Khóa luận: Thực trạng pháp luật về bảo vệ môi trường biển

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Khóa luận: Thực trạng pháp luật về bảo vệ môi trường biển hay nhất năm 2025 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thạc sĩ thì với đề tài Khóa luận: Thực trạng pháp luật về bảo vệ môi trường biển ở Việt Nam dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.

2.1. Sơ lược quá trình hình thành, phát triển của pháp luật bảo vệ môi trường biển ở Việt Nam.

Ngay từ thời xa xưa, ông cha ta đã ý thức về việc bảo vệ biển của quốc gia. Tuy nhiên, trong thời kỳ chiến tranh, mối quan tâm về biển chủ yếu là về yếu tố lãnh thổ, chủ quyền, vấn đề bảo vệ môi trường biển chưa được chú trọng nhiều.

Khi đất nước giành được độc lập, tiến hành đổi mới thể chế kinh tế, Đảng ta đã nêu rõ: bên cạnh việc chú trọng phát triển kinh tế biển, bảo vệ chủ quyền quốc gia,… thì bảo vệ môi trường biển cũng cần có một sự quan tâm nhất định. Ngày 05 tháng 06 năm 1993, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 03-NQ/TW về một số nhiệm vụ phát triển trong những năm trước mắt: “Chúng ta phải đẩy mạnh phát triển kinh tế biển đi đôi với tăng cường khả năng bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia, bảo vệ tài nguyên và môi trường sinh thái biển”. Để thực hiện Nghị quyết này, Thủ tướng Chính phủ đã có các chỉ thị triển khai như Chỉ thị 399 ngày 05 tháng 08 năm 1993 về một số nhiệm vụ phát triển kinh tế biển trong những năm trước mắt và Chỉ thị 171/TTg năm 1995 triển khai Nghị quyết 03NQ/TW. Lần đầu tiên, văn kiện của Đảng đã ghi nhận bảo vệ môi trường biển là một trong những mục tiêu quan trọng của chính sách biển. Điều này đã đánh dấu một bước tiến mới trong việc nhận thức tầm quan trọng của môi trường biển.

Ngày 22 tháng 09 năm 1997, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 20-CT/TW về đẩy mạnh phát triển kinh tế biển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xác định: “Thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá kinh tế biển hướng mạnh vào xuất khẩu, dựa trên những tiến bộ khoa học, công nghệ làm động lực; vừa thúc đẩy nghiên cứu, quản lý, khai thác tiềm năng biển có hiệu quả, vừa tái tạo tài nguyên biển, bảo vệ môi trường, đào tạo nhân lực”; “tăng cường đầu tư cho nghiên cứu khoa học biển, tìm kiếm thăm dò dầu khí, khoáng sản biển, nguồn lợi hải sản và năng lượng biển, nghiên cứu và bảo vệ môi trường biển, tiếp tục hiện đại hoá khí tượng- thuỷ văn”. Thực hiện Chỉ thị của Bộ Chính trị, một loạt kế hoạch về phát triển kinh tế biển đã được thông qua như: Chiến lược phát triển thuỷ sản 2010; Chiến lược phát triển du lịch 2010; Chiến lược phát triển giao thông vận tải 2010… [34, tr.61] Khóa luận: Thực trạng pháp luật về bảo vệ môi trường biển.

Để tiếp tục phát huy tiềm năng của biển, ngày 09 tháng 02 năm 2007, Ban Chấp hành Trung ương khóa X đã ban hành Nghị quyết số 09-NQ/TW về “Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”, trong đó khẳng định bảo vệ môi trường biển là một trong những định hướng chiến lược quan trọng trong việc phát triển kinh tế- xã hội.

Ngoài ra, có một số văn bản luật đã được ban hành để đảm bảo công tác bảo vệ môi trường biển được thực hiện có hiệu quả. Đó là: Bộ luật Hàng hải năm 2015 (có hiệu lực vào ngày 01 tháng 07 năm 2017), Luật Bảo vệ Môi trường năm 2014, Luật Thủy sản năm 2003 ban hành ngày 26 tháng 11 năm 2003 ,… Trước đây, các quy định về bảo vệ môi trường biển nằm rải rác trong nhiều văn bản luật, gây khó khăn cho việc thống nhất áp dụng. Năm 2015, các quy định đã được tập hợp đầy đủ hơn trong Luật tài nguyên, môi trường biển và hải đảo năm 2015 ban hành ngày 25 tháng 06 năm 2015 (sau đây gọi là Luật tài nguyên, môi trường biển và hải đảo năm 2015), từ đó đã khắc phục được những bất cập nảy sinh trong quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên, bảo vệ môi trường biển; giúp cơ quan nhà nước quản lý tổng hợp hiệu quả.

2.2. Một số nội dung cơ bản về pháp luật bảo vệ môi trường biển ở Việt Nam.

Việt Nam đã tham gia một số Điều ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển như: Công ước MARPOL năm 1973 về ngăn ngừa ô nhiễm do tàu gây ra (tham gia ngày 29 tháng 08 năm 1991), Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 (tham gia năm 1994),… Chính vì vậy, pháp luật Việt Nam về bảo vệ môi trường biển luôn tuân thủ các nội dung của những Công ước quốc tế và có sự điều chỉnh cho phù hợp với tình hình chính trị, kinh tế, xã hội của Việt Nam.

Trước hết, bảo vệ môi trường biển cần tuân theo những quy định chung nhất định. Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 đã dành Chương V với ba điều luật về bảo vệ môi trường biển.

  • Những quy định chung về bảo vệ môi trường biển được cụ thể tại Điều 49.

Thứ nhất, các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội, quốc phòng, an ninh liên quan đến biển cần phải có nội dung về bảo vệ môi trường biển và ứng phó với biến đổi khí hậu. Nội dung này đã được cụ thể trong mục tiêu của Chiến lược Phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011- 2020: “Giảm thiểu các tác động tiêu cực của hoạt động kinh tế đến môi trường; phòng ngừa, kiểm soát và khắc phục ô nhiễm, suy thoái môi trường, cải thiện chất lượng môi trường, bảo vệ và phát triển rừng, bảo tồn đa dạng sinh học; hạn chế tác hại của thiên tai, chủ động thích ứng có hiệu quả với biến đổi khí hậu, nhất là nước biển dâng”. Tiếp tục chủ trương, đường lối phát triển kinh tế biển được xác định trong các văn kiện trước đây của Đảng, Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 10 năm (2011- 2020), được Đại hội XI của Đảng (tháng 01 năm 2011) thông qua, nhấn mạnh: “Phát triển mạnh kinh tế biển tương xứng với vị thế và tiềm năng biển của nước ta, gắn phát triển kinh tế biển với bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền vùng biển. Phát triển nhanh một số khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển, ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp năng lượng, đóng tàu, xi-măng, chế biến thủy sản chất lượng cao… Đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa, tạo thành các trung tâm kinh tế biển mạnh, tạo thế tiến ra biển, gắn với phát triển đa dạng các ngành dịch vụ, nhất là các ngành có giá trị gia tăng cao như dịch vụ xuất, nhập khẩu, du lịch, dịch vụ nghề cá, dịch vụ dầu khí, vận tải… Phát triển cảng biển, dịch vụ cảng và vận tải biển, sông- biển; phát triển các đội tàu, công nghiệp đóng mới và sửa chữa tàu biển”. [30, tr.61]

Thứ hai, các nguồn phát thải từ đất liền và các hoạt động trên biển phải được kiểm soát, ngăn ngừa, giảm thiểu và xử lý theo quy định của pháp luật. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về bảo vệ môi trường biển.

Bên cạnh đó, việc phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường trên biển cần “có sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức cứu hộ, cứu nạn và tổ chức, cá nhân có liên quan khác”.

Ngoài ra, các tổ chức, cá nhân hoạt động trên biển phải chủ động ứng phó sự cố môi trường và có trách nhiệm phối hợp với cơ quan quản lý nhà nước và tổ chức, cá nhân có liên quan khác trong ứng phó sự cố môi trường trên biển.

Cuối cùng, khi lập chiến lược, quy hoạch, kế hoạch khai thác nguồn lợi từ biển, khu bảo tồn thiên nhiên, rừng ngập mặn, khu di sản tự nhiên phải lưu ý đến sự phù hợp với chiến lược, quy hoạch bảo vệ môi trường.

2.2.1. Phân cấp vùng rủi ro, phân vùng rủi ro ô nhiễm môi trường biển.

Nguy cơ biển bị ô nhiễm là luôn luôn tồn tại nhưng khó có thể ngăn ngừa rủi ro tốt nếu như không phân vùng, phân cấp rõ ràng vùng rủi ro ô nhiễm môi trường biển vì biển trải dài trên diện tích lớn và không phải vùng biển nào cũng có đặc trưng tương tự nhau.

Trước hết, cần hiểu chính xác về khái niệm rủi ro ô nhiễm môi trường biển.

Theo Khoản 11 Điều 3 Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo năm 2015 thì rủi ro ô nhiễm môi trường biển là “khả năng xảy ra ô nhiễm và thiệt hại về người, tài sản, tài nguyên, điều kiện sống và hoạt động kinh tế- xã hội do ô nhiễm môi trường biển” gây ra. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về bảo vệ môi trường biển.

2.2.1.1 Phân cấp vùng rủi ro ô nhiễm môi trường biển.

Việc phân cấp vùng rủi ro ô nhiễm môi trường biển cần tuân theo nguyên tắc được quy định ở Điều 3 Thông tư số 26/2016/TT-BTNMT của Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành ngày 29 tháng 09 năm 2016 quy định chi tiết tiêu chí phân cấp vùng rủi ro ô nhiễm môi trường biển và hải đảo và hướng dẫn phân vùng rủi ro ô nhiễm môi trường biển và hải đảo (sau đây gọi là Thông tư 26/2016/TT-BTNMT).

Thứ nhất, vùng biển Việt Nam được phân chia thành các ô bờ, ô ven bờ và ô biển; các ô có hình chữ nhật. Việc xác định ô bờ phải căn cứ vào “đặc điểm, điều kiện tự nhiên, địa chất của đường bờ, các hệ sinh thái vùng đất ven biển, các hoạt động kinh tế- xã hội ở vùng đất ven biển; chiều dài cạnh lớn của ô không lớn hơn khoảng cách từ đường mực nước triều cao trung bình nhiều năm đến đường mép nước biển thấp nhất trung bình trong nhiều năm”. Việc xác định ô ven bờ phải căn cứ vào “chế độ động lực, các hệ sinh thái vùng biển ven bờ, các hoạt động kinh tế- xã hội ở vùng bờ; chiều dài cạnh lớn của ô không lớn hơn 06 hải lý”. Xác định ô biển phải căn cứ vào “đặc điểm, tính chất về chế độ hải văn, các hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên biển; chiều dài cạnh lớn của ô không lớn hơn 12 hải lý”. (Điều 4 Thông tư 26/2016/TT-BTNMT).

Thứ hai, phân cấp vùng rủi ro ô nhiễm môi trường biển phải “căn cứ vào các thông tin, số liệu đo đạc, quan trắc các thành phần môi trường và sử dụng các công cụ tính toán, mô phỏng quá trình phát thải, lan truyền, biến đổi, chuyển hóa chất gây ô nhiễm trong môi trường biển”.

Cuối cùng, phân cấp vùng rủi ro ô nhiễm môi trường biển phải căn cứ vào “kết quả tính toán, xác định giá trị của các chỉ số tương ứng với các tiêu chí phân cấp vùng rủi ro ô nhiễm môi trường biển đối với từng ô và được thể hiện trên bản đồ theo quy định của pháp luật về thành lập bản đồ chuyên đề”.

Tiêu chí phân cấp vùng rủi ro ô nhiễm môi trường biển sẽ được Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định; sau đó Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ phối hợp cùng các Bộ, cơ quan ngang bộ, các tỉnh và thành phố để lập bản đồ phân vùng cho khu vực; cuối cùng trình lên Thủ tướng Chính phủ. Cấp rủi ro được xác định trên cơ sở giá trị chỉ số phân cấp vùng rủi ro ô nhiễm môi trường biển và hải đảo của mỗi ô đó. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về bảo vệ môi trường biển.

  • Các tiêu chí phân cấp vùng rủi ro bao gồm:

Thứ nhất, mức độ ô nhiễm hoặc nguy cơ ô nhiễm môi trường biển.

Chỉ số mức độ ô nhiễm hoặc nguy cơ ô nhiễm môi trường biển được chia thành bốn mức cụ thể: thấp, trung bình, cao và rất cao. Chỉ số này căn cứ vào chỉ số rủi ro môi trường trung bình của các ô (Điều 6 Thông tư 26/2016/TT- BTNMT). “Giá trị chỉ số rủi ro môi trường trung bình (RQtb) của từng ô tính toán được tính bằng giá trị trung bình của giá trị các chỉ số rủi ro môi trường (RQi) tại các điểm thuộc ô đó theo công thức sau đây:

  • Trong đó:

RQi: giá trị chỉ số rủi ro môi trường tại điểm i thuộc ô;

n: số điểm đánh giá chất lượng môi trường của ô. Số lượng điểm và phân bố các điểm trong ô tính toán được thực hiện theo quy định của pháp luật về đo đạc, quan trắc, đánh giá chất lượng môi trường (từ 20 đến 25 điểm/1dm2 bản đồ).” (Điều 11 Thông tư 26/2016/TT-BTNMT)

Thứ hai, về phạm vi ảnh hưởng. Chỉ số của phạm vi ảnh hưởng “căn cứ vào mức độ ảnh hưởng do ô nhiễm môi trường của ô tính toán đối với các ô liền kề trên cơ sở áp dụng mô hình mô phỏng quá trình phát thải, lan truyền, biến đổi, chuyển hóa chất gây ô nhiễm trong môi trường biển”. Phạm vi ảnh hưởng cũng được chia thành bốn mức độ là: thấp, trung bình, cao và rất cao. (Điều 7 Thông tư 26/2016/TT-BTNMT).

Thứ ba, đó là tiêu chí về chỉ số mức độ nhạy cảm môi trường và khả năng gây thiệt hại đến sức khỏe con người, các hệ sinh thái biển, các hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên biển. Các chỉ số này đều được căn cứ vào các chỉ số của các tiêu chí thành phần đối với ô tính toán (ô bờ, ô ven bờ và ô biển). (Điều 8 Thông tư 26/2016/TT-BTNMT).

Trong đó, mức độ nhạy cảm với môi trường sẽ căn cứ vào loại hình, tính chất đường bờ của các ô bờ; mức độ phát tán, trao đổi vật chất gây ô nhiễm của ô tính toán đối với môi trường xung quanh của những ô ven bờ và các ô biển. (Khoản 2 Điều 8 Thông tư 26/2016/TT-BTNMT).  Khóa luận: Thực trạng pháp luật về bảo vệ môi trường biển.

Khả năng gây thiệt hại tới sức khỏe con người được căn cứ tùy theo khu vực, loại hình hoạt động có khả năng gây ra ô nhiễm môi trường như: Khu vực có hoạt động du lịch, thể thao, giải trí; Khu vực có các hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên biển có nguy cơ gây ra sự cố tràn dầu, hóa chất độc; khu vực có hoạt động nhận chìm các chất thải từ thủy sản hoặc các chất thải phát sinh từ hoạt động chế biến thủy sản.

Xác định khả năng gây thiệt hại đến các hệ sinh thái biển, hải đảo dựa vào đặc điểm các hệ sinh thái, chức năng dịch vụ hệ sinh thái như: Khu vực có hệ sinh thái vùng triều, hệ sinh thái rừng ngập mặn và hệ sinh thái thảm cỏ biển; khu bảo tồn biển, khu di sản thế giới, khu dự trữ sinh quyển, vườn quốc gia; vùng đất ngập nước có hệ sinh thái đặc thù, đa dạng sinh học cao, có chức năng duy trì nguồn nước và cân bằng sinh thái, có tầm quan trọng quốc tế, quốc gia; khu vực có rừng đặc dụng; khu vực có giá trị đặc biệt cho nghiên cứu khoa học.

Khả năng gây thiệt hại đến các hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên biển và hải đảo được xác định tùy theo mức độ của khu vực dễ bị tổn thương do thiên tai, biến đổi khí hậu, nước biển dâng.

2.2.1.2. Phân vùng rủi ro ô nhiễm môi trường biển.

Bên cạnh những quy định về phân cấp vùng rủi ro ô nhiễm môi trường biển, Thông tư 26/2016/TT-BTNMT cũng quy định việc phân vùng rủi ro ô nhiễm môi trường biển.

Phân vùng rủi ro ô nhiễm môi trường biển cho phép xác định khả năng xảy ra ô nhiễm môi trường biển, mức độ thiệt hại do ô nhiễm môi trường biển gây ra để làm cơ sở cho việc xây dựng các quy định pháp luật và chuẩn bị nguồn lực ứng phó, ngăn chặn, giảm thiểu thiệt hại môi trường do ô nhiễm biển gây ra, tức là giảm rủi ro ô nhiễm môi trường biển tới mức thấp nhất.

Vùng rủi ro được chia thành bốn cấp lần lượt là: vùng rủi ro ô nhiễm thấp, ô nhiễm trung bình, ô nhiễm cao và ô nhiễm rất cao. Việc phân cấp rõ ràng như vậy sẽ giúp cho cơ quan nhà nước, người dân có những biện pháp ứng phó thích hợp khi sự cố môi trường xảy ra. Tùy từng cấp sẽ áp dụng phương thức khác nhau cho thích hợp.

Việc phân vùng rủi ro ô nhiễm môi trường biển được thực hiện theo các bước quy định ở Điều 9 Thông tư 26/2016/TT-BTNMT, bao gồm: “Tính toán, xác định giá trị chỉ số phân cấp vùng rủi ro ô nhiễm môi trường biển và hải đảo; đánh giá, xác định cấp rủi ro ô nhiễm môi trường biển và hải đảo; lập bản đồ phân vùng rủi ro ô nhiễm môi trường biển và hải đảo”.

Sau khi đã tính toán, xác định giá trị chỉ số phân cấp vùng rủi ro ô nhiễm môi trường biển cũng như chỉ số về mức độ ô nhiễm hoặc nguy cơ ô nhiễm môi trường biển, cần phải áp dụng mô hình mô phỏng quá trình phát thải, lan truyền, biến đổi, chuyển hóa chất gây ô nhiễm trong môi trường biển và hải đảo. Trình tự áp dụng mô hình từ quy định của Khoản 2 Điều 12 Thông tư 26/2016/TT-BTNMT như sau: Khóa luận: Thực trạng pháp luật về bảo vệ môi trường biển.

  • “Chuẩn bị thông tin, dữ liệu phục vụ tính toán;
  • Xử lý tài liệu địa hình để thiết lập mô hình;
  • Xây dựng miền tính, lưới tính;
  • Thiết lập các điều kiện biên;
  • Thiết lập các điều kiện ban đầu;
  • Thiết lập các thông số mô hình cơ bản;
  • Kết nối các mô hình động thủy lực với mô hình mô phỏng quá trình lan truyền, biến đổi, chuyển hóa chất gây ô nhiễm trong môi trường biển và hải đảo;
  • Hiệu chỉnh và xác định bộ thông số cho mô hình;
  • Kiểm định và đánh giá mức độ tin cậy của các kết quả mô hình;
  • Tính toán, mô phỏng các kịch bản;
  • Lập báo cáo kết quả tính toán.”

Việc đánh giá mức độ chính xác, phù hợp của mô hình phải được tiến hành khi hiệu chỉnh và xác định bộ thông số cho mô hình; việc kiểm định và đánh giá độ tin cậy của các kết quả mô hình được thực hiện theo trình tự sau đây: đầu tiên, “đánh giá trực quan thông qua việc so sánh chuỗi số liệu thực đo và chuỗi số liệu tính toán, mô phỏng theo mô hình; so sánh sự đồng bộ giữa hai chuỗi số liệu”, sau đó “tính toán, xác định mức độ tương quan giữa chuỗi số liệu thực đo và chuỗi số liệu tính toán, mô phỏng theo mô hình” và cuối cùng là “tính toán hệ số hiệu quả mô hình theo công thức”. (Khoản 3 Điều 12 Thông tư 26/2016/TTBTNMT).

Sau khi tính toán, áp dụng mô hình phù hợp thì bước cuối cùng trong phân vùng rủi ro ô nhiễm môi trường biển đó là lập bản đồ phân vùng rủi ro ô nhiễm môi trường biển và hải đảo.

2.2.2. Quy định về hoạt động kiểm soát ô nhiễm môi trường biển. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về bảo vệ môi trường biển.

Phòng ngừa, kiểm soát ô nhiễm môi trường biển là hoạt động quan trọng trong bảo vệ môi trường biển.

Ô nhiễm môi trường biển là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến hàng loạt hậu quả xấu cho hệ sinh thái biển. Trong hoạt động hàng ngày của con người cũng như của các doanh nghiệp, khu chế xuất, một lượng lớn rác thải, nước thải chưa qua xử lý bị thải ra biển, gây nguy cơ ô nhiễm cho môi trường biển. Bởi vậy, các quy định về kiểm soát ô nhiễm được ban hành, từ đó những biện pháp giảm thiểu ô nhiễm môi trường sẽ được áp dụng để có thể hạn chế các tác động đến môi trường. Chỉ khi môi trường nằm trong tầm kiểm soát thì con người mới có thể áp dụng những biện pháp phù hợp để bảo vệ hiệu quả.

Pháp luật Việt Nam chưa đưa ra một định nghĩa chính thức, cụ thể về kiểm soát ô nhiễm môi trường biển. Tuy nhiên, từ quy định về khái niệm kiểm soát ô nhiễm môi trường tại Khoản 18 Điều 3 Luật Bảo vệ môi trường năm 2014, có thể hiểu kiểm soát ô nhiễm môi trường biển là một quá trình phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và xử lý ô nhiễm trên biển. Đó là một quá trình gồm nhiều bước khác nhau, mỗi khâu lại có sự ảnh hưởng nhất định đến khâu khác. Phòng ngừa là cách tốt nhất sự cố môi trường được hạn chế xảy ra. Tuy nhiên, không phải lúc nào con người cũng có thể đảm bảo việc phòng ngừa là tuyệt đối an toàn, trong nhiều trường hợp, có những sự cố vẫn nằm ngoài tầm kiểm soát của con người. Khi trường hợp đó xảy ra, việc cần thiết là có những biện pháp khẩn cấp để ngăn chặn tối đa hậu quả có thể xảy ra, xử lý ô nhiễm. Như vậy, khi tiến hành kiểm soát ô nhiễm môi trường thì không phải chỉ cần có lựa chọn các phương thức để tránh xảy ra ô nhiễm mà còn cần phải xử lý, ngăn chặn ô nhiễm đó trong thời gian ngắn nhất. Để có thể thực hiện tốt việc kiểm soát ô nhiễm môi trường biển thì không chỉ cần có sự quản lý tốt từ phía Nhà nước mà còn ở chính người dân.

Kiểm soát ô nhiễm môi trường biển cần được tuân theo nguyên tắc nhất định. Từ Điều 42 Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo năm 2015, năm nguyên tắc về kiểm soát ô nhiễm môi trường biển, đó là:

Nguyên tắc đầu tiên chính là việc kiểm soát ô nhiễm môi trường biển phải được thực hiện thường xuyên, ưu tiên công tác phòng ngừa; kịp thời xử lý, khắc phục có hiệu quả tình trạng ô nhiễm, sự cố môi trường biển, suy thoái môi trường biển.

Thứ hai, các khu vực biển phải được phân vùng rủi ro ô nhiễm để có giải pháp kiểm soát ô nhiễm môi trường biển đạt được hiệu quả. Biển có đặc trưng là không nằm trong một giới hạn hay một phạm vi hẹp mà thường là diện tích lớn, có các dòng hải lưu lưu thông trên quãng đường dài hàng ngàn kilomet cho nên, khi một sự cố môi trường xảy ra ở một vùng biển có thể nhanh chóng lan ra nhiều khu vực khác. Chính vì vậy, để việc kiểm soát có hiệu quả thì thay vì quản lý chung một vùng rộng lớn, nên phân chia thành nhiều vùng và giao cho từng địa phương quản lý để ngăn ngừa rủi ro tốt hơn.

Ngoài ra, nguyên nhân chủ yếu dẫn tới việc bị ô nhiễm đó chính là chất thải, rác thải từ đất liền, theo dòng chảy của các con sông hướng ra biển; từ hoạt động của người dân sống trên đảo…, do vậy, các nguồn thải từ đất liền, từ các hoạt động trên biển, chất thải không rõ nguồn gốc cần phải được kiểm soát. Việc kiểm soát các nguồn thải, chất thải phải xem xét đến sức chịu tải môi trường của khu vực biển như thế nào để có cách thức phù hợp. Không chỉ vậy, Biển Đông nằm trên tuyến đường giao thông biển huyết mạch và được coi là tuyến đường vận tải quốc tế nhộn nhịp thứ hai của thế giới, mỗi ngày có khoảng 150- 200 tàu các loại qua lại Biển Đông. Hơn 90% lượng vận tải thương mại của thế giới thực hiện bằng đường biển và 45% trong số đó phải đi qua Biển Đông. Chính vì thế, nguy cơ ô nhiễm đến từ các tàu chở chất thải từ các nước cũng cao hơn nhiều so với những quốc gia khác. Do đó, việc cần thiết là phải kiểm soát tốt những nguồn chất thải đó. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về bảo vệ môi trường biển.

Tiếp theo, đó là cần ứng phó có hiệu quả sự cố môi trường biển, kịp thời ngăn chặn lan truyền ô nhiễm trong sự cố môi trường biển. Khi không thể ngăn chặn được các nguy cơ gây ra ô nhiễm môi trường, sự cố môi trường biển xảy ra thì cần nhanh chóng khắc phục, ngăn chặn lan truyền ô nhiễm, tránh việc ảnh hưởng đến nhiều vùng biển rộng lớn khác trong khu vực.

Một điểm quan trọng đó là cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành, các cấp, các tổ chức, cá nhân có liên quan trong kiểm soát ô nhiễm môi trường biển và hải đảo. Bảo vệ môi trường không phải là trách nhiệm của một cá nhân hay chỉ của cơ quan nhà nước mà cần có sự chung tay, đóng góp của cả cộng đồng. Điều 43 Hiến pháp năm 2013 đã chỉ ra rằng: “Mọi người có nghĩa vụ bảo vệ môi trường”. Khoản 3 Điều 49 Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 cũng ghi nhận nguyên tắc này. Nếu chỉ có cơ quan nhà nước bảo vệ môi trường biển trong khi cộng đồng dân cư vẫn tiếp tục xả thải gây ô nhiễm một cách vô ý thức thì khó có thể đảm bảo môi trường trong sạch vì cơ quan nhà nước không phải lúc nào cũng có thể giám sát toàn bộ hoạt động. Ngược lại, chỉ có cá nhân, tổ chức tham gia bảo vệ thì khó có thể thực hiện tốt được do không có định hướng, chỉ đạo tốt. Do vậy, bảo vệ môi trường biển chỉ có thể được thực hiện tốt nếu như cả cơ quan nhà nước và người dân cùng nỗ lực chung tay hành động.

Kiểm soát ô nhiễm môi trường biển bao gồm những nội dung (chi tiết tại Điều 43 Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo năm 2015) sau:

  • Hoạt động điều tra, thống kê, phân loại và đánh giá các nguồn thải từ đất liền, từ các hoạt động trên biển cũng như tình trạng ô nhiễm môi trường biển.
  • Định kỳ quan trắc và đánh giá hiện trạng chất lượng nước biển, trầm tích, các hệ sinh thái và đa dạng sinh học của các khu vực biển.
  • Điều tra, đánh giá sức chịu tải môi trường của các khu vực biển ở vùng rủi ro ô nhiễm cao hoặc rất cao; công bố các khu vực biển không còn khả năng tiếp nhận chất thải.
  • Phòng ngừa, phát hiện, xử lý, khắc phục tình trạng ô nhiễm và suy thoái môi trường, các hệ sinh thái biển; cải thiện và phục hồi môi trường, các hệ sinh thái biển bị ô nhiễm và suy thoái.
  • Xác định cấp rủi ro ô nhiễm môi trường biển; phân vùng rủi ro và lập bản đồ phân vùng rủi ro ô nhiễm môi trường biển.
  • Ứng phó, khắc phục sự cố môi trường biển. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về bảo vệ môi trường biển.
  • Cấp phép, kiểm soát hoạt động nhận chìm ở biển.
  • Phối hợp giữa cơ quan nhà nước Việt Nam và cơ quan, tổ chức nước ngoài trong việc chia sẻ thông tin, đánh giá chất lượng môi trường nước biển; kiểm soát ô nhiễm môi trường biển xuyên biên giới theo quy định của pháp luật.
  • Công khai các vùng rủi ro ô nhiễm môi trường biển, thông tin về môi trường nước, môi trường trầm tích của các khu vực biển.

Môi trường biển được kiểm soát trên ba phương diện: từ các hoạt động trên biển, từ đất liền và xuyên biên giới.

Hàng ngày, trên biển có rất nhiều tàu thuyền qua lại; có các công trình, giàn khoan, giàn khai thác dầu khí;…, do vậy nên chất thải, nước thải cũng như những hóa chất, chất phóng xạ, dầu từ tàu; các công trình không còn được sử dụng; nước dằn tàu, nước súc, rửa tàu sau quá trình vệ sinh con tàu có thể bị thải ra biển bất cứ lúc nào. Chính vì vậy, việc thu gom, phân loại, lưu giữ, xử lý phải được tuân thủ theo đúng pháp luật bảo vê môi trường. Điều này yêu cầu những cảng biển phải có hệ thống tiếp nhận và xử lý chất thải sinh hoạt, dầu cặn từ các phương tiện trên biển. (Điều 45 Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo năm 2015).

Trên đất liền, phần lớn nước thải đều thải ra sông suối, sau đó đi ra biển, cho nên, các hoạt động trên đất liền cũng chính là một phần gây ô nhiễm biển, cần phải được kiểm soát. Kiểm soát bao gồm các nội dung quy định tại Điều 46 Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo năm 2015:

  • “Chất thải phát sinh từ hoạt động sản xuất, kinh doanh, sinh hoạt trên đất liền trước khi thải xuống biển phải được xử lý đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường.
  • Việc bố trí các điểm xả nước thải đã được xử lý xuống biển phải được xem xét trên cơ sở điều kiện tự nhiên của khu vực xả nước thải; các điều kiện động lực, môi trường, sinh thái và đa dạng sinh học, các nguồn tài nguyên và hiện trạng khai thác, sử dụng vùng biển.
  • Các điểm xả nước thải ra khu bảo tồn biển, khu vực bãi tắm, danh lam, thắng cảnh ven biển phải được đánh giá, xem xét, xử lý theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường.
  • Các điểm xả nước thải đã được xử lý xuống biển phải được bố trí, xem xét trên cơ sở của: điều kiện tự nhiên của khu vực xả nước thải; các điều kiện động lực, môi trường, sinh thái và đa dạng sinh học, các nguồn tài nguyên và hiện trạng khai thác, sử dụng vùng biển. Các điểm xả nước thải ra khu bảo tồn biển, khu vực bãi tắm, danh lam, thắng cảnh ven biển phải được đánh giá, xem xét, xử lý theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường.
  • Cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trên vùng đất ven biển và trên hải đảo phải có đầy đủ phương tiện, thiết bị xử lý chất thải bảo đảm đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường; phải định kỳ báo cáo cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền về hiện trạng xử lý và xả chất thải ra biển theo quy định của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường.
  • Nguồn ô nhiễm từ các lưu vực sông ra biển phải được điều tra, đánh giá và kiểm soát chặt chẽ.

Đối với trường hợp kiểm soát ô nhiễm biển xuyên biên giới, Bộ, cơ quan ngang bộ và Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có trách nhiệm phát hiện, ngăn chặn, thông báo tình trạng ô nhiễm cho Bộ Tài nguyên và Môi trường. Bộ Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với các cơ quan này để xác định ô nhiễm có nguồn gốc từ đâu; xử lý và khắc phục theo phương án nào và hợp tác với các nước liên quan để giải quyết tình trạng ô nhiễm. (Điều 47 Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo năm 2015).

2.2.3. Quy định về đánh giá kết quả hoạt động kiểm soát ô nhiễm môi trường biển. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về bảo vệ môi trường biển.

Hoạt động đánh giá kiểm soát ô nhiễm môi trường biển là rất quan trọng và cần thiết, tạo cơ sở điều chỉnh các chính sách, pháp luật hiện hành và xây dựng các quy định pháp luật mới phục vụ việc bảo vệ môi trường biển. Đồng thời, qua việc đánh giá, sẽ giúp nhìn nhận lại kết quả đã đạt được trong toàn bộ quá trình, xác định những mục tiêu đã đạt được, những thiếu sót, khó khăn còn tồn tại để tìm ra giải pháp cải thiện. Đồng thời, việc đánh giá cũng sẽ giúp tìm ra những giải pháp phù hợp cho từng vùng biển để ô nhiễm kiểm soát tốt hơn.

Thông tư số 27/2016/TT-BTNMT của Bộ Tài nguyên và môi trường ban hành ngày 29 tháng 09 năm 2016 quy định chi tiết bộ chỉ số và việc đánh giá kết quả hoạt động kiểm soát ô nhiễm môi trường biển và hải đảo (sau đây gọi tắt là Thông tư 27/2016/TT-BTNMT) là cơ sở pháp lý để thực hiện đánh giá kết quả hoạt động kiểm soát ô nhiễm môi trường biển.

Theo đó, việc đánh giá được thực hiện bởi các bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có biển. Đồng thời, hoạt động đánh giá sẽ được dựa trên bộ chỉ số. Chỉ số đánh giá kết quả hoạt động kiểm soát ô nhiễm môi trường biển là “con số tỷ lệ giúp đo lường và chỉ ra mức độ chất lượng đạt được của hoạt động kiểm soát ô nhiễm môi trường biển” (Khoản 3 Điều 3 Thông tư 27/2016/TT-BTNMT). Hơn nữa, bộ chỉ số đánh giá kết quả hoạt động kiểm soát ô nhiễm môi trường biển còn là “công cụ để phản ánh khách quan, toàn diện hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước trong việc thực hiện các nội dung kiểm soát ô nhiễm môi trường biển” (Khoản 4 Điều 3 Thông tư 27/2016/TT-BTNMT). Bộ chỉ số đánh giá kết quả hoạt động kiểm soát ô nhiễm môi trường biển gồm “chỉ số đánh giá kết quả thực hiện nội dung kiểm soát ô nhiễm môi trường biển và chỉ số đánh giá kết quả hoạt động kiểm soát ô nhiễm môi trường biển” (Khoản 1 Điều 4 Thông tư 27/2016/TT-BTNMT). Khóa luận: Thực trạng pháp luật về bảo vệ môi trường biển.

Đánh giá ngoài những nội dung về kiểm soát ô nhiễm môi trường biển quy định tại Điều 43 Luật Tài nguyên môi trường biển, hải đảo năm 2015, còn dựa trên những nội dung sau đây:

  • Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành kiểm soát ô nhiễm môi trường biển của cơ quan nhà nước;
  • Rà soát, hệ thống hóa; theo dõi, kiểm tra tình hình thi hành văn bản quy phạm pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường biển;
  • Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục nâng cao nhận thức pháp luật về bảo vệ môi trường biển;
  • Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về tài nguyên, môi trường biển, giải quyết khiếu nại tố cáo.

Bên cạnh đó, đánh giá sẽ được tổng hợp trong bộ hồ sơ đánh giá. Hồ sơ đánh giá được quy định cụ thể tại Điều 11 Thông tư 27/2016/TT-BTNMT, bao gồm:

  • Bảng tổng hợp kết quả tự chấm điểm các tiêu chí, tiêu chí thành phần, chỉ số đánh giá kết quả hoạt động kiểm soát ô nhiễm môi trường biển theo mẫu tại Phụ lục 01 và Phụ lục 03 ban hành kèm theo Thông tư 27/2016/TT-BTNMT;
  • Các tài liệu chứng minh kết quả đạt được đối với các nội dung kiểm soát ô nhiễm môi trường biển, tiêu chí, tiêu chí thành phần;
  • Báo cáo diễn giải đầy đủ, cụ thể cách đánh giá, tính điểm đối với các nội dung, tiêu chí, tiêu chí thành phần.

Hồ sơ đánh giá kết quả hoạt động kiểm soát ô nhiễm môi trường biển được lưu tại cơ quan thực hiện việc đánh giá và gửi một bộ về Bộ Tài nguyên và Môi trường sau khi công bố kết quả.

Sau khi đánh giá, kết quả đánh giá sẽ được Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có biển phê duyệt. Cuối cùng, kết quả sẽ được công bố rộng rãi để mọi người dân đều biết.

2.2.4. Ứng phó, khắc phục sự cố tràn dầu trên biển. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về bảo vệ môi trường biển.

Số lượng dầu tràn ra ngoài tự nhiên khoảng vài trăm lít trở lên có thể coi là sự cố tràn dầu. Sự cố tràn dầu gây ô nhiễm môi trường biển, ảnh hưởng nghiêm trọng đến các hệ sinh thái. Đặc biệt là hệ sinh thái rừng ngập mặn, cỏ biển, vùng triều bãi cát, đầm phá và các rạn san hô. Ô nhiễm dầu làm giảm khả năng sức chống đỡ, tính linh hoạt và khả năng khôi phục của các hệ sinh thái. Hàm lượng dầu trong nước tăng cao, các màng dầu làm giảm khả năng trao đổi oxy giữa không khí và nước, giảm oxy trong nước, làm cán cân điều hòa oxy trong hệ sinh thái bị đảo lộn.

Ngoài ra, dầu tràn chứa độc tố làm tổn thương hệ sinh thái, có thể gây suy vong hệ sinh thái. Dầu thấm vào cát, bùn ở ven biển có thể gây ảnh hưởng trong một thời gian rất dài. Điều đáng báo động đó là dầu lan trên biển và dạt vào bờ trong thời gian dài không được thu gom sẽ làm suy giảm lượng cá thể sinh vật, gây thiệt hại cho ngành khai thác và nuôi trồng thủy, hải sản. Dầu gây ô nhiễm môi trường nước làm cá chết hàng loạt. Nạn tràn dầu còn làm ảnh hưởng đến hoạt động của các cảng cá, cơ sở đóng mới và sửa chữa tàu biển do dầu trôi nổi làm hỏng máy móc, thiết bị khai thác tài nguyên và vận chuyển đường thủy.

Chính vì tác hại gây ra bởi các sự cố tràn dầu, cho nên, bên cạnh việc tích cực tham gia các điều ước quốc tế về phòng, chống ô nhiễm môi trường biển do dầu từ tàu gây ra, Việt Nam cũng đã xây dựng hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật trong nước điều chỉnh về vấn đề ứng phó, khắc phục với sự cố tràn dầu trên biển.

Đến nay, ngoài Hiến pháp năm 2013, hệ thống các văn bản pháp luật chung quy định về phòng chống ô nhiễm môi trường biển dầu từ tàu gây ra bao gồm 32 văn bản quy phạm pháp luật; các văn bản pháp luật riêng biệt về phòng chống ô nhiễm môi trường biển do dầu từ tàu gây ra bao gồm 12 văn bản quy phạm pháp luật. Bên cạnh đó, Ủy ban nhân dân các tỉnh cũng đã ban hành các văn bản hành chính riêng biệt về phòng chống ô nhiễm môi trường biển do dầu nói chung và phòng chống ô nhiễm môi trường biển do dầu từ tàu gây ra nói riêng.

Pháp luật hình sự cũng đã có quy định một số tội liên quan đến môi trường trong đó có Tội vi phạm quy định về phòng ngừa sự cố môi trường ở Điều 182b Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009. Theo đó, “người nào vi phạm quy định về phòng ngừa sự cố môi trường để xảy ra sự cố môi trường hoặc vi phạm quy định về ứng phó sự cố môi trường làm môi trường bị ô nhiễm” có thể bị phạt tiền hoặc bị phạt tù tùy theo mức độ nghiêm trọng của hậu quả do hành vi gây ra. Bộ luật Hình sự năm 2015 đã mở rộng phạm vi, thay vì chỉ quy định về tội đối với hành vi vi phạm phòng ngừa sự cố môi trường, còn có hành vi liên quan đến không tuân thủ quy định về ứng phó, khắc phục sự cố môi trường làm môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 237). Khóa luận: Thực trạng pháp luật về bảo vệ môi trường biển.

Bộ Luật Hàng hải Việt Nam năm 2005 ban hành ngày 14 tháng 06 năm 2005 (sau đây gọi là Bộ Luật Hàng hải Việt Nam năm 2005) đã ghi nhận vấn đề bảo vệ môi trường là một nguyên tắc quan trọng: phòng ngừa ô nhiễm biển là một trong những nội dung thuộc phạm vi điều chỉnh của Bộ luật (Điều 1) và hành vi gây ô nhiễm môi trường biển là hành vi bị nghiêm cấm (Điều 10). Quan trọng hơn, có hai điều luật trực tiếp điều chỉnh việc phòng ngừa, xử lý ô nhiễm biển do dầu đó là Điều 28 và Điều 223. Bộ Luật đã cụ thể hoá những quy định của Công ước MARPOL 73/78 về đăng kiểm, về giấy chứng nhận phòng ngừa ô nhiễm môi trường, lưu giữ các tàu không đủ điều kiện bảo vệ môi trường; kiểm tra, kiểm soát và cấm vào cảng các tàu không đủ điều kiện về phòng ngừa ô nhiễm môi trường;…

Bên cạnh đó, Luật Thuỷ sản năm 2003 tại Khoản 1 Điều 7 cũng chỉ ra rằng: các chủ thể khi tham gia khai thác nguồn lợi thuỷ sản có trách nhiệm phải bảo vệ môi trường sống của các loài thuỷ sản. Đây là cơ sở bảo vệ các nguồn thuỷ sản khi bị ô nhiễm do dầu tác động. [13, tr.60]

Luật Dầu khí năm 1993 sửa đổi, bổ sung năm 2008, Điều 5 có quy định: các chủ thể tham gia hoạt động dầu khí phải có đề án bảo vệ môi trường và các biện pháp ngăn ngừa bảo vệ môi trường. Điều 46 Nghị định số 95/2015/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 16 tháng 10 năm 2015 hướng dẫn thi hành Luật Dầu khí quy định chi tiết về các công việc có liên quan đến bảo vệ môi trường mà mọi tổ chức, cá nhân tiến hành hoạt động dầu khí phải thực hiện.

Có thể thấy, trước đây, những quy định về sự cố tràn dầu cần được ứng phó, khắc phục như thế nào còn rải rác ở nhiều văn bản luật khác nhau. Cho đến khi Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 02/2013/QĐ-TT cùng với Quy chế hoạt động ứng phó sự cố tràn dầu kèm theo Quyết định số 02/2013/QĐTT ngày 14 tháng 01 năm 2013 (sau đây gọi là Quy chế), việc ứng phó, khắc phục các sự cố tràn dầu được cụ thể, thống nhất và hiệu quả hơn.

Quy chế đã quy định rõ về định nghĩa sự cố tràn dầu, ứng phó và khắc phục hậu quả của sự cố tràn dầu. Theo Khoản 2 Điều 3 Quy chế thì: “Sự cố tràn dầu là hiện tượng dầu từ các phương tiện chứa, vận chuyển khác nhau, từ các công trình và các mỏ dầu thoát ra ngoài môi trường tự nhiên do sự cố kỹ thuật, thiên tai hoặc do con người gây ra”. Còn, hoạt động ứng phó sự cố tràn dầu là “các hoạt động sử dụng lực lượng, phương tiện, thiết bị, vật tư nhằm xử lý kịp thời, loại trừ hoặc hạn chế tối đa nguồn dầu tràn ra môi trường” (Khoản 4 Điều 3 Quy chế). Và khắc phục hậu quả sự cố tràn dầu là “các hoạt động nhằm làm sạch đất, nước, hệ sinh thái khu vực bị nhiễm dầu và các biện pháp hạn chế thiệt hại, phục hồi môi sinh, môi trường sau sự cố tràn dầu” (Khoản 5 Điều 3 Quy chế). Khóa luận: Thực trạng pháp luật về bảo vệ môi trường biển.

Có thể thấy: ứng phó sự cố tràn dầu bao gồm nhiều hoạt động từ việc chuẩn bị, ứng phó, khắc phục đến giải quyết hậu quả sự cố tràn dầu.

Đầu tiên, để việc ứng phó sự cố tràn dầu được tiến hành hiệu quả thì cần tuân theo các nguyên tắc ứng phó được cụ thể trong Điều 4 của Quy chế. Đó là:

  • Chủ động, tích cực trong công tác phòng ngừa, chủ động xây dựng kế hoạch, đầu tư trang thiết bị, các phương án hợp đồng để sẵn sàng ứng phó khi xảy ra sự cố tràn dầu. Nguyên tắc này được xây dụng dựa trên những tác động trực tiếp, ảnh hưởng xấu đến môi trường biển của sự cố tràn dầu.
  • Tiếp nhận, xử lý thông tin về sự cố tràn dầu kịp thời, ưu tiên bảo đảm thông tin cho hoạt động ứng phó, báo cáo kịp thời đến cấp có thẩm quyền khi vượt khả năng ứng phó. Khi đó, cơ quan chức năng sẽ áp dụng biện pháp hữu hiệu hơn đề khắc phục sự cố tràn dầu.
  • Các cá nhân, tổ chức cần phối hợp, huy động mọi nguồn lực để nâng cao hiệu quả chuẩn bị và ứng phó sự cố tràn dầu, ưu tiên các hoạt động để cứu người bị nạn và bảo vệ môi trường.
  • Có những biện pháp để chủ động ứng phó gần nguồn dầu tràn để ngăn chặn, hạn chế dầu tràn ra môi trường. Cơ quan nhà nước cần tiến hành giám sát chặt chẽ nguy cơ lan tỏa dầu tràn vào đường bờ để xác định thứ tự ưu tiên và tiến hành các biện pháp bảo vệ các khu vực ưu tiên bảo vệ.
  • Đảm bảo an toàn, phòng chống cháy nổ trong ứng phó khi sự cố tràn dầu đã xảy ra do dầu là chất dễ bắt lửa, có thể gây nguy hiểm đến tính mạng cho những người trực tiếp tham gia ứng phó sự cố tràn dầu.
  • Có sự chỉ huy thống nhất, phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ các lực lượng, phương tiện, thiết bị tham gia hoạt động ứng phó, nhằm khắc phục được sự cố tràn dầu trong thời gian sớm nhất có thể.
  • Bên gây ra ô nhiễm tràn dầu phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tràn dầu gây ra theo quy định của pháp luật. Nguyên tắc này là sự cụ thể hóa của nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền trong pháp luật bảo vệ môi trường.

Bên cạnh đó, sự cố tràn dầu sẽ được phân cấp (có ba cấp, tùy theo mức độ nghiêm trọng của sự cố: cấp cơ sở; cấp khu vực; cấp Quốc gia), phân loại mức độ (phụ thuộc vào lượng dầu tràn dưới 20 tấn; từ 20 tấn đến 500 tấn và trên 500 tấn) để có thể áp dụng biện pháp hữu hiệu nhất.

Ngoài ra, các quy trình thực hiện để ứng phó với sự cố tràn dầu cũng được Quy chế đã quy định rất chi tiết. Để ứng phó tốt nhất với sự cố tràn dầu, trước hết đó là cần có kế hoạch chuẩn bị tốt nhất để có thể ứng phó kịp thời khi sự cố thực sự xảy ra (Chương II Quy chế). Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch quốc gia ứng phó sự cố tràn dầu và chịu trách nhiệm chủ trì tổ chức thực hiện Kế hoạch. Ủy ban Quốc gia Tìm kiếm Cứu nạn chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ Kế hoạch quốc gia ứng phó sự cố tràn dầu và chịu trách nhiệm chủ trì tổ chức thực hiện Kế hoạch. Tùy theo mức độ của nguy cơ có thể xảy ra mà kế hoạch được xây dựng, phê duyệt bởi những chủ thể khác nhau (Điều 7 Quy chế). Cụ thể như sau: Khóa luận: Thực trạng pháp luật về bảo vệ môi trường biển.

  • Sự cố tràn dầu từ mức trung bình trở lên thì sẽ do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện xây dựng, trình Ủy ban Quốc gia Tìm kiếm Cứu nạn thẩm định và phê duyệt.
  • Các cảng, cơ sở, dự án tại địa phương trình Kế hoạch lên Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, phê duyệt.
  • Những cơ sở kinh doanh xăng, dầu mà nguy cơ xảy ra sự cố tràn dầu ở mức nhỏ trên đất liền thì Ủy ban nhân dân huyện (quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh) sẽ xem xét, phê duyệt kế hoạch.
  • Đối với các cơ sở, dự án dầu khí ngoài khơi thì dự án được Tập đoàn Dầu khí Việt Nam thẩm định và Ủy ban Quốc gia Tìm kiếm Cứu nạn phê duyệt.
  • Ngoài ra, những Trung tâm ứng phó sự cố tràn dầu khu vực cũng cần lập dự án để Ủy ban Quốc gia Tìm kiếm Cứu nạn phê duyệt.
  • Kế hoạch ứng cứu ô nhiễm dầu, ô nhiễm hóa chất do các tàu chở dầu có tổng dung tích từ 150 tấn trở lên, các tàu loại khác có tổng dung tích từ 400 tấn trở lên xây dựng được Cục Hàng hải Việt Nam hoặc Cục Đường thủy nội địa Việt Nam phê duyệt theo quy định.
  • Tàu chở dầu Việt Nam có tổng dung tích từ 150 tấn đăng ký trở lên tham gia vào việc chuyển tải dầu giữa tàu với tàu trên biển Việt Nam phải có Kế hoạch hoạt động chuyển tải dầu giữa tàu với tàu trên biển được Cục Hàng hải Việt Nam phê duyệt theo quy định.

Ngoài ra, chính chủ tàu cũng phải có trách nhiệm xây dựng dự án để hỗ trợ những tàu khác trong trường hợp sự cố xảy ra.

Để ứng phó kịp thời với những sự cố tràn dầu thì không chỉ cần có bản Kế hoạch tốt mà còn cần cơ chế giám sát để được thông tin kịp thời và có nguồn nhân lực tốt. Những người này sẽ được tham gia chương trình và tổ chức tập huấn, huấn luyện, diễn tập để nâng cao hiệu quả phối hợp ứng phó, khắc phục hậu quả sự cố tràn dầu. Tuy nhiên, không phải lúc nào cũng có thể ngăn chặn sự cố tràn dầu xảy ra một cách tuyệt đối. Một khi sự cố đã xảy ra thì điều quan trọng nhất là giảm thiểu hậu quả một cách tối đa. Khi đó, sự phối hợp thông tin trong ứng phó sự cố là vô cùng cần thiết để có thể huy động được nguồn nhân lực giúp ngăn chặn sự lây lan của việc tràn dầu trên biển. Tiếp theo đó là công tác ứng phó sự cố tràn dầu; thông báo về khu vực hạn chế hoạt động; tiến hành trục vớt tàu bị chìm đắm gây ra hoặc có khả năng gây ra sự cố tràn dầu; sử dụng các chất phân tán dầu tràn và chế phẩm sinh học trong ứng phó sự cố tràn dầu; chủ động phối hợp sử dụng tàu bay tham gia ứng phó sự cố tràn dầu và bảo đảm an toàn phòng chống cháy, nổ trong ứng phó sự cố tràn dầu.

Không chỉ dừng lại ở việc ứng phó với sự cố tràn dầu, sau đó, các bên liên quan còn phải tiến hành điều tra, xác định nguyên nhân sự cố tràn dầu là do đâu, tại sao lại xảy ra. Đồng thời, cần giải quyết hậu quả do sự cố gây ra đối với người, tài sản bị mất và hơn hết là đối với môi trường biển, hệ sinh thái biển. Trong đó, cách giải quyết thường được áp dụng đó là yêu cầu bồi thường thiệt hại. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về bảo vệ môi trường biển.

Thông tư 2262/TT-MTG ban hành ngày 29 tháng 12 năm 1995 của Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường về việc khắc phục sự cố tràn dầu đã nêu lên quy tắc cụ thể được áp dụng khi bồi thường tại Mục III.

Thứ nhất, tất cả các tổ chức và cá nhân quốc tịch Việt Nam, nước ngoài hay liên doanh giữa Việt Nam và nước ngoài gây ô nhiễm môi trường do sự cố tràn dầu, đều phải bồi thường các thiệt hại về môi trường theo quy định của pháp luật. Trách nhiệm bồi thường này đã được Bộ luật Dân sự năm 2015 ban hành ngày 24 tháng 11 năm 2015 (sau đây gọi là Bộ luật Dân sự năm 2015) quy định ở Điều 602 về Bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường.

Thứ hai, căn cứ pháp lý cơ bản để đòi bồi thường thiệt hại về môi trường gây ra do sự cố tràn dầu là Chương XIX- Luật Bảo vệ môi trường năm 2014, đồng thời có sự tham khảo các luật liên quan khác của Việt Nam và Công ước quốc tế liên quan. Toà án xét xử tranh chấp là Toà án của Việt Nam.

Thứ ba, trong quá trình khiếu nại đòi bồi thường các thiệt hại về môi trường, có thể đòi hỏi tới tư vấn của cơ quan chuyên môn về pháp luật, đôi khi cần đến cả tư vấn về pháp luật của quốc tế trong các trường hợp bên gây sự cố là pháp nhân nước ngoài.

Thứ tư, trước khi tiến hành hoạt động đòi bồi thường, địa phương nơi xảy ra sự cố có thể trao đổi với Cục Môi trường, Bộ Tài nguyên và môi trường để có được các hướng dẫn cần thiết.

Cuối cùng, do sự cố tràn dầu thường gây ra hậu quả nghiêm trọng về môi trường nên khoản đền bù cho các thiệt hại về môi trường rất lớn, thường vượt quá khả năng của chủ phương tiện gây ra sự cố. Để có thể trả được số tiền bồi thường thiệt hại này, các chủ phương tiện cần thường xuyên tham gia bảo hiểm quốc gia hoặc quốc tế, cho nên, về nguyên tắc, thiệt hại về môi trường có thể được hoàn trả thông qua các quỹ bảo hiểm. Ngày nay, sự hoàn trả các thiệt hại về môi trường đã trở thành thông lệ quốc tế. Số tiền hoàn trả sẽ chỉ được tính cho những khoản như sau:

  • Chi phí cho ứng cứu sự cố, như ngăn dầu, san dầu, gom dầu, xử lý dầu cặn, làm sạch môi trường…
  • Bồi thường thiệt hại về kinh tế cho các tổ chức, cá nhân bị thiệt hại trực tiếp do sự cố xảy ra (Ví dụ đối với việc nuôi trồng, đánh bắt thuỷ sản, làm muối,…)
  • Bồi thường cho việc khôi phục môi trường bị suy thoái hoặc huỷ hoại do ô nhiễm.
  • Chi phí cho công tác khảo sát, lập căn cứ để đánh giá thiệt hại về kinh tế và môi trường.

Có thể thấy, ô nhiễm biển gây ra do sự cố tràn dầu là một trong những nội dung quan trọng của bảo vệ môi trường biển trong bất kỳ pháp luật về bảo vệ môi trường biển của bất kỳ quốc gia nào, không chỉ Việt Nam. Với những quy định cụ thể, rõ ràng, Việt Nam đã có cách nhìn khá toàn diện, đầy đủ về làm thế nào để ứng phó tốt khi sự cố tràn dầu xảy ra, xác định việc bồi thường thiệt hại cho hợp lý.

2.2.5. Nhận chìm ở biển.  Khóa luận: Thực trạng pháp luật về bảo vệ môi trường biển.

Theo Khoản 5 Điều 1 Công ước Luật biển 1982, “Sự nhận chìm (immersion) là: (i) mọi sự trút bỏ có ý thức xuống biển các chất thải hoặc các chất khác từ các tàu thuyền, phương tiện bay, giàn nổi hoặc công trình khác được bố trí ở biển; (ii) mọi sự đánh chìm tàu thuyền, phương tiện bay, giàn nổi hoặc các công trình khác được bố trí ở biển”. Pháp luật môi trường của Việt Nam cho rằng nhận chìm ở biển là “sự đánh chìm hoặc trút bỏ có chủ định xuống biển các vật, chất được nhận chìm ở biển theo quy định của pháp luật”

  • (Điều 3 Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo năm 2015).
  • Việc nhận chìm ở biển phải tuân theo những yêu cầu nhất định:

Chỉ được thực hiện nhận chìm khi đã được cấp phép của cơ quan nhà nước thông qua Giấy phép nhận chìm ở biển.

Giấy phép nhận chìm ở biển bao gồm những nội dung chính sau: Tên tổ chức, cá nhân được cấp Giấy phép nhận chìm ở biển và nghĩa vụ của họ; tên, khối lượng, kích thước, thành phần của vật được nhận chìm; tên, loại, khối lượng, thành phần của chất được nhận chìm; vị trí, ranh giới, tọa độ, diện tích khu vực biển được sử dụng để nhận chìm; phương tiện chuyên chở, cách thức nhận chìm; thời điểm và thời hạn được phép thực hiện hoạt động nhận chìm (Điều 59 Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo năm 2015).

Sau khi được cấp giấy phép, giấy phép có thể được cấp lại, gia hạn, sửa đổi, bổ sung, cho phép trả lại và thu hồi. Nội dung cụ thể được quy định tại Nghị định số 40/2016/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 15 tháng 05 năm 2016 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo (sau đây gọi là Nghị định số 40/2016/NĐ-CP).

Giấy phép nhận chìm ở biển được xem xét gia hạn “trong trường hợp thời hạn của giấy phép không đủ để hoàn thành hoạt động nhận chìm đã được cấp phép và tổ chức, cá nhân có nhu cầu gia hạn thời gian để thực hiện” (Điều 50 Nghị định số 40/2016/NĐ-CP). Khi có sự thay đổi trong tên tổ chức, cá nhân được phép nhận chìm ở biển hoặc quy mô nhận chìm; ranh giới, diện tích khu vực biển sử dụng để nhận chìm; cách thức nhận chìm; thời Điểm thực hiện hoạt động nhận chìm thì Giấy phép sẽ được sửa đổi, bổ sung (Điều 51 Nghị định số 40/2016/NĐ-CP). Nếu cá nhân, tổ chức không có nhu cầu tiếp tục hoạt động nhận chìm ở biển thì cần trả lại Giấy phép và được chấp thuận trả lại qua Quyết định cho phép trả lại Giấy phép nhận chìm ở biển bởi Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường (Điều 52 Nghị định số 40/2016/NĐ-CP). Trong trường hợp Giấy phép bị hư hỏng, thất lạc hay bị mất thì sẽ được cấp lại bằng cấp bản sao Giấy phép nhận chìm ở biển đã cấp (Điều 53 Nghị định số 40/2016/NĐ-CP).

Để được cấp lại, gia hạn, sửa đổi, bổ sung, trả lại Giấy phép nhận chìm ở biển thì tổ chức, cá nhân phải lập một bộ hồ sơ, trong đó phải có đơn đề nghị cấp lại, gia hạn, sửa đổi, bổ sung, trả lại Giấy phép nhận chìm ở biển. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về bảo vệ môi trường biển.

Vật, chất nhận chìm không phát sinh ngoài lãnh thổ Việt Nam và được phép nhận chìm ở vùng biển Việt Nam.

Để được pháp luật ghi nhận là vật, chất nhận chìm thì cần đáp ứng những tiêu chí theo quy định của pháp luật: “không chứa chất phóng xạ, chất độc vượt quy chuẩn kỹ thuật an toàn bức xạ, quy chuẩn kỹ thuật môi trường; đã được xử lý đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường; bảo đảm không tác động có hại đến sức khỏe con người, môi trường, hệ sinh thái, nguồn lợi thủy sản; không thể đổ thải, lưu giữ, xử lý trên đất liền hoặc việc đổ thải, lưu giữ, xử lý trên đất liền không hiệu quả về kinh tế- xã hội và phải thuộc Danh mục vật, chất được nhận chìm ở biển” (Điều 58 Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo năm 2015).

Chính phủ quy định Danh mục vật, chất được nhận chìm ở biển tại (Điều 60 Nghị định số 40/2016/NĐ-CP), bao gồm: “Chất nạo vét; bùn thải; các chất thải từ thủy sản hoặc các chất thải phát sinh từ hoạt động chế biến thủy sản; tàu thuyền, giàn nổi hoặc các công trình nhân tạo ở biển; các chất địa chất trơ và chất vô cơ; các chất hữu cơ có nguồn gốc tự nhiên; các vật thể lớn được tạo thành chủ yếu từ sắt, thép, bê-tông và các chất tương tự không độc hại mà trong Điều kiện, hoàn cảnh cụ thể không có cách xử lý nào tốt hơn là nhận chìm và cuối cùng là Carbon dioxide (CO2) được thu và lưu trữ”.

Một điểm cần lưu ý đó là khu vực biển được sử dụng để nhận chìm phải phù hợp với quy hoạch sử dụng biển, quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ. Việc nhận chìm ở biển không được gây ra tác động có hại đến sức khỏe con người, tiềm năng phát triển kinh tế của đất nước; hạn chế tối đa ảnh hưởng xấu tới môi trường, hệ sinh thái biển và phải được quản lý, kiểm soát chặt chẽ. Việc kiểm soát sẽ được thực hiện bởi Cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy phép nhận chìm ở biển, các lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển thông qua các thiết bị giám sát hành trình, những ghi chép, nhật ký hàng hải của tổ chức, cá nhân được phép nhận chìm ở biển đăng ký.

2.2.6. Xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường biển tại Việt Nam. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về bảo vệ môi trường biển.

Một ngành luật, bên cạnh những quy phạm pháp luật cụ thể quy định về những hành vi được phép và không được phép làm thì chế tài cũng rất quan trọng. Khi có chế tài, cá nhân, tổ chức cần phải cân nhắc trước khi thực hiện, có nên vi phạm quy định pháp luật hay không, nếu vi phạm thì mình phải chịu trách nhiệm gì. Pháp luật về bảo vệ môi trường biển cũng không là ngoại lệ. Chế tài áp dụng trong pháp luật về bảo vệ môi trường biển bao gồm: trách nhiệm hành chính, trách nhiệm dân sự và trách nhiệm hình sự.

2.2.6.1. Trách nhiệm hành chính.

Chính phủ đã ban hành Nghị định số 155/2016/NĐ-CP của Chính phủ ngày 18 tháng 11 năm 2016 về Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường (sau đây gọi là Nghị định 155/2016/NĐ-CP).

Tại Điều 27 Nghị định 155/2016/NĐ-CP quy định cụ thể về mức phạt hành chính khi cá nhân, tổ chức vi phạm quy định về bảo vệ môi trường biển như sau:

  • Khi chủ phương tiện vận tải, kho lưu giữ hàng hóa trên biển có nguy cơ gây ra sự cố môi trường biển mà không thông báo cho các lực lượng cứu nạn, cứu hộ quốc gia, lực lượng Cảnh sát biển, tổ chức, cá nhân liên quan khác thì sẽ bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng.
  • Tổ chức, cá nhân hoạt động khai thác khoáng sản, chủ phương tiện vận chuyển xăng, dầu, hóa chất, chất phóng xạ và các chất độc hại khác trên biển không có kế hoạch, nhân lực, trang thiết bị bảo đảm phòng ngừa và ứng phó sự cố môi trường biển sẽ bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 80.000.000 đồng.
  • Phạt tiền từ 80.000.000 đồng đến 150.000.000 đồng khi thực hiện một trong những hành vi sau đây:

Khai thác nguồn lợi, tài nguyên biển và hoạt động khác liên quan đến khai thác, sử dụng tài nguyên biển thực hiện không đúng theo quy hoạch sử dụng tài nguyên thiên nhiên đã được phê duyệt;

Không tuân theo quy chế của ban quản lý khu bảo tồn thiên nhiên, khu rừng ngập mặn, di sản tự nhiên biển; quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường và các quy định khác của pháp luật có liên quan;

Không xử lý đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường đối với chất thải và các yếu tố gây ô nhiễm khác từ hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, xây dựng, giao thông, vận tải, khai thác trên biển;

Để, lưu giữ phương tiện vận tải, kho tàng, các công trình khai thác dầu khí trên biển quá thời gian phải xử lý;

Không thu gom, lưu giữ và xử lý chất thải nguy hại theo quy định đối với hoạt động thăm dò, khai thác tài nguyên biển, phá dỡ phương tiện vận tải trên biển. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về bảo vệ môi trường biển.

  • Phạt tiền từ 150.000.000 đồng đến 250.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây, trừ các trường hợp hành vi tội phạm về môi trường:

Đổ xuống biển chất thải thông thường của các phương tiện vận tải, các giàn khoan hoạt động trên biển mà không được xử lý theo quy định hoặc chất thải không được xử lý đạt quy chuẩn kỹ thuật về chất thải;

Đổ chất thải rắn từ đất liền xuống biển mà không có văn bản chấp thuận của cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường theo quy định;

Đổ chất thải từ hoạt động nạo vét luồng, lạch xuống biển mà không có văn bản chấp thuận của cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường theo quy định.

  • Phạt tiền từ 250.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng đối với hành vi đổ các loại hóa chất độc hại, chất thải rắn; nước thải không xử lý đạt quy chuẩn kỹ thuật xuống vùng biển thuộc khu bảo tồn thiên nhiên, di sản tự nhiên, vùng có hệ sinh thái tự nhiên mới, khu vực sinh sản thường xuyên hoặc theo mùa của các loài thủy, hải sản, trừ các trường hợp hành vi tội phạm về môi trường.
  • Phạt tiền từ 500.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng đối với hành vi đổ chất thải nguy hại, chất thải có chứa chất phóng xạ xuống vùng biển nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trừ các trường hợp hành vi tội phạm về môi trường.

Ngoài phạt tiền, cá nhân, tổ chức vi phạm có thể phải chịu hình thức xử phạt bổ sung đó là tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính đối với trường hợp vi phạm quy định tại các khoản 4, 5 và 6 Điều 27 Nghị định 155/2016/NĐ-CP.

Bên cạnh đó, họ phải áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả như: “buộc chi trả kinh phí trưng cầu giám định, kiểm định, đo đạc và phân tích mẫu môi trường trong trường hợp có vi phạm về xả chất thải vượt quy chuẩn kỹ thuật môi trường hoặc gây ô nhiễm môi trường theo định mức, đơn giá hiện hành” hoặc “phải thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường và báo cáo kết quả đã khắc phục xong hậu quả vi phạm trong thời hạn do người có thẩm quyền xử phạt ấn định trong quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với các hành vi vi phạm”.

Bên cạnh đó, Điều 33 của Nghị định 155/2016/NĐ-CP cũng nêu rõ số tiền khi vi phạm trong hoạt động ứng phó sự cố tràn dầu.

  • Không thực hiện việc thông báo thông tin cho cơ quan có thẩm quyền sẽ bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về bảo vệ môi trường biển.
  • Vi phạm trong việc xây dựng nguồn lực để chuẩn bị ứng phó sự cố tràn dầu bị phạt tiền từ 000.000 đồng đến 30.000.000 đồng.
  • Bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng khi không thực hiện công tác báo cáo trong ứng phó và khắc phục sự cố tràn dầu.
  • Hành vi vi phạm liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ xăng, dầu có nguy cơ xảy ra sự cố tràn dầu ở mức nhỏ trên đất liền bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 60.000.000 đồng.
  • Bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 60.000.000 đồng khi có hành vi vi phạm liên quan đến hoạt động của chủ đầu tư cảng, chủ cơ sở, chủ dự án có nguy cơ xảy ra sự cố tràn dầu.
  • Hành vi vi phạm liên quan đến hoạt động dầu khí ngoài khơi có nguy cơ xảy ra sự cố tràn dầu bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 70.000.000 đồng.
  • Vi phạm liên quan đến hoạt động của tàu dầu có nguy cơ xảy ra sự cố tràn dầu, mức tiền phạt là từ 25.000.000 đồng đến 65.000.000 đồng.
  • Gây ra sự cố cháy nổ dầu, tràn dầu, trừ các hành vi tội phạm về môi trường thì phạt tiền từ 40.000.000 đồng đến 950.000.000 đồng tùy theo khối lượng số kilogam (kg) dầu bị tràn.
  • Không khắc phục hậu quả sự cố cháy nổ dầu, tràn dầu; không thực hiện bồi thường thiệt hại do ô nhiễm dầu gây ra sẽ bị phạt từ 50.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng cũng tùy theo khối lượng số kilogam (kg) dầu bị tràn.

Bên cạnh xử phạt hành chính thì còn áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả.

  • Buộc chi trả kinh phí trưng cầu giám định, kiểm định, đo đạc và phân tích mẫu môi trường trong trường hợp có vi phạm để xảy ra tràn dầu hoặc gây ô nhiễm môi trường theo định mức, đơn giá hiện hành đối với các vi phạm.
  • Buộc phải thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường và báo cáo kết quả đã khắc phục xong hậu quả vi phạm, buộc phải bồi thường thiệt hại do ô nhiễm dầu gây ra theo quy định trong thời hạn do người có thẩm quyền xử phạt ấn định trong quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với các vi phạm quy định tại khoản 8 và khoản 9.

Mức phạt đối với hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường biển đã được điều chỉnh so với quy định của Nghị định số 179/2013/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 14 tháng 11 năm 2013 về xử phạt hành chính trong lĩnh vực môi trường. Mức xử phạt cao hơn sẽ làm tăng tính răn đe, có thể hạn chế được các hành vi vi phạm.

Nhìn chung, mức phạt cho từng hành vi vi phạm đã được các nhà làm luật đề cập chi tiết, giúp cho việc xử phạt hành chính được tiến hành thuận lợi hơn trong việc xác định hành vi nào tương ứng với từng mức tiền phạt, hình thức phạt.

2.2.6.2. Trách nhiệm dân sự. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về bảo vệ môi trường biển.

Trách nhiệm dân sự được áp dụng chủ yếu đối với hành vi gây ô nhiễm môi trường biển đó là bồi thường thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường biển được xác định là một trường hợp cụ thể của trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng, là hình thức trách nhiệm dân sự nhằm buộc bên có hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường biển có trách nhiệm khắc phục hậu quả, bù đắp, đền bù tổn thất về vật chất của các cá nhân, tổ chức bị thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật của mình gây ra. [11, tr.60]

Điều 602 Bộ luật Dân sự năm 2015 về Bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường: “Chủ thể làm ô nhiễm môi trường mà gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật, kể cả trường hợp chủ thể đó không có lỗi”. Theo quy định trên, cá nhân, tổ chức có hành vi làm ô nhiễm môi trường mà gây thiệt hại, ngoài việc phải chịu trách nhiệm theo quy định của luật chuyên ngành thì phải bồi thường cho người bị thiệt hại, kể cả chủ thể đó không có lỗi.

Chủ thể phải bồi thường thiệt hại đó là “Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân gây ô nhiễm, sự cố và suy thoái môi trường” (Khoản 8 Điều 4 Luật Bảo vệ môi trường năm 2014).

Thiệt hại phải bồi thường bao gồm: sự suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường biển và thiệt hại về tính mạng, sức khỏe của con người, tài sản và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân (Điều 163 Luật Bảo vệ môi trường năm 2014).

Trong một số điều ước quốc tế về môi trường có liên quan đến nội dung này, thiệt hại về môi trường được xác định bao gồm: i) Động vật, thực vật, đất, nước và các yếu tố khí hậu; ii) Tài sản vật chất (kể cả di sản khảo cổ và văn hóa); iii) Cảnh quan; iv) Mối quan hệ tương hỗ giữa các yếu tố trên. Tại Nhật Bản, thiệt hại về môi trường nói chung được phân chia thành nhiều loại, như thiệt hại đối với sức khỏe và tính mạng của con người; thiệt hại về tài sản; thiệt hại đối với các nguồn tài nguyên thiên nhiên và hệ sinh thái; thiệt hại do mất hoặc giảm giá trị cảnh quan. Đặc biệt, tại Australia, ngoài những thiệt hại kể trên, các lợi ích về văn hóa, lợi ích về tình cảm, trí tuệ, lợi ích thẩm mỹ, giải trí (gọi chung là lợi ích phi vật chất) cũng được coi là một loại thiệt hại do ô nhiễm môi trường gây ra. [31, tr.61] Khóa luận: Thực trạng pháp luật về bảo vệ môi trường biển.

Theo pháp luật Việt Nam, thiệt hại do sự suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường biển sẽ được giám định để có căn cứ trong việc đòi bồi thường. Sự suy giảm được chia thành ba mức độ là: có suy giảm, suy giảm nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng. Chi phí mà chủ thể vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường biển được xác định theo chi phí trước mắt và lâu dài do môi trường biển bị suy thoái; chi phí để cải tạo, phục hồi môi trường biển; chi phí để giảm thiều nguồn gây ô nhiễm và dựa trên sự thăm dò các đối tượng có liên quan.

Để thiệt hại được xác định để bồi thường sao cho hợp lý nhất, ngoài quy định tại Điều 164 Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 còn có Nghị định số 03/2015/NĐ-CP của Chính phủ ngày 06 tháng 01 năm 2015 quy định về xác định thiệt hại đối với môi trường được ban hành. Những nội dung liên quan đến dữ liệu, chứng cứ để xác định thiệt hại đối với môi trường (hình thức, thời điểm thu thập; trình tự, thủ tục thu thập và thẩm định; trách nhiệm cung cấp dữ liệu, chứng cứ); tính toán thiệt hại đối với môi trường (được tiến hành theo nguyên tắc nào; công thức tính) cũng như các tổ chức, cá nhân nào có trách nhiệm bồi thường đều được cụ thể hóa rõ ràng trong Nghị định. Do vậy, việc xử lý các hành vi vi phạm và giải quyết bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường biển được thực hiện hiệu quả hơn.

2.2.6.3. Trách nhiệm hình sự. 

Bên cạnh việc xử phạt hành chính, áp dụng trách nhiệm dân sự đối với người có hành vi vi phạm môi trường biển thì trách nhiệm hình sự cũng là một trong những chế tài quan trọng. Bộ Luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy định một chương riêng về các biện pháp cưỡng chế hình sự đối với các hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường ở Chương 17- Chương các tội phạm về môi trường. Tội liên quan đến môi trường biển đó là: Tội vi phạm quy định về phòng ngừa sự cố môi trường (Điều 182b).

Hình phạt tù có thời hạn cao nhất là mười năm đối với Tội vi phạm quy định về phòng ngừa sự cố môi trường. Mức phạt tiền có thể lên đến năm trăm triệu đồng. (Điều 182b Bộ Luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009).

Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy định tội phạm về môi trường biển là cấu thành tội phạm vật chất, nghĩa là hành vi phạm tội đòi hỏi phải có hậu quả xảy ra. Điều này khiến nảy sinh một số vướng mắc trong áp dụng bởi: Hành vi được thực hiện nhưng hậu quả xảy ra ở thời gian sau đó rất xa khiến thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi đó không còn; việc chứng minh mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và hậu quả xảy ra là vấn đề hết sức phức tạp, đòi hỏi phải áp dụng kỹ thuật cao, không phải địa phương nào cũng có khả năng thực hiện. Có thể nói, việc các tội phạm gây thiệt hại cho môi trường biển trong Bộ luật Hình sự năm hiện hành đều là cấu thành tội phạm vật chất với dấu hiệu hậu quả chung chung, không có căn cứ rõ ràng để xác định. Trong điều kiện ấy, Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 ra đời càng khiến các cơ quan tiến hành tố tụng thà bỏ lọt tội phạm để tránh rắc rối. Điều này làm cho quy định về tội phạm môi trường trong Bộ luật Hình sự không được áp dụng hiệu quả trên thực tế. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về bảo vệ môi trường biển.

Bộ luật Hình sự năm 2015 đã có sự thay đổi đáng kể trong các quy định về tội phạm môi trường nói chung. So với Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), Bộ luật Hình sự năm 2015 có những điểm sửa đổi, bổ sung cơ bản sau đây: sửa đổi cấu thành các tội phạm về môi trường; mở rộng phạm vi áp dụng, nâng mức phạt tiền và quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân đối với một số loại tội phạm về môi trường.

Đối với các tội phạm quy định cấu thành hình thức (tức là việc xử lý về hình sự sẽ căn cứ vào hành vi phạm tội, mà không căn cứ hậu quả của hành vi) thì việc quy định mức độ nghiêm trọng của hành vi để xử lý được quy định dựa trên cơ sở tham khảo quy định của các văn bản về xử lý vi phạm hành chính, đồng thời căn cứ vào tính hợp lý, khả thi của quy định. Ngoài ra, các trường hợp vi phạm gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì bị xử lý với mức phạt tiền rất cao, các cá nhân vi phạm có thể bị phạt tiền đến 3 tỷ đồng hoặc phạt tù đến 07 năm.

Ngoài ra, do tính chất nghiêm trọng của các tội phạm môi trường và xét mục đích chủ yếu của các hành vi phạm tội là nhằm vào lợi ích kinh tế nên phạm vi áp dụng của hình phạt tiền được mở rộng, mức phạt tiền được nâng lên đảm bảo tính răn đe, trừng trị đối với người thực hiện hành vi vi phạm.

Không chỉ vậy, lần đầu tiên, trách nhiệm hình sự đối với các pháp nhân thương mại đã được quy định vào trong Bộ luật Hình sự năm 2015. Việc bổ sung trách nhiệm hình sự của pháp nhân xuất phát từ thực tế trong thời gian vừa qua, có nhiều doanh nghiệp đã gây ô nhiễm môi trường đặc biệt nghiêm trọng nhưng do pháp luật hình sự chưa quy định vấn đề này nên việc xử lý trách nhiệm của các pháp nhân này gặp nhiều khó khăn và thiếu hiệu quả. Trong khi đó, các chế tài hành chính với mức xử phạt tiền cao nhất đến 2 tỷ đồng đối với các pháp nhân không đảm bảo tính răn đe và không tương xứng với tính chất nghiêm trọng của các hành vi vi phạm. Bộ luật Hình sự năm 2015 đã bổ sung trách nhiệm hình sự của pháp nhân đối với đa số các tội phạm về môi trường biển, cụ thể là đối với Tội gây ô nhiễm môi trường (Điều 235); Tội vi phạm quy định về phòng ngừa, ứng phó, khắc phục sự cố môi trường (Điều 237); Tội huỷ hoại nguồn lợi thuỷ sản (Điều 242). [38, tr.61] Khóa luận: Thực trạng pháp luật về bảo vệ môi trường biển.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ: 

===>>> Khóa luận: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ môi trường biển

One thought on “Khóa luận: Thực trạng pháp luật về bảo vệ môi trường biển

  1. Pingback: Khóa luận: Pháp luật về bảo vệ môi trường biển ở Việt Nam

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Contact Me on Zalo
0906865464