Khóa luận: Tín ngưỡng thờ Phạm Tử Nghi ở Hải Phòng

Chia sẻ cho các bạn sinh viên ngành luật bài Khóa luận: Tín ngưỡng thờ Phạm Tử Nghi ở Hải Phòng cho các bạn đang chuẩn bị làm bài khóa luận cùng nhau tham khảo nhé. khóa luận môn học là một trong những yêu cầu bắt buộc của các trường đại học, và Cao Học. Đối với sinh viên hay học viên tất cả các khóa học đều bắt buộc phải làm một bài khóa luận, với đề tài bắt buộc hoặc là một đề tài cụ thể nào đó ví dụ như đề tài Khóa luận: Tín ngưỡng thờ Phạm Tử Nghi ở Hải Phòng các bạn cùng  tham khảo đề tài khóa luận dưới đây nhé.

LỜI MỞ ĐẦU:

Có thể nói di tích lịch sử cùng với lễ hội truyền thống luôn là một đề tài phong phú, bởi đây là những di sản văn hóa vật thể và phi vật thể vô cùng quý báu được ông cha ta gìn giữ và để lại cho con cháu đến tận ngày nay. Trải qua những năm tháng hào hùng của lịch sử nước nhà, cho đến nay tất cả những di tích lịch sử cùng với lễ hội truyền thống của Việt Nam vẫn giữ được những nét đẹp truyền thống và có sự tiếp thu những tinh hoa văn hóa của nhân loại. Khóa luận: Tín ngưỡng thờ Phạm Tử Nghi ở Hải Phòng

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Viết Thuê Khóa Luận Tốt Nghiệp Du Lịch

Hải Phòng là vùng đất giàu truyền thống văn hóa, một vùng quê nổi tiếng với những khu di tích, những lễ hội truyền thống gắn liền với từng giai đoạn phát triển lịch sử của dân tộc như: chùa Mét, miếu Bến, chùa Đồng Quan, miếu Cựu Điện, miếu Ba Vua… Trong đó, đặc biệt phải kể đến khu di tích đền thờ Phạm Tử Nghi cùng với lễ hội kỷ niệm ngày mất một danh tướng, không chỉ là niềm tự hào của nhân dân quận Lê Chân mà còn là niềm hào của toàn thể người dân Hải Phòng.

Việt Nam là một quốc gia có khoảng hơn 800 lễ hội truyền thống cùng với số lượng di tích quốc gia vô cùng lớn nhưng khu di tích đền thờ Phạm Tử Nghi cùng với lễ hội tại đây đã để lại cho nhân dân Quận Lê Chân cũng như những người tới đây nhiều cảm xúc, ý nghĩa và hoài niệm riêng. Nghiên cứu sâu hơn về khu di tích và lễ hội đền thờ Phạm Tử Nghi góp phần vào việc tìm hiểu về danh tướng Phạm Tử Nghi, quá trình hình thành và phát triển của ngôi đền cùng với các di tích liên quan tới ông. Ngoài ra, bên cạnh việc tìm hiểu về những giá trị còn được lưu giữ lại ở khu di tích và lễ hội về danh tướng Phạm Tử Nghi nhiều mặt văn hóa, tư tưởng, giáo dục, kinh tế còn góp phần để đưa ra những chính sách bảo tồn, tôn tạo di tích cùng lễ hội sao cho i những lý do trên, đề tài TÌM HIỂU TÍN NGƯỠNG THỜ PHẠM TỬ NGHI Ở HẢI PHÒNG VÀ MỘT SỐ HƯỚNGKHAI THÁC PHỤC VỤ DU LỊCH không chỉ có ý nghĩa lý luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc.

Phạm Tử Nghi là một võ tướng tài ba, đảm lược, sức địch muôn người của vương triều nhà Mạc ( 1527 – 1592 ), từng làm quan tới chức Phò mã đô uý, tước Tứ dương hầu Thành Quốc Công. Ông là người làng Nghĩa Xá, xã Vĩnh Niệm huyện An Dương, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương ( nay là phường Niệm Nghĩa quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng )

Nhân dân địa phương được truyền ngôn lại rằng: Từ Nghĩa Xá được xây dựng trên chính mảnh đất của gia đình Phạm Tử Nghi. Trải qua bao biến thiên của lịch sử quê hương đất nước, Từ Nghĩa Xá đã bao lần thay dạng đổi hình để cuối cùng định vị với dáng vẻ hiện tại, một thực thể kiến trúc hiện hữu của nghệ thuật dân tộc cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.. Khóa luận: Tín ngưỡng thờ Phạm Tử Nghi ở Hải Phòng

Phạm Tử Nghi là bậc thánh nhân được tôn thờ ở nhiều làng xã thuộc miền Đông Bắc tổ quốc, trong đó có những di tích chính như đình Niệm nghĩa, lăng Đôn Nghĩa, miếu An Dương, đền Cái Tắt… Đặc biệt, phố Trần Nguyên Hãn ngày nay đã một thời mang tên Phạm Tử Nghi. Vốn xuất thân từ tầng lớp bình dân bước lên vũ đài chính trị thời Mạc bằng thanh gươm bạc nên Phạm Tử Nghi là người có công lớn trong sự nghiệp mở mang vùng đất phía Đông Nam nôi thành Hải Phòng. Tên tuổi ông còn in đậm, thấm sâu trong lòng nhân dân, tương truyền ông rất linh ứng, bởi thế Từ Nghĩa Xá thờ ông được coi là một trong tứ linh từ của huyện An Dương xưa. Hàng năm cứ vào ngày 14 tháng 9 âm lịch, nhân dân quang vùng nô nức trảy hội từ Nghĩa Xá, đình Niệm Nghĩa…và ngày hội trở thành một sinh hoạt văn hoá truyền thống sâu đậm của con người trên mảnh đất Hải Phòng lịch sử.

Mục đích nghiên cứu

Thứ nhất: Khái quát về thân thế sự nghiệp của danh tướng Phạm Tử Nghi

Thứ hai: Tìm hiểu về di tích lịch sử, lễ hội đền Danh tướng Phạm Tử Nghi. Qua đó, nắm được những điểm mạnh và thực trạng còn tồn tại để đưa ra một số giải pháp bảo tồn và phát triển di tích cũng như lễ hội tại đây.

Thứ ba: Phân tích vai trò, đặc điểm của khu di tích và lễ hội đền thờ danh tướng Phạm Tử Nghi

CHƯƠNG I: Tổng quan về tín ngưỡng thờ nhân thần của người Việt và việc khai thác tín ngưỡng thờ nhân thần

Một nhà nhân loại học người Anh Edward Bburnett đã cho rằng “ văn hóa là một tổng thể phức hợp gồm kiến trúc, đức tin, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục và bất cứ những khả năng tập quán nào mà con người thu nhận được với tư cách là một thành viên của xã của xã hội”.

Văn hóa chính là bộ phận của đời sống xã hội, là tất cả những gì tồn tại xung quanh con người và ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của con người. Chiếm phần lớn trong bộ phận văn hóa của người Việt chính là phong tục, tập quán, lễ hội. Nói đến tín ngưỡng thờ cúng là nói đến văn hóa truyền thống Việt Nam, là bản sắc văn hóa, là giá trị tinh thần của người Việt Nam. Ẩn chứa sâu thẳm trong đó là lễ hội truyền thống chính là đạo đức, là lối sống, là dấu ấn văn hóa lịch sử mỗi vùng, địa phương.

1. Khái quát về tín ngưỡng thờ nhân thần của người Việt Khóa luận: Tín ngưỡng thờ Phạm Tử Nghi ở Hải Phòng

Hệ thống tín ngưỡng dân gian Việt Nam chúng ta dễ nhận thấy, tín ngưỡng Việt Nam vô cùng phong phú, trong đó tín ngưỡng thờ người có công với đất nước với nhân dân chiếm rất nhiều trên đất nước Việt Nam. Nếu như tín ngưỡng thờ thần, tứ bất tử “ có giá trị văn hóa tinh thần rất đẹp của dân tộc ta, là tinh hoa chắt lọc trong suốt chiều dài lịch sử của đất nước, biểu hiện cho sức mạnh liên kết dân tộc, khát vọng xây dựng cuộc sống hạnh phúc phồn vinh”. Tín ngưỡng thờ anh hùng dân tộc, những người có công trong quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc cũng được thờ như vị thành hoàng của dân cư nơi đó. Danh tướng Phạm Tử Nghi là vị tướng tài ba có công bảo vệ đất nước trong triều nhà Mạc thế kỷ 16, ông được thờ tại đền Nghĩa Xá như một vị thành hoàng làng của vùng đất quận Lê Chân thành phố Hải Phòng.

Sách Việt Nam phong tục có ghi “ xét về tục thờ thần thành hoàng này từ trước đời đời tam quốc ( Trung Quốc ) trở về trước vẫn đã có, nhưng ngày xưa thì nhân nhà vua có việc gì cầu đảo mới thiết đàn cúng tế mà thôi. Đến đời nhà Đường, Lý Đức Dụ làm tướng, mới bắt đầu lập miếu Thần hoàng ở Thành Đô, đến nhà Tống, nhà Minh thiên hạ đâu cũng lập miếu thờ.

Nước ta thuở bấy giờ đang lúc nội thuộc, tục Tàu truyền sang đến bên này kế đến Đinh, Lê thì việc thờ quỷ thần đã thịnh hành rồi

Nhưng cứ xét cái chủ ý lúc trước, thì mỗi phương có danh sơn, song lớn, triều đình lập miếu thờ sơn thần, hà bá ấy để chủ tế cho việc ấm tí một phương thôi. Kế sau, triều đình tinh biểu những bậc trung thần nghĩa sĩ và những người có công lao với đất nước, thì cũng lập đền cho dân xã ở đó thờ. Từ đó dân gian bắt chước nhau, chỗ nào cũng thờ một vị để làm chủ tế trong làng mình … dân ta tin rằng đất có thổ công song có hà bá, lãnh thổ nào phải có thần hoàng ấy, vậy phải thờ phụng để thần ủng hộ cho nhân dân,vì thế việc thờ thần mỗi ngày một thịnh”.

Hiều được nhu cầu tâm linh của người dân, cộng thêm ý muốn tạo lập thiết chế văn hóa – tín ngưỡng chính thống của vương triều, nhằm xóa bỏ tầm ảnh hưởng của các triều đại trước, nên thời các vua nhà Nguyễn, cứ ba năm xét ban sắc phong thần một lần. Chỉ riêng 1852, vua Tự Đức đã cấp sắc phong đồng loạt 13069 cho cả nước. ( trích sách cơ sở văn hóa Việt Nam phần tín ngưỡng )

Từ trên ta có thể hiểu phần nào tín ngưỡng thờ thần hoàng làng, thờ các anh hùng ở Việt Nam. Trước khi đi vào tìm hiểu tục thờ danh tướng Phạm Tử Nghi quận Lê Chân chúng ta đi nghiên cứu vài nét về kiến trúc xây dựng đình đền của người Việt.

1.1 Đặc điểm chung về kiến trúc thờ nhân thần của người Việt Khóa luận: Tín ngưỡng thờ Phạm Tử Nghi ở Hải Phòng

Đình làng Việt Nam là nơi thờ tự thành hoàng làng và là trung tâm sinh hoạt chính trị, xã hội văn hoá của cộng đồng dân cư. Trong các làng, đình là một di tích kiến kiến trúc nghệ thuật có quy mô to nhất và theo ý nghĩ của người xưa có tầm quan trọng, ảnh hưởng tới sự thịnh vượng và sức khỏe của tất cả dân làng. Dựng đình là việc chung của cả làng. Một việc tối quan trọng của ngôi đình là hướng đình. Ca dao cũ có câu: “Toét mắt là tại hưởng đình, cả làng cùng toét riêng mình em đâu” đã nói lên ý nghĩa quyết định của việc chọn hướng đinh. Hướng của đình làng thậm chí đã trở thành hướng quy hoạch cho các ngôi nhà trong làng, hoặc làm song song theo hướng đình hoặc làm vuông góc.

Chọn hướng và thế đất xây đình người xưa tin vào thuyết phong thuỷ, đình phải được xây trên lưng hay trên trán của các con vật thiêng tiềm ẩn trong đất như long, li, quy, phượng. Đình thường được chọn xây trên một gò cao, một doi đất, trước mặt có dòng nước chảy hay hồ ao, nếu không kể sông ngòi thì người dân đào giếng, hồ để tạo nên cảnh nước non.

Đình làng ban đầu cở lẽ chỉ là một kiến trúc nhỏ gồm 3 gian và 2 chái, sau đó sô” gian tăng lên đến 5, 7 hay 9 gian (số lẻ) cộng thêm kiến trúc phía sau gọi là hậu cưng, thêm phía trưốc gọi là tiền tế, thêm hai bên gọi là tả vu và hữu vu, Ban đầu xung quanh chưa bịt kín nhưng sau dần để tôn nghiêm thần thánh, người dân xây bao kín quanh kiến trúc chỉ để mở cửa phía trước, đặc biệt ở hậu cung thì xây bịt kín tối như bưng (là nơi thần thành ngự trị). Đình làng vốn là một kiến trúc mở không có tường bao quanh, vì kiến trúc gỗ cổ truyền dựa trên khung các cột gỗ chịu lực, các vì kèo và hoành phân đều lực cho các cột cái và cột quân kê trên các đá tảng.

Các cửa bức bàn và các hàng chấn song con tiện phía trước là để thoả mãn nhu cầu thẩm mỹ, các tường bao quanh là nhằm linh thiêng hoá thần linh được làm bể sung vế sau. Một điều đặc biệt là các đình đều có cấu kết mái đình với góc mái cong và người ta gọi là đao mái. Góc mái cong có thể là một sáng tạo đầy tính nghệ thuật của đình làng Việt Nam và thành một đặc trưng độc đáo khiến kiến trúc gỗ truyền thông Việt Nam khác với các kiến trúc gỗ các nước khác trong khu vực. Những ngôi đình cổ thường có bộ mái lớn chiếm đến 2/3 công trình. Theo một nhà nghiên cứu thì “tỉ lệ này có lẽ bắt nguồn từ ngôi nhà cổ truyền của người Việt mà sứ nhà Nguyên là Trần Phú đã lấy làm ngạc nhiên: “Làm nhà không có kiểu gấp mái hoặc chống kèo mà từ đòn đông đến mái hiên cứ thẳng tuột một mạch như đổ hẳn xuống (vì vậy) tuy nóc nhà (tuy hết sức) cao nhưng mái hiên chỉ cách mặt đất chừng bốn năm xích”.

Mỗi đình làng còn là một công trình điêu khắc và chạm trổ, sơn vẽ với chất liệu cổ truyền là sơn ta với 3 mầu đen, đỏ và vàng. Người nghệ nhân thường chạm trổ ở các câu đầu, các cột giá chiêng, các đầu bảy, các ván trong lòng giá chiêng… những hình đầu rồng, đuôi rồng, nghê, vân mây và hoa lá, các sinh hoạt văn nghệ đời sống hàng ngày… rất sinh động. Những cột cái ở trung đình thường được sơn vẽ rồng mây làm cho ngôi đình rực rỡ trang trọng, gợi lên ý nghĩ đây là nơi cung điện của thần thánh uy nghiêm. Các đình thường ghi ngày tháng năm khởi công xây dựng và hoàn thành ở xà nóc hoặc hai câu đầu trung đình. Ở trung đình đều có lắp một cửa võng sơn son thếp vàng làm cho không gian đình sáng lên lộng lẫy. Cửa võng là một bức rèm bằng gỗ chạm trổ rất công phu gắn vào 2 cột và hoành ở trung đình, nơi đặt bàn thờ thành hoàng. Hai bên cửa võng là những bức hoành phi ca ngợi công đức thần, sơn son thếp vàng hoặc khảm trai, do các kỳ hào trong làng hoặc các quan viên cúng tiến. Trên các cột đình còn có nhiều câu đối cũng là để tưởng nhớ và ca ngợi công đức của thần. Khóa luận: Tín ngưỡng thờ Phạm Tử Nghi ở Hải Phòng

Có những đình trước kia làm ở nơi đất trũng hoặc ở bờ sông, bị nước xói lở bào mòn, ngập lụt hoặc sáp đổ, người dân đã có biện pháp thủ công để kiệu, nâng đình lên cao dần dần; như đình Chèm ở ngoài bãi sông Hồng. Người dân đã dỡ mái ngói cho nhẹ bớt, đánh đai các cột đình thành một khối, sau đó dùng đòn bẩy kích dần các cột cùng một lúc lên cao độ 5,6cm, kê các cột lên và tôn nền lên theo, cứ thế dần dần nền đình đã được nâng cao lên hơn 2m trên mặt nước sông lúc mùa nước lớn. Đình Thổ Hà ở Việt Yên, Hà Bắc gần đây cũng áp dụng phương pháp thủ công như đình Chèm kiệu đình lên cao l,80m.Kiến trúc đình làng tuỳ theo lịch sử xây dựng của từng địa phương song về đại thể vẫn có những nét chung của nơi thờ tự thành hoàng.

Đình thường chia làm 2 phần rõ rệt: đình ngoài và đình trong. Đình ngoài còn gọi là nhà tiền tê hay đại bái. Đình ngoài là một kiến trúc lớn nhất được chia làm 3 phần. Chính giữa nhà đại bái, còn gọi là trung đình, được dùng làm nơi tế tự thành hoàng, ở trung đình có đặt bàn thờ, hương án. Hai bên hương án thường bầy các đồ tự khí.

Đồ tự khí gồm có:- Tam sự gồm một bát hương to bằng đồng hoặc một lư hương đỉnh đồng hai bên là 2 hạc đồng trên cắm 2 cây nến.- Ngũ sự gồm Có: một bát hương, 2 cây đèn nến, 2 lọ độc bình cắm hoa, một mâm bồng ngũ quả, một cái kỉ còn gọi là tam sơn ở giữa cao hơn đặt bộ đài con 3 chiếc để 3 chén đựng rượu, một bên để đĩa trầu cau, một bên để bát nưóc.Những đồ thờ thần ở đình, đền gọi là nghi trượng gồm khí giới dùng để đánh nhau và các đồ dùng khi đi đường (làm giả như thật). Nghi trượng thờ thần quý nhất là thanh gươm cẩn còn gọi là gươm vàng thường gác ở giá trước mặt long hài. Khi rước thần thì cử người có chức tước cầm gươm đi trước mặt kiệu, thường gọi là gươm đàn mặt. Kế đến là gươm trường và giáo mác (tràng kiếm và can qua) sau đến cờ tiết mao, lưỡi phủ việt, trường côn và đoản trượng. Những khí giới đó ngày thường thì cắm ở giá, khi có tế lễ rước thì cử trai tráng mỗi người cầm một thứ đi trước kiệu làm đồ nghi vệ. Trong những đồ nghi vệ còn có đồ lỗ bộ, bát bửu, tàn, quạt, cờ, lọng. Có nơi thường gọi lẫn lỗ bộ với bát bửu làm một và cũng không cứ phải là 8 cái.

Những thứ này cũng được cắm ở giá 2 bên bàn thờ. Giáp bàn thờ ở phía trong một bên có một lá cờ, gọi là cờ vía, một bên có một cái biển gọi là biển vía. Cò làm bằng vóc hoặc nhiễu, giữa thêu 4 chữ “Thượng đẳng phúc thần” hoặc “Trung đẳng phúc thần” hoặc “Hạ đẳng phúc thần” tuỳ theo sắc vua phong cho thần, một bên thêu “Lịch triều phong tặng”. Xung quanh thêu rồng bằng chỉ ngũ sắc, chữ thêu bằng chỉ kim tuyến. Biển làm bằng gỗ sơn son, chữ thếp vàng, giữa cũng khắc chữ như cò, xung quanh chạm tứ linh. Khi rước thần thì cò và biển vía cũng phải do những người sang trọng trong làng mới được cầm.Hai bên hương án và bàn thờ của các đình thường bày bộ bát bửu. Bát bửu là 8 vật quý gồm: cái kiếm, cái bút, cái quạt, quả bầu eo, giở hoa, cái khánh hoặc phất trần, cái bàn cò. Mỗi thứ trong bát bửu được chạm lộng trên đầu một cán dài sơn son thếp vàng và cắm trên một cái giá đặt ơ hai bên trước bàn thờ. Trước hương án còn có một dàn lỗ bộ hay còn gọi là bát kích. Bát kích là tám thứ vũ khí đòi xưa: thanh long đao, cây mác trường, cái chuỷ, thanh kiếm, câu liêm, cái đinh ba, cái tay thước, cái nắm tay. Những đồ thờ bát bửu, bát kích trên đây tượng tMỗi đình làng còn là một công trình điêu khắc và chạm trổ, sơn vẽ với chất liệu cổ truvển là sơn ta với 3 mầu đen

Hai bên hương án còn có hai con hạc cao to đứng trên lưng rùa, tượng trưng cho âm dương hoà hợp và sự trường cửu của thần thánh cùng với dân làng. Lọng, tàn, quạt cũng thuộc vào đồ lỗ bộ.Tàn thường làm bàng vóc hoặc nhiễu, xung quanh thêu lưỡng long chầu nguyệt” hoặc “cửu long tranh châu”, được khâu tròn lại như một cái lồng, trên lại có một tầng vải hoặc móc nhiều làm đình trần, ở giữa có cán cầm.

Quạt thường được làm khung bằng gỗ khá to, căng vóc, nhiễu, cũng có thêu, có tay cầm hơi chếch với mặt quạt. Khi rước kiệu thần, người cầm quạt che ở hậu bành trên kiệu, vì to nên được gọi là quạt vả. Lọng thì như một cái dù to ngày nay, cán làm bằng một khúc tre cây dài từ 2 đến 2,5m, khi bật lên thì nóc lọng là một hình tròn để che mưa nắng cho thần. Lọng thường làm bằng giây phát hoặc vóc, xung quanh có các tua chỉ ngũ sắc hay kim tuyến. Ngoài ra trong đình đền nếu thờ dương thần còn có ngựa thờ làm bằng gỗ sơn son thếp vàng, dưới chân ngựa có bánh xe tròn nhở bằng gỗ để khi rước có thể đem theo. Khóa luận: Tín ngưỡng thờ Phạm Tử Nghi ở Hải Phòng

Nếu thờ âm thầm thì có võng cáng cũng được làm rất đẹp.Ngoài các thứ trên ra, đình đền thờ thần còn có cờ ngũ hành. Cờ ngũ hành là 5 lá cờ làm cùng một kiểu, 5 lá có 5 màu khác nhau, mỗi màu thuộc về một phương, mỗi phương thuộc về một hành. Màu xanh là phương đông, thuộc về hành MỘC; màu trắng là phương tây, thuộc về hành KIM; màu đở là phương nam thuộc về hành HOẢ; màu đen hoặc huyền là phương bắc thuộc về hành THUỶ; màu vàng là trung ương thuộc về hành THỔ. Cờ ngũ hành thường làm 5 lá, có khi làm 10 lá hình chữ nhật lệch, một bên xâu vào cán cò, còn 3 bên đều làm đường hoả, giữa cờ để trơn, có khi thêu rồng phượng. Thần còn có một cờ lệnh, to gấp 4 hay 6 lần cờ ngũ hành, dùng để kéo lên trên cột cờ cao ở sân đình mỗi khi có lễ hội. Ngoài ra còn có cờ đuôi nheo là một lá cờ nhở chỉ bằng một phần ba cờ ngũ hành, hình đuôi nheo. Khi có rước thần thì một người chỉ huy cầm cờ đó làm hiệu lệnh cho những người mang các nghi vệ trong các đình thường có kiệu để làm lễ rước thần. Các kiểu làm bằng gỗ sơn son thếp vàng, số kiệu nhiều ít tuỳ theo số thần thờ trong đình thường được cất giữ ở gác nhà tả mạc và hữu mạc. về nhạc khí đình thường có 1 trống cái (to) đánh lên những khi mời làng ra họp hoặc tế lễ hội hè, chiêng, khánh hoặc mõ đại làm bằng cả một cây gỗ to được khoét rỗng giữa.

Nghi trượng của thần thờ ở các đình, đền làng không giống nhau tuỳ theo thần, thành hoàng được thờ. Nếu thành hoàng là các vị vua đời trước như Đình Tiên Hoàng, Lê Đại Hành… thì sửa sang đồ nghi trượng y như của vua dùng, còn nếu thờ các vị trung thần nghĩa sĩ thì tuỳ theo quan chức mà sắm sửa, song cũng có vị thần, nguyên chỉ là quan nhưng do được vua phong Vương nên dân làng cũng sắm sửa đồ nghi trượng như của vua cũng vẫn được.Đại bái thường được xây to gồm đến 7 gian hay 9 gian. Trước hương án ở trung đình là nơi các chức sắc trong làng tế thần, thường được giải chiếu hoa khi có tê và là nơi diễn các tích chèo sân đình, hát ca trù, nơi các quan viên ngồi gõ trống chầu thưởng thức… Hai bên nhà đại bái là tả gian và hữu gian, thường được đóng sàn gỗ, dùng làm nơi hội họp, chia phần làng, ăn cỗ, dân làng ngồi theo thứ bậc cao thấp, tiên chỉ và các chức dịch như lí trưởng, chánh hội… ngồi chiếu trên, bạch đinh ngồi chiếu dưói.Kiến trúc nhở phía sau gọi là đình trong, hậu cung hay nội điện. Đây là chốn thâm nghiêm, nơi thờ tự chính của ngôi đình, người bình thường không được bước vào, cũng gọi là cung cấm. Trong nội điện có bầy bài vị của thành hoàng làng, đặt trong một long ngai hay long khám. Trước long ngai là một hòm đựng sắc phong của thần.

Trên hương án cũng đặt một bình hương và các đồ thờ cúng.Trước đại bái là sân đình, hai bên tả hữu của sân đình thường xây hai dãy nhà nhở gọi là tả mạc và hữu mạc dùng làm nơi sửa sang dọn lễ trước khi dâng lễ vào nhà đại bái. Trước sân đình là cổng có nơi xây tam quan. Nhiều tam quan cũng được xây đắp rất đẹp, có các cột trụ biểu, hai bên vách tường thường đắp các con rồng, con cọp hoặc vẽ hai võ tướng cầm long đao dáng vẻ dữ tợn như để bảo vệ cho chốn linh thiêng.

Cũng có nơi vẽ ngựa, vẽ voi hoặc làm voi đá đứng hai bên. Trên đầu hai cột trụ thường đắp hai con sấu sành gắn các mảnh gôm.Dưới sự khống chế lũng đoạn của bọn cường hào, nơi đình trung ở làng quê Việt Nam trước đây đã diễn ra bao hủ tục, thảm cảnh làm cho người nông dân lao động càng thêm khốn khổ vì việc tế thần mà nhiều nhà văn, như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan… đã miêu tả. Đền cũng là một kiểu kiến trúc để thờ thần nhưng không phải là nơi thờ thành hoàng. Thành hoàng chỉ được thờ ở đình. Mỗi làng chỉ có một đình nhưng có thể có nhiều đền. Đền chỉ dành riêng cho việc phụng thờ tế lễ, đình là nơi thờ vong, với chức năng là nơi hội họp của làng vì vậy đình có cấu trúc to lớn còn đền thường nhở bé hơn đình. Khi tế thần dân làng rước thần từ đền về đình, đền mới là nơi “thường trú” của thần, chỉ ngày lễ ở đình thì thần mới giáng lâm.

1.2. Việc khai thác tín ngưỡng phục vụ du lịch ở Việt Nam Khóa luận: Tín ngưỡng thờ Phạm Tử Nghi ở Hải Phòng

Việc khai thác các giá trị của tín ngưỡng, tôn giáo trong hoạt động du lịch đã được nhiều nước trên thế giới khai thác dưới các hình thức chẳng hạn như du khách Islam đi hành hương đến thánh địa Mecca ở Ả Rập Saudi, tín đồ đạo Phật đến Nepal chiêm bái những thánh tích của đạo Phật… Ở Việt Nam, số lượng người tham gia vào các chuyến du lịch tôn giáo ngày càng tăng lên và trở thành một nhu cầu thật sự, cần được các nhà hoạch định phát triển du lịch quan tâm và nghiên cứu. Trong bài thảo luận này, tôi chỉ đề cập đến hướng phát triển du lịch tôn giáo ở Việt Nam và ảnh hưởng của tôn giáo đến du lịch Việt Nam trong những năm gần đây.

Từ trước đến nay người ta vẫn thấy được thế mạnh của các điểm tôn giáo, tín ngưỡng trong kinh doanh du lịch. Các điểm này luôn tiêu biểu cho giá trị văn hóa của một quốc gia, dân tộc nên có sức hấp dẫn tự nhiên đối với du khách từ nơi khác đến. Còn đối với người dân trong vùng, đó là nơi họ thường xuyên lui tới cho những ước vọng về đời sống tinh thần. Khi cuộc sống của con người ngày càng đề cao các giá trị tinh thần thì việc đi thăm viếng các công trình tôn giáo, tín ngưỡng để thưởng ngoạn cảnh quan thanh bình, xa rời thế tục, tham gia vào các hoạt động tại đây như nghe giảng kinh pháp, tọa thiền, ăn chay, làm từ thiện … đang trở thành một xu hướng của cuộc sống hiện đại. Hoạt động “du lịch tâm linh” từ đó ra đời với ý nghĩa giúp du khách: “thăm viếng trái tim và tâm trí của những bậc hiền triết” (Cựu tổng thống Ấn Độ, tiến sỹ A. P. J Abdul Kalam), hướng con người tới thiện tâm.

Việt Nam là quốc gia có tiềm năng du lịch tâm linh rất lớn với hệ thống các đình, đền, chùa, miếu, quán, lăng … dọc theo chiều dài của đất nước, rộng cùng 54 dân tộc anh em và sâu trong bốn ngàn năm lịch sử. Các nhà kinh doanh du lịch cũng đang từng bước khám phá và khai thác các giá trị này với một số các công trình mới có quy mô như khu Bái Đính Tràng An (Ninh Bình), khu Đại Nam Quốc Tự (Bình Dương), công viên Tâm Linh (Đà Nẵng) … Để việc kinh doanh du lịch tại cả các công trình cũ và mới đi đúng hướng, bài trao đổi đề cập đến một số vấn đề vướng mắc trên để các nhà quy hoạch, quản lý có được cái nhìn chiến lược trong từng bước phát triển loại hình du lịch này ở nước ta. Khóa luận: Tín ngưỡng thờ Phạm Tử Nghi ở Hải Phòng

Nắm bắt được nhu cầu của đông đảo người dân, các công ty du lịch lữ hành đã đầu tư vào lĩnh vực du lịch tâm linh. Du lịch tâm linh không chỉ đơn thuần là hoạt động hành hương, tôn giáo tín ngưỡng thuần túy mà còn là động lực thúc đẩy sự giao lưu văn hóa và phát triển kinh tế – xã hội. Đó cũng là cách thức để thế hệ hôm nay bày tỏ sự tưởng nhớ đối với công lao của các bậc tiền bối.

Hầu hết các địa phương ở nước ta đều có những điểm du lịch tâm linh như: đền Hùng (Phú Thọ), chùa Hương (Hà Nội), chùa Bái Đính và nhà thờ đá Phát Diệm (Ninh Bình), chùa Thiên Mụ (Thừa Thiên-Huế), núi Bà Đen và Thánh thất Cao Đài (Tây Ninh)… Một trong những tỉnh đi đầu và thành công trong loại hình du lịch này là Ninh Bình nơi có chùa Bái Đính, ở đây, người dân địa phương được chủ động tham gia vào các hoạt động phục vụ khách du lịch tại các điểm du lịch tâm linh: chèo đò, xích lô, bán hàng lưu niệm, hướng dẫn, tiêu thụ sản vật địa phương, phục vụ ăn uống… mang lại nguồn thu đáng kể. .

Việt Nam có gần 8.000 lễ hội truyền thống, trong đó có rất nhiều lễ hội lớn mang tầm quốc gia. Cả nước có khoảng 40.000 khu di tích, thắng cảnh, tập trung chủ yếu ở đền, chùa, miếu mạo, tòa thánh, đài, lăng tẩm, phủ, khu tưởng niệm, trong đó hơn 3.000 địa danh được xếp hạng di tích quốc gia. Việt Nam có 11 di sản văn hóa phi vật thể được UNESCO vinh danh là di sản thế giới, trong đó có 9 di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, 2 di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp. Những di sản văn hóa và tín ngưỡng này chính là những giá trị làm nên nét riêng biệt của du lịch Việt Nam. Đi kèm di tích là các hoạt động văn hóa, tín ngưỡng, thể thao như thờ cúng tổ tiên, dòng tộc, tri ân anh dùng dân tộc, danh nhân, báo hiếu, chiêm bái, tụng kinh,thiền,yoga.Chính kho tàng văn hóa và tín ngưỡng phong phú trên đã tạo hình cho cốt cách và bản sắc của dân tộc Việt Nam, làm nên nét riêng cho du lịch Việt Nam.

Trong bối cảnh thế giới đang ngày đối mặt với nhiều thách thức về chính trị, tôn giáo và môi trường, văn hóa và tín ngưỡng sẽ là sợi dây kết nối con người với nhau. Du lịch tâm linh góp phần xây dựng mối quan hệ thân thiện, khuyến khích tình bằng hữu, giúp vượt qua các thành kiến văn hóa và tôn giáo. Có thể xem du lịch tâm linh là công cụ kiến tạo hòa bình, Hòa thượng nói. Những năm qua, ngành du lịch Việt Nam tăng trưởng mạnh mẽ, trong đó có sự đóng góp to lớn và bền vững từ du lịch tâm linh. Trong quy hoạch phát triển du lịch tổng thể, gồm bốn nội dung: du lịch sinh thái, du lịch thành thị, du lịch biển đảo và du lịch văn hóa – tâm linh – lịch sử, thì dòng thứ tư này có vị trí đặc biệt quan trọng. Năm 2018, ngành du lịch phục vụ 82 triệu du khách nội địa. Riêng du khách đến các địa điểm du lịch tâm linh chiếm tới một phần ba. Khóa luận: Tín ngưỡng thờ Phạm Tử Nghi ở Hải Phòng

LỄ HỘI TRẠNG TRÌNH NGUYỄN BỈNH KHIÊM

Trình Quốc Công – Nguyễn Bỉnh Khiêm là một nhân vật xuất chúng, có vai trò và ảnh hưởng chính trị to lớn trong xã hội Đại Việt thế kỷ 16. Ông sinh năm Tân Hợi (năm 1491), triều vua Lê Thánh Tông, tại làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại, phủ Hạ Hồng, trấn Hải Dương (nay thuộc xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng. Ông thi đỗ Trạng Nguyên khoa thi năm Ất Mùi (năm 1535), làm quan dưới triều Mạc Thái Tông, được bổ nhiệm Đông các hiệu thư, sau thăng là Thượng thư Bộ Lại, Thái phó, tước Trình Tuyền Hầu, gia phong là Trình Quốc Công. Năm 1542, ông cáo quan về quê nhà mở trường dạy học. Ông mất ngày 28 tháng 11 năm Ất Dậu (năm 1585), thọ 95 tuổi. Sau khi ông mất, Triều đình nhà Mạc sai cấp ruộng, tiền để lập đền thờ ông tại quê nhà.

Toàn bộ quần thể đền thờ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm được quy hoạch trên một diện tích rộng 5,7 ha, thuộc làng Trung Am quê ông. Tất cả các hạng mục kiến trúc được sắp xếp hợp lý, khoa học, cảnh quan hài hoà khiến cho chúng tôi cảm tưởng như đang đến thăm một danh lam nào đó. Năm 1991, di tích này đã được Nhà nước xếp hạng cấp Quốc gia.

Thời gian tổ chức lễ hội: từ ngày 26 đến ngày 29 tháng 11 âm lịch hàng năm.

Địa điểm: Khu di tích đền Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm tại làng Trung Am, xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng.

Công tác chuẩn bị cho lễ hội đền Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm luôn được xúc tiến từ rất sớm. Phần lễ truyền thống được các cụ dòng họ Nguyễn làng Trung Am chuẩn bị từ trong năm trong việc chọn ra các cụ trong đội tư văn, viết văn tế và chọn người làm lễ “Mộc dục” ngày 23 tháng 11 âm lịch. Còn phần lễ chính trong ngày 28 thì dưới sự chỉ đạo của Ủy ban Nhân dân huyện và thành phố. Kế hoạch luôn được xây dựng cách đó khoảng vài tháng trước khi lễ hội chính thức diễn ra. Cờ hoa, khẩu hiệu, cờ tổ quốc được treo dọc các tuyến đường dẫn đến đền Trạng.

Lễ hội luôn được chuẩn bị rất kỹ lưỡng, có sự chọn lọc cẩn thận trước khi bước vào tiến hành. Nhằm mang tới cho du khách cái nhìn đẹp nhất về lễ hội đền Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm

LỄ HỘI BÀ CHÚA KHO

Đền bà Chúa Kho cũng mang một truyền thuyết vô cùng sâu sắc. Tương truyền bà Chúa Kho là người phụ nữ vừa xinh đẹp vừa khéo léo. Trong chiến thắng Như Nguyệt (1076) do Lý Thường Kiệt lãnh đạo, bà hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tổ chức sản xuất, tích trữ lương thực, trông nom kho tàng quốc gia. Bà còn là người có công lớn trong việc chiêu dân lập ấp, khai khẩn đất đai vùng Quả Cảm, Cô Mễ, Thượng Ðồng. Sau này, khi trở thành hoàng hậu dưới triều Lý, bà tiếp tục giúp sức nhà vua trong việc kinh bang đất nước, giữ gìn kho lương. Tuy một đời vì nước vì dân như vậy nhưng bà lại bị giặc sát hại trong lúc đang phát lương cứu đói dân làng. Cảm kích công lao và tấm lòng của bà, nhà vua đã phong bà là Phúc Thần. Dân làng Cổ Mễ vô cùng thương tiếc và nhớ ơn bà nên đã lập nên đền Bà Chúa Kho tại vị trí kho lương cũ trên Núi Kho.

Lễ hội Đền Bà Chúa Kho được diễn ra vào ngày 25/2 (tức ngày 12 tháng giêng), tưởng niệm Ngày giỗ Bà Chúa Kho (12 tháng Giêng năm Đinh Tỵ 1077 – 12 tháng Giêng năm Canh Dần 2012) được tổ chức tại đền Bà Chúa Kho, thôn Cổ Mễ, xã Vũ Ninh, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh.

Có người cầu an, cầu lộc, nhưng đa phần đến để “vay vốn” Bà Chúa Kho, mong cho một năm vốn liếng dồi dào, làm ăn phát đạt… Tâm lý “vay vốn” của người dân cũng bắt nguồn từ những huyền tích xưa, và được củng cố thêm rằng “dù trải qua kháng chiến ác liệt thì ngôi đền này vẫn trụ vững”.

Nghi thức “vay vốn” cũng rất rõ ràng, người ta ghi trong sớ là vay bao nhiêu, làm gì, và bao lâu sẽ trả. Thậm chí có người còn hứa là vay 1 trả 3, trả 10… với quan niệm đã vay thì phải trả, nên dù có làm ăn tốt hay không, người ta vẫn giữ đúng lời hứa, tức là tạ lễ cuối năm ở đền Bà Chúa Kho.

LỄ HỘI NỮ TƯỚNG LÊ CHÂN

Lễ hội sẽ diễn ra trong 3 ngày, từ ngày 12 – 14/3 (tức ngày 7 – 9/2 âm lịch) tại quần thể Khu di tích Nữ tướng Lê Chân

Lễ hội truyền thống Nữ tướng Lê Chân được quận Lê Chân khôi phục lại từ năm 2011 và được Bộ Văn hóa – Thể thao – Du lịch công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia năm 2016. Theo ông Ngô Đăng Lợi, nguyên Khóa luận: Tín ngưỡng thờ Phạm Tử Nghi ở Hải Phòng

Chủ tịch Hội khoa học lịch sử Hải Phòng, Lễ hội truyền thống Nữ tướng Lê Chân hiện nay được tổ chức ở nhiều nơi như Hà Nội, Hà Nam, Đông Triều (Quảng Ninh) và nhất là ở Hải Phòng, nơi Nữ tướng có công khai hoang, lập ấp dựng lên trang An Biên xưa – thành phố Hải Phòng ngày nay.

Lễ khai mạc được tổ chức trang trọng vào tối 13-3 (tức ngày 8-2 âm lịch) ngay chân tượng đài Nữ tướng Lê Chân, trung tâm thành phố góp phần đưa không khí lễ hội lan tỏa rộng khắp đến toàn bộ người dân Hải Phòng. Cùng thời điểm trên, tại đình An Biên, Đền Nghè cũng sẽ diễn ra nhiều hoạt động văn hóa độc đáo như: lễ cáo yết, lễ dâng hương, lễ rước, lễ tạ…tất cả đều được thực hiện theo nghi thức truyền thống.

Bên cạnh phần Lễ, phần Hội với đầy ắp các hoạt động văn hóa, thể thao đặc sắc như: Chợ quê; Cờ người và các trò chơi dân gian; Vật tự do; Biểu diễn võ dân tộc ; Chương trình Văn nghệ dân gian và Duyên dáng Lê Chân … Theo Trưởng Phòng Văn hóa-Thể thao (VHTT) quận Lê Chân Vũ Thị Việt Hà, Chợ quê vốn được coi là “thương hiệu” của quận Lê Chân năm nay tiếp tục được chọn là điểm nhấn của Lễ hội với nhiều món ăn dân dã mang đậm bản sắc văn hóa miền biển Hải Phòng.

Tham gia chợ quê, du khách còn như được hòa mình vào không gian xưa với các trò chơi dân gian (bịt mắt bắt vịt, đánh chắt, chuyền, trò chơi ô ăn quan, nhảy dây, nhảy bao bố, rồng rắn lên mây…); xem viết thư pháp hay nghe hát xẩm, đặc biệt hơn nữa là một góc chợ Hàng – nét riêng của Hải Phòng cũng được tái hiện tại đây để người dân, du khách tham quan, thưởng thức.

TIỂU KẾT 

Quận Lê Chân ngày nay là kết quả của một quá trình biến đổi lâu dài với việc sáp nhập rất nhiều phần đất từ các làng cũ thuộc ngoại thành Hải Phòng. Từ một vùng ven đô đến một quận nội thành phát triển như ngày na là nhờ vào kinh tế phát triển và đô thị hóa là những yếu tố chính thúc đẩy sự thay đổi của Lê Chân. Đây cũng là nơi có bề dày văn hóa của thành phố với nhiều di tích, lễ hội còn tồn tại, trong đó là tục thờ nhân vật Phạm Tử Nghi, một người tướng tài xuất thân từ địa phương.

Trải qua nhiều thay đổi nhưng nhân dân địa phương vẫn lưu giữ truyền thống thờ cúng, tổ chức lễ hội để tưởng nhớ đến Đức Thánh Niệm – Phạm Tử Nghi, người có công với làng xóm quê hương, đất nước. Sinh hoạt lễ hội định kì này góp phần làm phong phú thêm đời sống văn hóa tinh thần của người dân Lê Chân nói riêng và người dân Hải Phòng nói chung.

Quá trình người dân mở hội sau này đang gặp phải nhiều yếu tố tác động xuất phát từ sự biến động của các điều kiện kinh tế xã hội, dân cư, giao thông đi lại…Những sự tác động này phần nào sẽ làm biến đổi các nội dung có trong lễ hội mà trong chương 2, chương 3 sẽ đi sâu phân tích Khóa luận: Tín ngưỡng thờ Phạm Tử N ghi ở Hải Phòng

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY

===>>>> Khóa luận: Tổng quan về thành phố Hải Phòng

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Contact Me on Zalo
0906865464