiểm tra những việc đang làm so với những gì đã viết, lưu hồ sơ, xem xét duyệt lại hệ thống một cách thường xuyên.

Mô hình quản lý chất lượng tổng thể trong giáo dục và đào tạo ở trường cao đẳng, đại học.

Đây là mô hình quản lí toàn bộ quá trình đào tạo để bảo đảm chất lượng các cấp từ đầu vào, quá trình và đầu ra, kết quả đào tạo và khả năng thích ứng về lao động và việc làm. Mô hình quản lý chất lượng tổng thể TQM được áp dụng trước hết ở các cơ sở kinh doanh, doanh nghiệp và cơ sở đào tạo với nhiều mô hình cụ thể khác nhau như mô hình Châu Âu về quản lý chất lượng tổng thể trong giáo dục (EUTQM on ED); Mô hình cấu trúc các thành phần của quá trình đào tạo (Mô hình SEAMEO). ở cấp độ vĩ mô (nhà nước) việc sáp nhập một số cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục với cơ quan quản lý nhà nước về lao động.

Mô hình bảo đảm chất lượng dựa trên cơ sở mô hình quản lý chất lượng tổng thể TQM với xu hướng phi tập trung hoá, tăng cường phân cấp quản lý giáo dục, đề cao tính tự chủ và tự chịu trách nhiệm của các cơ sở đào tạo nói chung và trong chất lượng đào tạo nói riêng. Hình thành văn hoá chất lượng và hệ thống chất lượng của các cơ sở đào tạo thông qua quá trình đánh giá bên trong. Vai trò quản lý nhà nước được thể hiện cụ thể ở việc hoạch định chính sách chất lượng, hệ thống các chuẩn mực bảo đảm chất lượng, xây dựng và ban hành quy trình, cơ chế thực hiện đánh giá bên ngoài để đánh giá công nhận hoặc kiểm định chất lượng đào tạo. Việc chuyển sang mô hình bảo đảm chất lượng là một bước tiến lớn về quản lý chất lượng đào tạo cả ở cấp vi mô (nhà trường) và cấp vĩ mô (quản lý nhà nước). Luận văn: Chất lượng đào tạo ở Trường Cao đẳng SaigonAct

Các phân tích trên cho thấy, những thước đo đơn giản về hiệu quả hay thành tích của một nhà trường là những chỉ số không đầy đủ về chất lượng thực sự của trường đó. Các chỉ số hiệu quả của nhà trường chỉ là một phần của một hệ thống và cũng không phải là phần quan trọng nhất. Các chỉ số về đầu vào, quá trình của hệ thống đều là các cấu thành có tầm quan trọng như nhau trong việc xác định chất lượng của một nhà trường.

hình kiểm định chất lượng

Chất lượng giáo dục là một vấn đề luôn được xã hội quan tâm vì tầm quan trọng hàng đầu của nó đối với sự nghiệp phát triển đất nước nói chung, sự nghiệp phát triển giáo dục nói riêng. Mọi hoạt động giáo dục được thực hiện đều hướng tới mục đích góp phần đảm bảo, nâng cao chất lượng giáo dục; và một nền giáo dục ở bất kì quốc gia nào bao giờ cũng phải phấn đấu để trở thành một nền giáo dục chất lượng cao. Mặc dù vậy, do tính chất phức tạp, đa dạng, nhiều chiều của vấn đề, hiểu đầy đủ về chất lượng giáo dục cũng như xác định quy trình, phương pháp, kĩ thuật đánh giá chất lượng giáo dục một cách khoa học, phù hợp với thực tiễn phát triển của xã hội, của giáo dục trong một hoàn cảnh cụ thể không phải là điều đơn giản.

Một vài năm trở lại đây, trong lí luận và thực tiễn giáo dục Việt Nam đã xuất hiện một khái niệm khá mới mẻ: kiểm định chất lượng giáo dục (KĐCLGD). Là một giải pháp quản lí chất lượng nhằm đưa ra những kết quả tin cậy bằng cách kiểm soát các điều kiện, quá trình tổ chức giáo dục thông qua những tiêu chuẩn, tiêu chí, chỉ số ở các lĩnh vực cơ bản của hệ thống giáo dục cũng như của các cơ sở giáo dục, KĐCLGD ở Hoa Kì và nhiều nước phát triển trên thế giới đã trở thành hoạt động thường xuyên, quen thuộc, thậm chí trở thành điều kiện tồn tại của nhiều cơ sở giáo dục (trước hết là giáo dục đại học). Trong khi đó, ở Việt Nam, KĐCLGD vẫn còn là một lĩnh vực chưa thực sự được nhiều người, thậm chí cả những người trực tiếp làm công tác quản lí giáo dục các cấp hiểu, đánh giá và quan tâm đúng mức.

Trong hệ thống các mô hình quản lí chất lượng giáo dục, KĐCLGD thực chất là bước phát triển của một mô hình quen thuộc hơn: mô hình đánh giá chất lượng giáo dục. Do vậy, KĐCLGD thường được quan niệm là một quá trình đánh giá ngoài nhằm đưa ra một quyết định công nhận tính chuẩn mực của một cơ sở giáo dục hay một chương trình đào tạo của cơ sở giáo dục. Chẳng hạn, theo định nghĩa của CHEA (Hiệp hội kiểm định giáo dục đại học), KĐCLGD đại học được xác định là “một quá trình xem xét chất lượng từ bên ngoài, được giáo dục đại học sử dụng để khảo sát đánh giá các cơ sở giáo dục cao đẳng và đại học và các ngành đào tạo đại học nhằm đảm bảo và cải tiến chất lượng” (CHEA, 2003); còn theo cách diễn đạt của SEAMEO (Tổ chức Bộ trưởng Giáo dục các nước Đông Nam Á): KĐCLGD đại học là“một quá trình đánh giá nhằm đưa ra một quyết định công nhận một cơ sở giáo dục đại học hay một ngành đào tạo của cơ sở giáo dục đại học đáp ứng các chuẩn mực quy định” (SEAMEO, 2003). Tuy nhiên, cần phải lưu ý rằng: trong mô hình đánh giá chất lượng giáo dục, để phân biệt các loại đánh giá trường học, người ta thường dựa vào tính chất của các thành phần tham gia đánh giá. Có bốn nhóm chính tham gia đánh giá trường học là:

  • Các tổ chức đánh giá độc lập/các nhà tài trợ hoặc cơ quan quản lí đề xướng việc đánh giá;
  • Các cán bộ đánh giá (có chuyên môn);
  • Những người có thể cung cấp thông tin;
  • Người sử dụng hoặc tiếp nhận các kết quả đánh giá.

Nếu cả bốn nhóm trên ở trong cùng một tổ chức, người ta gọi đó là “đánh giá trong” hay “tự đánh giá”; trong trường hợp ngược lại, người ta gọi đó là “đánh giá ngoài”.KĐCLGD bao gồm trong mình cả hai loại hình đánh giá cơ bản đó; nói cách khác, để hiểu đầy đủ hơn về KĐCLGD theo đúng quy trình của nó, vấn đề cần xác định thêm là: KĐCLGD tuy là một quá trình đánh giá ngoài nhưng nhiệm vụ chủ yếu của đánh giá ngoài ở đây lại là đánh giá kết quả tự đánh giá. Tự đánh giá là một khâu quan trọng trong hoạt động KĐCL các cơ sở giáo dục. Đây là quá trình cơ sở giáo dục tự xem xét, đối chiếu với các tiêu chuẩn đánh giá chất lượng do cơ quan có thẩm quyền ban hành để báo cáo về tình trạng chất lượng, hiệu quả hoạt động giáo dục – dạy học, nghiên cứu khoa học, nhân lực, cơ sở vật chất cũng như các vấn đề liên quan khác, từ đó tiến hành điều chỉnh các nguồn lực và quá trình thực hiện nhằm đáp ứng các tiêu chuẩn chất lượng.Tự đánh giá không chỉ tạo cơ sở cho công tác đánh giá ngoài mà còn là điều kiện để cơ sở giáo dục cải tiến chất lượng, do vậy, có thể xem KĐCLGD là sự thể chế hoá được phát triển đầy đủ nhất về tính tự chủ, tự chịu trách nhiệmcủa cơ sở giáo dục đối với chất lượng của mình và đối với công luận. KĐCLGD không những mang lại cho cộng đồng bằng chứng về chất lượng đào tạo mà còn mang lại cơ hội và động cơ để nâng cao chất lượng cho các trường đã qua kiểm định. Chính điều này là một trong những đặc điểm làm nên sự khác biệt giữa KĐCLGD với các mô hình quản lí chất lượng giáo dục khác, chẳng hạn như thanh tra giáo dục…

Một vấn đề nữa cần lưu ý đối với công tác KĐCLGD là: KĐCLGD tuy là một quá trình đánh giá ngoài nhưng tính chất chủ yếu của đánh giá ngoài là đánh giá đồng cấp; và một trong những mục tiêu cơ bản của đánh giá ngoài là giúp cơ sở giáo dục nhận thấy rõ hơn các điểm mạnh, điểm yếu và đưa ra kế hoạch cải tiến chất lượng của mình hợp lí, thiết thực hơn. Đây là một đặc điểm hết sức quan trọng khiến cho KĐCLGD nhanh chóng hoà nhập được vào các hoạt động của cơ sở giáo dục trong một không khí làm việc thân thiện, cởi mở.

Để có thể đánh giá chính xác chất lượng, hiệu quả hoạt động của một hệ thống hay một tổ chức giáo dục, giới nghiên cứu hết sức quan tâm đến việc xây dựng một bộ thước đo bao gồm các tiêu chuẩn, tiêu chí và các chỉ số làm căn cứ chủ yếu để xem xét chất lượng giáo dục gắn với mục tiêu theo những yêu cầu và trong những lĩnh vực, điều kiện thực tế khác nhau. Dựa vào mô hình đánh giá chất lượng giáo dục cơ bản, chúng ta có bốn hệ tiêu chí đánh giá sau đây đối với một cơ sở giáo dục:

Các tiêu chí thể hiện bối cảnh chung của cơ sở giáo dục (các chuẩn mực được thiết lập bởi cơ quan quản lí cấp trên, hoàn cảnh kinh tế – xã hội địa phương, sự hỗ trợ của cộng đồng…);

Các tiêu chí đầu vào (nguồn lực tài chính, trình độ chuyên môn và kinh nghiệm của đội ngũ giáo viên, nguồn tuyển sinh, kích cỡ lớp học, trang thiết bị của nhà trường, cơ sở vật chất…); Luận văn: Chất lượng đào tạo ở Trường Cao đẳng SaigonAct

Các tiêu chí đánh giá quá trình (các chủ trương, chính sách, sự lãnh đạo của nhà trường, đội ngũ giáo viên, môi trường sư phạm, phương pháp dạy học, phương pháp kiểm tra, đánh giá kết quả học tập…)

Các chỉ số về đầu ra (sản phẩm) (kết quả đạt được của sinh viên về các môn học cơ bản, tỉ lệ sinh viên lên lớp, tỉ lệ sinh viên bỏ học, tỉ lệ sinh viên tiếp tục theo học bậc cao hơn, tỉ lệ sinh viên tìm được việc làm phù hợp sau khi tốt nghiệp…). Tiếp tục phát triển các hệ tiêu chí đánh giá này, KĐCLGD sẽ tiến hành xây dựng các quy định về tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục cho từng loại hình trường và dùng quy định tiêu chuẩn đó làm công cụ để đánh giá mức độ yêu cầu và điều kiện mà các cơ sở của từng loại hình trường phải đáp ứng để được công nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng giáo dục. Các tiêu chuẩn (gồm nhiều tiêu chí) kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục phải quán triệt quan điểm tiếp cận tổng thể, đánh giá toàn bộ các lĩnh vực hoạt động giáo dục của nhà trường. Các yếu tố được đánh giá có mối quan hệ biện chứng với nhau trong một chỉnh thể thống nhất, có tác động ảnh hưởng qua lại với nhau và với chất lượng sản phẩm giáo dục của nhà trường.

Theo tinh thần ấy, KĐCLGD là một công cụ nhằm mục đích xác định mức độ đáp ứng mục tiêu giáo dục trong từng giai đoạn của cơ sở giáo dục, thông qua sự đánh giá tổng thể về tất cả các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng. Kết quả kiểm định là thước đo cơ sở giáo dục trong chuẩn chất lượng, đạt được những gì, còn thiếu những gì để điều chỉnh, bổ sung các điều kiện và tổ chức giáo dục, nhằm đạt chuẩn chất lượng. Kết quả kiểm định sẽ được công khai với cơ quan chức năng quản lí và xã hội. Ðiều đó một mặt là sự thể chế hoá được phát triển đầy đủ nhất về tính chịu trách nhiệm của cơ sở giáo dục đối với công luận, mặt khác sẽ thúc đẩy tích cực các cơ sở giáo dục phải tìm nhiều giải pháp, giải bài toán đảm bảo và nâng cao chất lượng giáo dục của đơn vị mình.

KĐCLGD được coi là hoạt động có hiệu quả khi không chỉ đánh giá xem một trường hay một chương trình đào tạo có đạt chất lượng hay không mà còn phải có vai trò như những chuyên gia tư vấn sẵn sàng giúp nhà trường giải quyết các vấn đề tồn đọng và không ngừng nâng cao chất lượng các hoạt động giáo dục – đào tạo.

Một số nơi, KĐCLGD còn nhằm mục đích giải trình với xã hội, với các cơ quan quyền  lực hay các cơ quan, tổ chức tài trợ, cấp kinh phí. Người học trước khi lựa chọn trường để đăng kí dự tuyển, các doanh nghiệp sử  dụng lao động trước khi tuyển chọn cũng thường cân nhắc xem nhà trường hay ngành đào tạo đã được kiểm định hay chưa…

Hiện nay, công tác KĐCLGD đã được khẳng định về mặt pháp lí trong Luật Giáo dục 2005 (Điều 17, Điều 99) và Nghị định số 75/2006/NĐ-CP ngày 1/8/2006 của Thủ tướng Chính phủ, đồng thời được Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) lựa chọn là biện pháp chủ yếu nhằm xác định mức độ thực hiện mục tiêu, chương trình, nội dung giáo dục đối với nhà trường và cơ sở giáo dục khác.

Cho đến nay, Bộ GD&ĐT đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật về KĐCLGD nói chung và KĐCLGD đại học, cao đẳng nói riêng. Theo đó bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục trường đại học, cao đẳng là mức độ yêu cầu và điều kiện mà trường đại học, cao đẳng phải đáp ứng để được công nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng giáo dục gồm 10 lĩnh vực: Sứ mạng và mục tiêu của nhà trường; tổ chức và quản lí; chương trình đào tạo; các hoạt động đào tạo; đội ngũ cán bộ quản lí, giảng viên và nhân viên; người học; nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; hoạt động hợp tác quốc tế; thư viện, trang thiết bị học tập và cơ sở vật chất khác; tài chính và quản lí tài chính.

Bộ Tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục trường đại học, cao đẳng với 10 khía cạnh, như đã nói ở trên, đã bao quát gần như toàn bộ các lĩnh vực liên quan đến cơ chế quản lí cũng như các mặt hoạt động của một trường đại học, cao đẳng hiện đại, tiệm cận với các tiêu chuẩn của các nước trong khu vực và quốc tế.

Như vậy có khá nhiều mô hình quản lý chất lượng đào tạo khác nhau đã được xác lập, từng mô hình quản lý lại có những nội dung quản lý cụ thể phù hợp với nó. Mỗi mô hình đều có những ưu điểm và nhược điểm nhất định trong quản lý chất lượng đào tạo, Vì vậy, căn cứ vào tình hình cụ thể của từng trường cao đẳng, đại học các chủ thể quản lý có thể lựa chọn những mô hình quản lý chất lượng phù hợp, từ đó xác định những nội dung quản lý thiết yếu nhất để xem xét, đánh giá chất lượng đào tạo của nhà trường.

1.2.2. Nội dung quản lí chất lượng đào tạo ở Trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật và Du lịch Sài Gòn. Luận văn: Chất lượng đào tạo ở Trường Cao đẳng SaigonAct

Trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật và Du lịch Sài Gòn là một trường dân lập còn non trẻ, những điều kiện bảo đảm và kiểm soát chất lượng còn có nhiều khó khăn. Vì vậy, việc xác định nội dung quản lý chất lượng đào tạo không thể theo riêng một mô hình quản lý chất lượng nào, mà cần hướng vào những vấn đề thiết yếu nhất của sự phát triển nhà trường trong bối cảnh đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo của nước nhà hiện nay.

Căn cứ vào các yếu tố cấu thành quá trình đào tạo và chức năng của quản lý giáo dục, đồng thời có tính đến các tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục của trường đại học, cao đẳng do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành, nội dung quản lý chất lượng đào tạo của Trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật và Du lịch Sài Gòn cần tập trung vào các nội dung sau:

Một là, quản lí hệ thống văn bản, quy chế, quy định liên quan đến giáo dục, đào tạo. Đây là công cụ quản lý giáo dục – đào tạo của nhà trường, bảo đảm cho mọi hoạt động giáo dục, đào tạo được thực hiện có nền nếp và kỷ luật, thống nhất được mọi nỗ lực sư phạm của lực lượng giáo duc. Vì vậy, đây là nội dung quản lý chất lượng đào tạo rất quan trọng.

Hai là, quản lí thực hiện mục tiêu, nội dung, chương trình, phương pháp đào tạo. Nội dung quản lý này hướng vào những yếu tố cấu thành chủ yếu nhất của quá trình đào tạo. Chủ thể quản lý một khi nắm chắc và chủ động chỉ đạo một cách khoa học đổi mới mục tiêu, nội dung, chương trình, phương pháp đào tạo của nhà trường thì chất lượng đào tạo của nhà trường sẽ biến đổi tích cực.

Ba là quản lí thực hiện kế hoạch hóa giáo dục, đào tạo. Trong bất kỳ hoạt động có tổ chức nào yếu tố kế hoạch cũng ảnh hưởng rất trực tiếp đến chất lượng của nó. Trong quản lý giáo dục, kế hoạch hóa được coi là chức năng hàng đầu của bộ máy quản lý. Kế hoạch đúng đắn, sáng tạo, cụ thể, kịp thời và được thực hiện nghiêm túc, chủ động sẽ đưa lại những thành công trong giáo dục, đào tạo của trường cao đẳng, đại học. Luận văn: Chất lượng đào tạo ở Trường Cao đẳng SaigonAct

Bốn là, quản lý cơ sở vật chât, phương tiện kỹ thuật dạy học của nhà trường. Trường cao đẳng, đại học hiện nay thường cần tới cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật dạy học rất lớn, bao gồm giảng đường, thư viện, phòng thí nghiệm, máy móc, thiết bị kỹ thuật, hệ thống mạng, máy tính, đồ dùng dạy học… Yếu tố cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật thường tác động rất mạnh mẽ tới kết quả đổi mới nội dung, phương pháp dạy học và trở thành một thành phần không thể thiếu của đảm bảo và kiểm soát chất lượng đào tạo. Vì vậy, chủ thể quản lý giáo dục không thể xem nhẹ việc quản lý cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật của trường cao đẳng, đại học.

Năm là, quản lí nội dung, phương thức và chất lượng hoạt đông kiểm tra, đánh giá kết quả giáo dục, đào tạo. Kiểm tra, đánh giá là chức năng của quản lý giáo dục, nó cung cấp những thông tin cần thiết về diễn biến và chất lượng của quá trình giáo dục, trên cơ sở đó giúp chủ thể quản lý có những quyết định chính xác nhằm nâng cao chất lượng đào tạo. Vì vậy, quản lý nội dung, phương thức và chất lượng kiểm tra, đánh giá kết quả giáo dục, đào tạo trở thành nội dung thiết yếu của quản lý chất lượng đào tạo ở các trường cao đẳng, đại học.

Sáu là, quản lý phẩm chất, năng lực của các chủ thể quản lý chất lượng giáo dục, đào tạo. Trong bảo đảm và kiểm soát chất lượng đào tạo nhân tố con người giữ vị trí rất quan trọng, đòi hỏi chủ thể quản lý phải có phẩm chất, năng lực phù hợp. Nếu Ban giám hiệu Trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật và Du lịch Sài Gòn quan tâm bố trí, sắp xếp cán bộ quản lý có đức, có tài, xây dựng cơ quan quản lý giáo dục vững mạnh, thường xuyên bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, nhân viên quản lý giáo dục thì sẽ quản lý có kết quả chất lượng đào tạo của nhà trường.

Bảy là, quản lý việc tổ chức phối hợp các lực l­ượng giáo dục trong bảo đảm và kiểm soát thường xuyên chất lượng hoạt động đào tạo. Đây là nội dung quản lý chất lượng đào tạo của trường đại học hướng vào làm rõ việc phát huy sức mạnh tổng hợp của giảng viên, cán bộ quản lý giáo dục, cán bộ quản lý sinh viên trong thực hiện mục tiêu, yêu cầu giáo dục.

Tám là, quản lí hoạt động tự học tập, rèn luyện và nghiên cứu khoa học của giảng viên. Chất lượng đào tạo của trường cao đẳng, đại học tùy thuộc rất lớn vào chất lượng của đội ngũ giảng viên. Vì vậy, quản lý tốt việc phấn đấu, trưởng thành của giảng viên cũng có nghĩa là quản lý được nội dung quan trọng thuộc về chất lượng đào tạo của nhà trường.

Chín là, quản lí hoạt động tự học, tự nghiên cứu, rèn luyện của sinh viên. Trong xu thế đổi mới giáo dục, đào tạo hiện nay, tính tích cực, chủ động của sinh viên trong tự học tập, rèn luyên luôn là một chỉ báo khá chân thực về chất lượng đào tạo của trường cao đẳng, đại học. Vì vậy, đây là nội dung không được xem nhẹ trong quản lý chất lượng đào tạo của Trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật và Du lịch Sài Gòn.

Tựu chung lại chín nội dung quản lý chất lượng đào tạo vừa nêu trên mặc dù không bao gồm hết các tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục trường đại học, nhưng đã tập trung vào những yếu tố cốt lõi nhất cấu thành chất lượng của quá trình đào tạo. Những nội dung quản lý này sẽ trở thành những tiêu chí cho việc phân tích thực trạng quản lý chất lượng đào tạo ở Trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật và Du lịch Sài Gòn.

1.3. Những nhân tố tác động đến quản lí chất lượng đào tạo của trường cao đẳng, đại học Luận văn: Chất lượng đào tạo ở Trường Cao đẳng SaigonAct

1.3.1. Tác động của mục đích đào tạo

Mục đích quá trình đào tạo của nhà trường là thống nhất các hoạt động quản lí, giảng dạy và phục vụ giảng dạy theo mục tiêu đào tạo đã được xác định. Tổ chức quá trình dạy học phải đảm bảo các nguyên tắc như; Tính khoa học trong đào tạo; Tính thống nhất trong giáo dục chính trị và chuyên môn; Mối quan hệ hiệu quả trong giảng dạy lý thuyết và thực hành; Kết hợp giữa lên lớp của giáo viên với tự học của sinh viên; Không ngừng nâng cao trình độ, kiến thức của đội ngũ giáo viên; Bảo đảm đày đủ cơ sở vật chất, phương tiện dạy học theo các nội dung đào tạo. Căn cứ vào nhiệm vụ đào tạo mà mục tiêu, yêu cầu đào tạo được xây dựng và hình thành. Đối tượng của mục tiêu yêu cầu đào tạo là những sinh viên sau khi tốt nghiệp ra trường phải đạt được những chuẩn mực nhất định về phẩm chất chính trị, trình độ chuyên môn, thể lực và khả năng đảm đương nhiệm vụ ở cương vị công tác được xác định.

Mục tiêu đào tạo: Sinh viên khi tốt nghiệp ra trường phải có những kiến thức cần thiết về tay nghề vừa bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao, vừa có thể tiếp tục bồi dưỡng để phát triển theo yêu cầu công việc. Đồng thời mỗi ngành đào tạo lại có yêu cầu cụ thể riêng về mục tiêu đào tạo, đòi hỏi học viên tốt nghiệp ra trường phải có kiến thức, năng lực giỏi về một ngành nhất.

1.3.2. Tác động của chương trinh đào tạo.

Chương trình đào tạo

Chương trình đào tạo của nhà trường là một trong các yếu tố quyết định chất lượng giáo dục và đào tạo. Chương trình đào tạo quy định bậc đào tạo cũng như mặt bằng kiến thức đào tạo. Đối với đối tượng trung cấp, cao đẳng chương trình đào tạo do Bộ Giáo dục và Đào tạo quyết định. Nội dung, chương trình đào tạo là yếu tố xác định khối lượng kiến thức cần thiết để truyền đạt tới người học theo mục tiêu đã xây dựng. Cùng với quỹ thời gian tương ứng, nội dung chương trình khóa học bao trùm nội dung chương trình của các khối kiến thức và nội dung chương trình của từng năm học trong đó có nội dung chương trình cụ thể của từng môn học… cùng với các yếu tố khác trong quá trình đào tạo.

1.3.3. Tác động của đổi mới nội dung, phương pháp đào tạo Luận văn: Chất lượng đào tạo ở Trường Cao đẳng SaigonAct

Xuất phát từ yêu cầu nâng cao chất lượng toàn diện, phải đảm bảo bồi dưỡng phẩm chất chính trị, trang bị những kiến thức cơ bản nhất, bồi dưỡng khả năng tư duy sáng tạo và năng lực thực hành cho người học.

Các yếu tố trên mang tính chủ đạo trong toàn bộ quá trình đào tạo, nó không những tác động trực tiếp đến chất lượng đào tạo mà còn bao hàm trong đó cả yêu cầu chất lượng đào tạo phải có, đồng thời nó còn chi phối các yếu tố khác.

Vai trò của giáo viên hết sức quan trọng trong truyền thụ các kiến thức và tạo ảnh hưởng tích cực tới người học góp phần nâng cao chất lượng đào tạo. Vai trò ấy là sự phản ánh khả năng cần có của người giáo viên. Khả năng của giáo viên được biểu hiện trên hai lĩnh vực là: trình độ kiến thức và khả năng sư phạm.

Nhận thức là một quá trình và thưòng gắn với mục đích nhất định nên nhận thức của con người là một hoạt động mà đặc trưng của nó là phản ánh hiện thực khách quan. Hoạt động học tập là một dạng hoạt động tâm lý được tổ chức một cách độc đáo của người học, nhằm mục đích chuẩn bị cho người học phát triển toàn diện, sáng tạo, có trình độ chuyên môn cao. Đối tượng của hoạt động học tập là hướng vào làm thay đổi chính chủ thể hoạt động. Là dạng hoạt động không chỉ nhằm tiếp thu những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo mà còn hướng vào việc tiếp thu những tri thức của bản thân hoạt động đó. Nghĩa là thông qua hoạt động học tập, người học lĩnh hội được những phương pháp, cách thức, những kinh nghiệm học tập mang lại hiệu quả cao. Hoạt động học tập diễn ra trong điều kiện có kế hoạch chặt chẽ vì nó phụ thuộc vào mục tiêu, kế hoạch, loại hình đào tạo, nội dung, chương trình…

Khả năng nhận thức là khả năng tiếp thu, tiếp nhận và phát triển những kiến thức được đúc rút và hệ thống trong sách, từ người truyền thụ và trong thực tế công tác. Quá trình đào tạo có chất lượng cao chỉ  khi người học có nhận thức cao.

Quá trình đào tạo là quá trình tổ chức, điều khiển trong đó người dạy là người thiết kế quy trình dạy học, góp phần thi công, còn người học vừa thi công vừa thiết kế quy trình tự học nhằm thực hiện tối ưu mục đích và nhiệm vụ học.

Hình thức tổ chức đào tạo là hình thức tác động qua lại giữa hoạt động dạy và hoạt động học, giữa người dạy và người học, giữa người học với nhau, trong đó mục đích, nội dung, phương pháp, phương tiện dạy học vận dụng theo phương án tối ưu.

1.3.4. Tác động của môi trường sư phạm trong nhà trường Luận văn: Chất lượng đào tạo ở Trường Cao đẳng SaigonAct

Môi trường sư phạm trong nhà trường là nhân tố rất quan trọng, có ảnh hướng trực tiếp đến chất lượng đạo tạo và sự phát triển nhân cách của người học. Nó được cấu thành bởi các mối quan hệ giáo dục, trước hết là quan hệ giảng viên – sinh viên, quan hệ đồng nghiệp của giảng viên, quan hệ sinh viên – sinh viên và các hoạt động chung, các phong trào thi đua trong dạy và học … của toàn trường. Những quan hệ và hoạt động này có vai trò không nhỏ trong bảo đảm và nâng cao chất lượng đào tạo.

Các chủ thể quản lý giáo dục ở trường cao đẳng, đại học có thể thông qua các mối quan hệ giáo dục và hoạt động chung trong môi trường sư phạm để nắm thông tin về chất lượng đào tạo, đồng thời tác động để thúc đẩy việc nâng cao chất lượng dạy và học. Mặt khác, tình đoàn kết, nhân ái trong các tập thể, tính kỷ luật, trình độ trật tự, kỷ cương chung của môi trường sư phạm lành mạnh còn là điều kiện thuận lợi để các quyết định của người quản lý về bảo đảm và nâng cao chất lượng đào tạo dễ được tiếp nhận và triệt để thi hành bới những người thuộc quyền. Tất cả những điều đó đã nói lên rằng, môi trường sư phạm thực sự là một trong những nhân tố quan trọng tác động đến quản lý chất lượng đào tạo của trường cao đẳng, đại học.

Như vậy, những nhân tố nêu trên có ảnh hưởng, tác động trực tiếp đến hiệu quả đào tạo nói chung và quản lý chất lượng đào tạo ở nhà trường nói riêng. Nhận thức được các nhân tố tác động có ý nghĩa rất quan trọng giúp cho các chủ thể quản lý của nhà trường, cán bộ quản lý, đội ngũ giáo viên nhìn nhận, xem xét đánh giá những thuận lợi, khó khăn. Từ đó có biện pháp sát đúng chỉ đạo hoạt động đào tạo và quản lý chất lượng đào tạo có hiệu quả cao.

Quản lý chất lượng đào tạo thực chất là bảo đảm các điều kiện thực hiện và kiểm soát chất lượng của các yếu tố cấu thành quá trình đào tạo nhằm làm cho sản phẩm đào tạo đạt tới được mục tiêu đào tạo đã đề ra. Nội dung quản lý chất lượng đào tạo ở Trường Cao đẳng văn hóa Nghệ thuật và Du lịch Sài Gòn được xác lập dựa trên sự vận dung những mô hình quản lý chất lượng đào tạo hiện hành trên thế giới và trong nước cho phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của Nhà trường.

Những kết quả khảo sát theo các nội dung quản lý chất lượng đào tạo tại Trường Cao đẳng văn hóa Nghệ thuật và Du lịch Sài Gòn đã cho thấy, Nhà trường đã có nhiều thành công trong bảo đảm và kiểm soát chất lượng đào tạo nhằm đáp ứng đòi hỏi của thị trường lao động, nhưng cũng còn không ít những hạn chế, bất cập về công cụ quản lý, thực hiện các chức năng quản lý, các điều kiện bảo đảm cho quản lý… Điều đó đòi hỏi sự quan tâm nhiều hơn nữa của các chủ thể quản lý ở Trường Cao đẳng văn hóa Nghệ thuật và Du lịch Sài Gòn tới vấn đề quản lý chất lượng đào tạo trong thời gian Luận văn: Chất lượng đào tạo ở Trường Cao đẳng SaigonAct

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ: 

===>>> Luận văn: Thực trạng chất lượng đào tạo tại SaigonAct

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Contact Me on Zalo
0906865464