Luận văn: Thực tiễn về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Thực tiễn về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm hay nhất năm 2025 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thạc sĩ thì với đề tài Luận văn: Thực tiễn thực hiện và kiến nghị nâng cao hiệu quả bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm khoa học tại các trường đại học dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.

2.1. Thực tiễn thực hiện pháp luật Việt Nam về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm khoa học tại các trường đại học.

Các quy định về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nói chung và quyền tác giả nói riêng đã được xây dựng và hình thành một hệ thống cơ bản với các văn bản Luật và dưới Luật. Tuy nhiên, thực tế để thi hành và triển khai những quy đinh trên đúng với khuôn khổ pháp luật thì cần từ nhiều phía đó là ý thức và sự tôn trọng việc bảo hộ QTG của cộng đồng và chế tài nghiêm ngặt cũng như sự quản lý chặt chẽ của cơ quan quản lý. Các hành vi xâm phạm QTG đối với TPKH tại các trường ĐH

2.1.1. Thực trạng xâm phạm quyền tác giả đối với tác phẩm khoa học tại các trường đại học tại Việt Nam

Bảo hộ QTG là một phần quan trọng của luật SHTT, nhằm bảo vệ các tác giả và chủ sở hữu QTG của các TPKH trước các hành vi xâm phạm. Sinh viên các trường ĐH cần hiểu rõ vấn đề này để tránh vi phạm bản quyền khi sử dụng tài liệu trực tuyến hoặc chia sẻ nội dung của người khác mà không có sự cho phép của chủ sở hữu. Nhận thức đúng đắn về QTG còn giúp sinh viên tôn trọng và bảo vệ QTG của người khác.

Nghiên cứu khảo sát trong số 233 sinh viên theo học nhóm ngành Kinh tế – Xã hội tại trường ĐH Ngoại thương và ĐH Kinh tế Quốc Dân trong công trình NCKH với đề tài “QTG trong hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên ngành Kinh Tế – Xã hội” thì trong 233 sinh viên thì có tới 72,2% (tương ứng 161 SV) các sinh viên sử dụng giáo trình photocopy được mua tại các cửa hàng quanh nhà trường, 10,67% (tương ứng 24 sinh viên) là các sinh viên sử dụng giáo trình mượn ở thư viện của nhà trường và chỉ có 3,14% ( tương ứng 7 sinh viên) mua sách đúng giá tại hiệu sách, số còn lại là 13,9% (tương ứng 31 sinh viên) có sử dụng các nguồn tài liệu khác. Kết quả khảo sát trong nghiên cứu cho thấy rằng, nhận thức của sinh viên về vấn đề bảo vệ QTG của sinh viên là rất thấp, chiếm tới 72,2% các sinh viên sử dụng giáo trình là được photocopy.

Thực hiện tiến hành sát 100 sinh viên của trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn thuộc ĐH Quốc gia Hà Nội của Nguyễn Chí Trung, học viên của trường trong nghiên cứu về “Nhận thức của sinh viên về vấn đề bản quyền tiếp cận từ góc độ tài nguyên giáo dục mở”. Kết quả của khảo sát cho thấy rằng, trong 100 sinh viên của trường được hỏi về các cách thức để có được tài liệu thì có đến 58% SV lựa chọn hình thức sử dụng các bản photocopy, sao chép “lậu” từ nguồn tài liệu gốc, có 25% sinh viên thì tự đi mua tài liệu tại các nhà sách và có 15% sinh viên đi đến thư viện của nhà trường để đăng ký mượn tài liệu. Chí có một số ít sinh viên còn lại là sử dụng hình thức khác chiếm có 2% sinh viên trong tổng số sinh viên trong nghiên cứu. Cũng trong nghiên cứu này, trong 100 sinh viên này về vấn đề trích dẫn nguồn trong nghiên cứu khoa học của sinh viên cho kết quả: sinh viên thường sao chép, copy bài của các tác giả mà không có trích dẫn nguồn sao chép hoặc trích dẫn các bài viết không biết nguồn và tác giả trên mạng Internet chiếm đến 46% tổng số SV trong nghiên cứu, đặc biệt thì có 10% SV thì không bao giời trích dẫn nguồn tài liệu khi làm các NCKH và số SV còn lại là 44% các em có thực hiện trích dẫn nguồn tài liệu, tác giả.

Hay trong nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thái Ngọc Hà về “Nhận thức của sinh viên khoa sư phạm trường ĐH An Giang về QTG trong nghiên cứu khoa học” thì kết quả khảo sát 320 sinh viên cho thấy sinh viên thường không ghi nguồn đối với đoạn văn được diễn giải lại chiếm 47,7% và hình ảnh chiếm 41,7%, sinh viên không ghi nguồn khi trích nguyên văn tác phẩm của người khác chiếm 15,3%.

Trong nghiên cứu khoa học hoặc viết báo cáo kết quả tốt nghiệp, luận văn tốt nghiệp của sinh viên thì việc thừa kế từ kết quả nghiên cứu có được từ tác giả các khoá trước làm căn cứ dẫn nhập cho luận điểm của là rất cần thiết. Tuy nhiên, như phân tích ở trên phần nào đã phản ánh tình trạng vi phạm QTG vẫn đang phổ biến của sinh viên tại một số trường ĐH. Do đó, cần nâng cao nhận thức và kỹ năng của sinh viên về thực hiện QTG khi trong nghiên cứu cũng như học tập.

2.1.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật Việt Nam về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm khoa học tại các trường đại học Luận văn: Thực tiễn về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm.

Trường ĐH là trung tâm của tri thức tạo ra nhiều kết quả, sản phẩm khoa học có tính ứng dụng thực tiễn cao từ hoạt động đào tạo và NCKH. Khi cuộc cách mạng công nghệ thông tin ngày càng phát triển mạnh mẽ, nền kinh tế dịch vụ ngày càng phát triển thì sáng tạo của con người là không có giới hạn. Để giá trị tài sản này được trường tồn thì việc bảo vệ QTG là rất quan trọng. Đặc biệt, trong bối cảnh hội nhập toàn cầu thì vấn đề này càng trở thành mối quan tâm hàng đầu. Với các thiết bị sao chép, lưu trữ và công nghệ truyền dẫn, mạng internet phát triển thì việc xâm phạm QTG ngày càng khó kiểm soát. Điều này gây ra tâm lý không muốn NCKH, mất động lực nghiên cứu của tác giả. Về mặt pháp lý, nhằm thực hiện tốt vấn đề bảo hộ QTG nhà nước đã ban hành nhiều luật, văn bản dưới luật điều chỉnh trong lĩnh vực QTG như Luật SHTT năm 2005, được sửa đổi bổ sung năm sửa đổi bổ sung qua các năm 2009, năm 2019 và gần nhất là năm 2022; Luật Giáo dục ĐH có quy định “Cơ sở giáo dục ĐH phải thực hiện các quy định về SHTT và bản quyền trong sử dụng giáo trình và công bố công trình nghiên cứu khoa học”; Quyết định số 78/2008/QĐ- BGDĐT ngày 29/12/2008 vv ban hành “ Quy định về quản lý hoạt động SHTT trong các cơ sở giáo dục ĐH”. Bảo vệ QTG đối với tác phẩm nghiên cứu khoa học ngoài những quy định của luật pháp thì một phần trách nhiệm cũng thuộc về đơn vị trực tiếp quản lý là các trường ĐH.

  • Các quy chế bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm khoa học tại các trường Đại học

Tại mỗi trường ĐH việc bảo vệ QTG đối với tác phẩm trong hoạt động NCKH được quy định bằng những quyết định hành chính được áp dụng trong phạm vi nhà trường. Các trường ĐH hiện nay rất tích cực trong việc bảo hộ QTG đổi với các tác phẩm trong hoạt động NCKH, chủ yếu tập trung chính tại việc ngăn chặn việc sao chép, sao chụp và photocopy… các tài liệu nghiên cứu khoa học dưới nhiều hình thức khác nhau. Hiện nay, đa số các trường ĐH đều đã ban hành các quy chế có nội dung liên quan đến bảo hộ QTG trong hoạt động NCKH như: Trường ĐH Luật TP. HCM ban hành Quyết định số 250/QĐ-ĐHL ngày 03/03/2015 của Trường ĐH Luật TP.HCM quy định Về trích dẫn và chống đạo văn; Trường ĐH Nông Lâm TP.HCM ban hành quyết định số 5191/QĐ-NCKH-ĐHNL ngày 30/12/2022 về việc ban hành quy định đạo đức trong hoạt động KHCN ở Trường ĐH Nông Lâm TP.HCM; Trường ĐH Tài chính – Marketing ban hành quyết định 857/QĐ-ĐHTCM vv ban hành Quy định về trích dẫn và chống đạo văn của Trường ĐH Tài chính- Marketing…. Mặc dù các trường ĐH đã ban hành rất nhiều loại quy chế nhằm bảo hộ QTG đối với TPKH. Tuy nhiên, quy chế của các trường có sự khác nhau tạo nên tình trạng không đồng nhất. Ví dụ, về mức độ vượt quá sự trùng lặp cho một sản phẩm khoa học thì tỷ lệ tối đa mỗi trường là khác nhau như quy chế trường ĐH Luật TP.HCM (khoản 3 Điều 5) quy định tác phẩm có dung lượng chiếm từ 50% nội dung tác phẩm trở lên thì bị xem là đạo văn, hay quy chế trường ĐH Kinh tế -Luật TP.HCM (khoản 5, Điều 5) quy định trích dẫn một hoặc nhiều tác phẩm của người khác để hình thành tác phẩm của mình trên 30% thì bị xem là đạo văn; Trường ĐH Nông Lâm TP.HCM ( Điều 6) “Các sản phẩm học thuật được xem là có lỗi đạo văn nếu vi phạm các quy định tại … hoặc theo kết quả kiểm tra của phần mềm kiểm tra đạo văn DoIT, nếu có ít nhất 01 đoạn văn có nhiều hơn 100 từ trùng với đoạn văn trong sản phẩm học thuật khác; hoặc có từ 30% nội dung văn bản giống với nguồn dữ liệu của tác giả khác hoặc chỉ thay đổi tên đề tài, từ ngữ, số liệu nhưng giữ nguyên cấu trúc và nội dung tương tự với sản phẩm học thuật khác”. Như vậy, mặc dù đa số các trường ĐH đều rất quan tâm đến vấn đề liêm chính trong học thuật nhưng cách tổ chức của mỗi trường là khác nhau, chưa có sự đồng bộ giữa các trường.

Thư viện, trung tâm lưu trữ của các trường ĐH hiện nay là nơi lưu trữ nguồn tài liệu là tác phẩm nghiên cứu khoa học chủ yếu. Các hoạt động nhằm bảo hộ QTG đối với các tác phẩm nghiên cứu khoa học được quy định theo quyết định của Giám đốc, đơn vị trưởng trung tâm thư viện, trung tâm lưu trữ, Hiệu trưởng hoặc Hội đồng nhà trường. Quyết định số 338/QĐ – TTTV ngày 15/2/2017 của GĐ TTTV trường ĐH Quốc gia Hà Nội đều có các quy định riêng cho việc bảo vệ QTG đối với các TPKH bằng các hình thức như: chỉ cho đọc tại chỗ, không được mượn về các tài liệu bao gồm: Luận án tiến sĩ, Luận văn và kết quả của các đề tài NCKH, sách lưu chiểu, báo, tạp chí KH, sách tra cứu…Sử dụng các thiết bị lưu trữ, sao chép thông tin từ máy tính đều phải được sự kiểm tra của cán bộ thư viện và phải được sự đồng ý của các cán bộ quản lý thư viện trường. Một thực tế hiện nay, hành vi vi phạm QTG trong các trường ĐH là các tiệm photocopy sách, tài liệu tham khảo, văn bản pháp luật, giáo trình, luận văn,… mà không có một cơ quan quản lý nào xử lý vi phạm này. Luận văn: Thực tiễn về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm.

  • Hoạt động giảng dạy, tuyên truyền phổ biến pháp luật về bảo hộ quyền tác giả trong các trường đại học

Bảo hộ QTG là một phần quan trọng của luật bản quyền nhằm bảo vệ các tác giả và chủ sở hữu QTG của tài liệu, nghệ thuật, phần mềm, vv. để các chủ thể có thể kiếm tiền từ sản phẩm đó và bảo vệ công trình NCKH của họ. Cán bộ giảng viên/ sinh viên các trường ĐH cần hiểu rõ vấn đề này để tránh vi phạm bản quyền khi sử dụng tài liệu trực tuyến hoặc chia sẻ nội dung của người khác mà không có sự cho phép của chủ sở hữu bản quyền. Nhận thức đúng đắn về bảo hộ QTG còn giúp cán bộ/giảng viên/sinh viên tôn trọng và bảo vệ QTG của người khác. Việc tuyên truyền và phổ biến các quy định pháp luật về quyền SHTT cần được thực hiện liên tục và thường xuyên nhằm hình thành ý thức tôn trọng quyền SHTT nói chung và QTG nói riêng, từ đó hạn chế và loại bỏ các hành vi xâm phạm QTG trong các trường ĐH.

Hình thức tuyên truyền phổ biến mà các trường ĐH thường thực hiện như:

Tổ chức Hội thảo/ Tọa đàm với các tham luận được trình bày từ báo cáo viên là chuyên gia.

  • Đưa các nội dung pháp luật QTG vào tuần sinh hoạt cộng dấn tổ chức vào đầu mỗi năm học như Giảng viên có thể tích hợp nội dung về bảo hộ QTG vào các bài giảng, giúp sinh viên hiểu rõ về quyền lợi và trách nhiệm khi sử dụng tác phẩm của người khác.
  • Tổ chức các khóa tập huấn ngắn hạn dành cho Giảng viên và Sinh viên.
  • Tuyên truyền thông qua phương tiện truyền thông của Trường như đăng các thông tin trên website của nhà trường, tạo video, podcast hoặc các tài liệu giáo trình để truyền đạt thông tin một cách hiệu quả trên các trang mạng xã hội của nhà trường. Luận văn: Thực tiễn về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm.

Thông qua các chương trình trên thì giảng viên, sinh viên có cơ hội được giao lưu, tiếp xúc với chuyên gia trong lĩnh vực SHTT từ đó được trang bị thêm những kiến thức, kỹ năng nghiên cứu phù hợp với chuẩn mực đạo đức và pháp luật về QTG. Tuy nhiên, các hoạt động trên chỉ là những chương trình ngắn hạn, do đó sẽ có rất nhiều sinh viên thuộc các khối ngành khác ngành Luật sẽ gặp khó khăn trong việc tiếp nhận thông tin và có ý thức về bảo hộ QTG.

  • Sử dụng phần mềm để kiểm tra mức độ trùng lặp về sao chép, trích dẫn tác phẩm của người khác

Để đảm bảo tính liêm chính trong hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học, nhiều trường ĐH đã áp dụng phần mềm để kiểm tra mức độ trùng lắp về sao chép, trích dẫn tác phẩm của người khác. Đây là các công cụ giúp phát hiện sự trùng lặp nội dung văn bản. Các luận án tốt nghiệp ĐH, thạc sĩ, tiến sĩ, bài báo khoa học, công trình khoa học đều phải đưa vào phần mềm để quét. Nếu phát hiện mức độ tương đồng cao hơn mức cho phép (tùy quy định của mỗi trường ĐH) thì sản phẩm đó sẽ trả lại cho người nộp để làm lại.

Hiện nay, trên thị trường có nhiều phần mềm để kiểm tra đạo văn như phần mềm Turnitin – đây là phần mềm được sử dụng rộng rãi trong các cơ sở giáo dục và nghiên cứu toàn thế giới hay DoIT được xây dựng bởi Trường ĐH Công nghệ – ĐH Quốc gia Hà Nội và cũng được sử dụng rộng rãi. Ngoài ra, còn có những ứng dụng khác như Grammarly; Plagium; Plagiarism Checker X; Small SEO Tool; CopyScape;….Khi phần mềm kiểm tra và phát hiện vi phạm thì đề tài có thể bị tạm dừng bảo vệ hay nghiệm thu cho đến khi tác giả chỉnh sửa theo đúng yêu cầu của Quy chế. Tuy nhiên, qua nghiên cứu thực tế bản thân tác giả thấy phần mềm không phải là giải pháp tối ưu trong việc phát hiện vi phạm tác phẩm của người khác bởi phần mềm chỉ sử dụng các chuỗi thuật toán để phát hiện các cụm từ trong bài trùng lặp với các công trình đã được công bố trước đó trên các nguồn khác nhau, ví dụ, những TPKH viết về các chủ đề thông dụng, nhiều trùng lặp ngẫu nhiên thì phần mềm sẽ đánh giá bài có tỷ lệ trùng lặp cao mặc dù tác phẩm đó được chính tác giả tự viết. Vì vậy, cần phải phối hợp nhiều giải pháp khác để có thể đưa ra kết luận về vi phạm.

2.2. Nhận xét tình hình bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm khoa học tại các trường đại học Luận văn: Thực tiễn về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm.

2.2.1. Những thuận lợi trong bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm khoa học

  • Thứ nhất, Về các thủ tục đăng ký Quyền SHTT đã có nhiều cải thiện giúp các nhà khoa học dễ dàng đăng ký QTG.

Luật SHTT sửa đổi bổ sung năm 2022 đã có nhiều cải thiện đáng kể. Cụ thể, đã cải thiện được thủ tục đăng ký trực tuyến như: Thành lập cơ quan đăng ký trực tuyến riêng: Luật sở hữu trí tuệ mới cho phép thành lập cơ quan đăng ký trực tuyến độc lập để tiếp nhận và giải quyết đơn đăng ký SHTT trực tuyến. Điều này giúp tăng cường tính minh bạch và hiệu quả trong việc giải quyết đơn đăng ký và cung cấp cho người đăng ký một trải nghiệm đăng ký trực tuyến nhanh chóng hơn. Thúc đẩy đăng ký đa quốc gia: Luật sở hữu trí tuệ mới cũng thúc đẩy việc đăng ký SHTT đa quốc gia bằng cách cung cấp một quy định cho phép người đăng ký đăng ký bảo hộ SHTT của họ ở nước ngoài thông qua một hệ thống đăng ký duy nhất. Điều này giúp giảm thiểu thủ tục giấy tờ và tăng tính hiệu quả trong quản lý sở hữu trí tuệ. Tăng cường bảo vệ người sử dụng: Luật SHTT mới cũng bổ sung một số quy định để tăng cường bảo vệ người sử dụng bằng cách yêu cầu đối tác cung cấp thông tin đầy đủ và chính xác về quyền SHTT của họ. Điều này giúp đảm bảo rằng người sử dụng không vi phạm quyền SHTT của người khác và đảm bảo công bằng trong kinh doanh.

  • Thứ hai, Các trường ĐH ngày càng quan tâm đến vấn đề bảo hộ QTG đối với các TPKH.

Đa số cơ sở giáo dục ĐH ở Việt Nam hiện nay đã có quy định, quy chế riêng để thực thi pháp luật về QTG trong phạm vi nhà trường như quy chế trích dẫn, quy chế kiểm soát đạo văn, các hình thức xử lý vi phạm,… đã tạo ra khung pháp lý hoạt động nghiên cứu khoa học đối với giảng viên và sinh viên. Quy chế tuy không phải là pháp luật nhưng được đảm bảo thực hiện và có hiệu lực thực hiện trong phạm vi nhà trường. Qua đó, xây dựng môi trường học thuật nghiêm túc cũng như tôn trọng sản phẩm sáng tạo của người khác.

Bên cạnh đó, một số trường ĐH đã có đội ngũ nhân sự và bộ phận chuyên trách tư vấn, theo dõi, quản lý, kiểm tra việc thực thi pháp luật về QTG như trường ĐH Khoa học Tự nhiên TP.HCM, Trường ĐH Khoa học Xã hội và nhân văn có “Phòng thanh tra, pháp chế và SHTT”. Qua đó, góp phần ngăn ngừa và có những hướng dẫn cụ thể để thi hành pháp luật về QTG trong môi trường giáo dục ĐH; đồng thời làm cơ sở để xử lý khi có phát sinh vi phạm.

Các trường ĐH áp dụng các phần mềm chống đạo văn, bảo vệ tốt QTG. Việc này giúp đảm bảo phát hiện các hành vi gian lận trong hoạt động nghiên cứu. Từ đó giúp nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật về QTG cho những người thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học.

2.2.2. Những khó khăn trong bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm khoa học Luận văn: Thực tiễn về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm.

Bên cạnh một số ưu điểm đã thực hiện được, bảo hộ QTG đối với các TPKH còn một số hạn chế như sau:

  • Thứ nhất, quy định pháp luật về QTG ở Việt Nam chưa đủ sức ngăn chặn tình trạng xâm phạm QTG ngày xảy ra nhiều với những diễn biến phức tạp.

Như phân tích ở chương 1 về các biện pháp bảo hộ QTG thì có nhiều chế tài xử lý hành vi vi phạm QTG từ hành chính, dân sự hay hình sự nhưng vẫn thiếu sự cương quyết và tính răn đe. Bởi trong môi trường giáo dục ĐH hiện nay chưa thấy có trường hợp nào bị xử lý hình sự mà chủ yếu là hình thức kỷ luật. Khi các trường phát hiện các trường hợp sai phạm thường sẽ ưu tiên xử lý nội bộ hơn là mang ra các cơ quan hành chính có thẩm quyền.

  • Thứ hai, Pháp luật Việt Nam chưa giải quyết được tình trạng xâm phạm QTG bởi trí tuệ nhân tạo.

Đây là một vấn đề hiện hữu diễn ra ngày càng phổ biến ở tất cả các lĩnh vực nói chung và trong môi trường giáo dục ĐH nói riêng. Bởi thực tế, nhiều sinh viên đã sử dụng Chat GPT như một công cụ hỗ trợ để làm bài tập hoặc viết tiểu luận hay thậm chí là trong đề tài nghiên cứu khoa học trong thời gian qua, nếu trí tuệ nhân tạo tự động xâm phạm QTG trong khi hoạt động như thu thập tác phẩm có QTG và công bố rộng rãi không có căn cứ thì đó hoàn toàn là hành vi xâm phạm. Điển hình tại trường ĐH Ngoại ngữ – Tin học TP.HCM, một sinh viên của trường cho biết bài tiểu luận môn viết của mình bị giảng viên trừ 50% số điểm với lý do bài làm sử dụng ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) để viết bài. Đồng thời hành vi sửa chữa cắt xén tác phẩm có thể xảy ra do người dùng yêu cầu Chat GPT thực hiện hoặc do bản thân Chat GPT lưu trữ tác phẩm trong bộ nhớ hoặc tái tạo các yếu tố sáng tạo. Mặc khác, các hành vi xâm phạm được liệt kê tại Điều 28 Luật SHTT chỉ giới hạn trong chủ thể thực hiện hành vi là con người không bao gồm máy móc. Ngoài ra, việc xử lý các hành vi vi phạm gồm các biện pháp dân sự, hình sự, hành chính mà Luật quy định cũng chỉ dùng để xử lý xâm phạm quyền SHTT chỉ dựa trên chủ thể của hành vi là tổ chức, cá nhân mà không đề cập đến trí tuệ nhân tạo. Như vậy, Pháp luật Việt Nam cần phải hoàn thiện các quy định kịp thời nhằm bảo hộ QTG đối với tác phẩm bị xâm phạm bởi trí tuệ nhân tạo. Luận văn: Thực tiễn về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm.

  • Thứ ba, Quy chế bảo hộ QTG trong môi trường giáo dục ĐH còn nhiều bất cập.

Các Trường ĐH ban hành nhiều quy chế chống đạo văn và hướng dẫn trích dẫn trong hoạt động học tập và nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên, đa số các trường ĐH đều đào tạo đa ngành nghề, mỗi ngành có một đặc trưng riêng do đó khi áp dụng quy chế cho toàn trường thì không phù hợp. Bên cạnh đó, một số trường soạn quy chế chưa có sự am hiểu sâu về Luật SHTT nên các quy chế chưa phù hợp với quy định của pháp luật. Do vậy, người soạn quy chế cần phải có am hiểu sâu pháp luật QTG. Vì vậy, cần phải có những giải pháp mang tính hệ thống chung trong các cơ sở giáo dục ĐH để kịp thời chấn chỉnh cũng như hoàn thiện về quy chế bảo hộ QTG phù hợp với sự phát triển trong giáo dục ĐH hiện nay

  • Thứ tư, Thiếu sự hiểu biết về QTG, chủ sở hữu QTG

Một số người không hiểu được QTG của tác phẩm NCKH. Do đó, họ tự ý sử dụng hoặc sao chép mà không xin phép từ tác giả. Tại các trường ĐH có nhiều người chưa hiểu rõ về tầm quan trọng của việc bảo vệ QTG, dẫn đến việc thiếu sự chú ý vào việc áp dụng các quy định liên quan. Nguyên nhân của tình trạng này có thể xuất phát từ việc chưa hiệu quả trong việc nâng cao ý thức pháp luật về QTG trong các trường ĐH. Hiện nay, chưa thấy quy định nào ràng buộc giảng viên phải được tập huấn về kỹ năng nghiên cứu cũng như về pháp luật QTG, do vậy nhiều sinh viên hay thậm chí giảng viên chưa nhận thức được đầy đủ ý nghĩa, vai trò của liêm chính trong hoạt động nghiên cứu khoa học.

2.2.3. Nguyên nhân

Nguyên nhân dẫn đến tình trạng xâm phạm QTG của sinh viên trong hoạt động nghiên cứu khoa học được bắt nguồn từ nhiều yếu tố khác nhau như:

Một là, sự phát triển của internet và trí tuệ nhân tạo đã giúp cho việc tiếp cận các nguồn tài liệu được dễ dàng hơn. Chính từ việc có nguồn tài liệu trên mạng Internet đã làm cho sinh viên lười thu thập nguồn tài liệu khác để làm nghiên cứu KH, dùng trong học tập. Đối với nguồn tài liệu trên Internet thì phổ biến và đa dạng về nguồn cung cấp, SV có thể lấy được nhiều nguồn tài liệu khác nhau chỉ bằng những thao tác đơn giản. Đối với dịch vụ kinh doanh từ công nghệ Internet thì một bộ tài liệu có thế bán được cho nhiều sinh viên nên giá của các bộ tài liệu rất rẻ. Chỉ cần nạp tài khoản 30.000 VNĐ đến 100.000 VNĐ thì các sinh viên dễ dàng đăng nhập và tải được hàng trăm bộ tài liệu, trong đó có rất nhiều bộ tài liệu miễn phí. Tại các trang chuyên về tài liệu như tailieu.vn; luanvan.vn, 123docz.net….thì nguồn tài liệu có rất đầy đủ. Luận văn: Thực tiễn về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm.

Hai là, ý thức của SV thực hiện nghiên cứu khoa học chưa nghiêm túc, chưa có những sự đầu tư trong hoạt động nghiên cứu khoa học. Nhiều sinh viên chỉ coi việc nghiên cứu khoa học như là việc thực hiện “nhiệm vụ” chứ không vì mục đích khoa học. Từ đó, nhiều đề tài được sinh viên làm “nhái” các công trình khoa học trước đây mà vẫn được hội đồng nghiệm thu công trình nghiên cứu. Đặc biệt, đối với SV của các khối trường ĐH không chuyên ngành luật thì việc nhận thức hoặc đào tạo những kiến thức cơ bản về pháp luật, về QTG và quyền SHTT là không biết rõ hoặc rất kém. Do đó, việc sử dụng tài liệu, giáo trình là các sản phẩm photocopy hoặc sản phẩm in lậu đã được các sinh viên đón nhận và sử dụng một cách rất bình thường.

Ba là, sự quan tâm tới QTG, quyền SHTT cũng không được các trường ĐH quan tâm chặt chẽ, việc sinh viên thực hiện nghiên cứu khoa học thì nhà trường đã buông lỏng khâu kiểm soát này. Từ đó dẫn đến tình trạng SV xâm phạm QTG trong hoạt động NCKH một cách tuỳ tiện. Không những vậy, chính các giảng viên, người quản lý trong các trường ĐH còn giúp SV tiếp cận được các nguồn tài liệu cũng đã vi phạm QTG. Vì thành tích trong giảng dạy, vì nhiệm vụ được phân công, nhiều giảng viên đã cung cấp các tài liệu cho sv, học viên thực hiện làm nghiên cứu khoa học cho đúng thời gian quy định để sinh viên, học viên có bằng cấp theo đúng quy định của nhà trường. Ngoài ra, công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về quyền SHTT nói chung và QTG đối với TPKH nói riêng còn chưa được sâu rộng, chưa kịp thời, không thường xuyên và hiệu quả còn thấp.

Bốn là, nguyên nhân dẫn tới vi phạm chính là từ bản thân tác giả của tác công trình NCKH. Tác giả của nhiều NCKH thường không quan tâm hoặc không đăng ký bản quyền SHTT và cũng dễ dãi trong việc tác phẩm nghiên cứu khoa học của mình bị sao chép hoặc bị xâm phạm bản quyền bởi người vi phạm. Tuy nhiên việc kiện về bản quyền cũng bị chính tác giả bỏ qua bởi thủ tục khởi kiện rất rườm rà và tốn kém về thời gian và tài chính. Do đó, các tác giả thường bỏ qua hành vi vi phạm. Mặt khác, chính các tác giả cũng lấy nguồn tài liệu của đồng nghiệp hoặc bạn bè gửi cho các SV, học viên xem và làm nguồn tài liệu nghiên cứu KH.

Những nguyên nhân trên đây có thể góp phần giải thích tại sao việc vi phạm QTG vẫn diễn ra ở một số trường ĐH của Việt Nam. Tuy nhiên, việc phải giải quyết vấn đề này đòi hỏi sự hợp tác giữa các bên và các biện pháp quản lý hiệu quả hơn từ phía nhà trường, chính phủ và cả cộng đồng nghiên cứu.

2.3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm khoa học. Luận văn: Thực tiễn về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm.

Trong xu thế mới, với việc mạng thông tin công nghệ phát triển cùng với sự xuất hiện của công nghệ AI thì các trường ĐH cần quan tâm nhiều hơn trong công tác bảo hộ QTG, đây cần được xem là một trong những nhiệm vụ chiến lược của nhà trường. Qua nghiên cứu cho thấy, sở dĩ có những hạn chế, bất cập trong việc thực hiện các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về QTG đối với TPKH tại các trường ĐH là do pháp luật về QTG cũng chưa hoàn chỉnh, nhận thức của Giảng viên/Sinh viên ở một số trường còn hạn chế, việc tổ chức thực thi và xét xử, giải quyết khiếu nại và tố cáo để bảo vệ QTG chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn. Bảo hộ tốt QTG sẽ đảm bảo hài hoà lợi ích của các chủ thể trong hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học, do đó tác giả đưa ra một số định hướng hoàn thiện pháp luật về QTG đối với TPKH tại các trường ĐH như sau.

2.3.1. Tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật về quyền tác giả

Hiện nay còn nhiều quy định còn thiếu tính khả thi không phù hợp đối với thực tiễn tình hình phát triển kinh tế của đất nước trong thời kỳ đổi mới. Do đó, để thực hiện phát triển kinh tế của đất nước trong xu hướng hội nhập sâu rộng thì Việt Nam cần cụ thể hoá chính sách, thể chế và chính sách pháp luật nhằm đáp ứng những đòi hỏi của các quốc gia trên thế giới ký kết hợp tác đầu tư. Một trong những chính sách cải cách đó thì việc định hướng Luật SHTT đối với QTG của TPKH là hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay, theo đó:

Với sự phát triển bùng nổ của mạng internet việc sao chép tác phẩm trở nên dễ dàng hơn và trở nên khó kiểm soát. Vì vậy, hành vi vi phạm sao chép TPKH trở nên rất phổ biến tại Việt Nam. Theo điểm a khoản 1 Điều 25 Luật SHTT đã quy định trường hợp ngoại lệ “Tự sao chép một bản để nghiên cứu khoa học, học tập của cá nhân và không nhằm mục đích thương mại. Quy định này không áp dụng trong trường hợp sao chép bằng thiết bị sao chép” là phù hợp với thực tế. Tuy nhiên, làm thế nào để kiểm soát số lượng bản sao chép là “một bản” cũng như mục đích sao chép tác phẩm hiện nay là một việc khó khăn và không khả thi bởi điều này chủ yếu đến từ ý thức pháp luật của người thực hiện nghiên cứu, nhất là trong môi trường giáo dục ĐH. Tham khảo Công ước Berne và Luật bản quyền Hoa Kỳ chỉ quy định về ngoại lệ sao chép đều không thấy việc ấn định số lượng bản sao, vì vậy Pháp luật Việt Nam nên bỏ quy định giới hạn số lượng tác phẩm sao chép như hiện nay.

Ngoài ra, quy định tại điểm b khoản 1 Điều 25 Luật SHTT “Sao chép hợp lý một phần tác phẩm bằng thiết bị sao chép để nghiên cứu khoa học, học tập của cá nhân và không nhằm mục đích thương mại”. Hiện nay, tại Khoản 2 Điều 26 Nghị định số 17/2023/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Sở hữu trí tuệ, về QTG, quyền liên quan thay thế cho Nghị định số 22/2018/NĐ-CP đã có đưa ra một con số cụ thể “….. tối đa không quá 10% tổng số trang hoặc tổng đơn vị lưu trữ (bytes), tổng số từ của ấn bản, độ dài nội dung của ấn bản đối với tác phẩm được cung cấp dưới dạng ấn bản điện tử không chia trang”. Như vậy, pháp luật Việt Nam đã có những quy định chặt chẽ hơn về quyền sao chép tác phẩm đối với tác phẩm chữ viết nói chung và TPKH nói riêng. Tuy nhiên, việc sao chép với tỷ lệ 10% chưa mang tính thuyết phục bởi đối với TPKH sẽ có những nội dung quan trọng, trọng tâm của tác phẩm. Khi tác phẩm được sao chép với số lượng nhiều ở nội dung quan trọng có thể sẽ ảnh hưởng đến hoạt động thương mại của tác phẩm. Vì vậy, cần có những giới hạn về nội dung khi sao chép tác phẩm.

2.3.2. Ban hành văn bản hướng dẫn pháp luật riêng bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm nghiên cứu khoa học Luận văn: Thực tiễn về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm.

Ngoài việc vẫn thực hiện Luật sở hữu trí tuệ (được sửa đổi bổ sung năm 2022) thì cần sớm ban hành một văn bản hướng dẫn thi hành pháp luật riêng về bảo hộ QTG đối với tác phẩm nghiên cứu khoa học. Thực tế hiện nay các quy định về bảo hộ QTG nói chung và các quy định về bảo hộ QTG đối với TPKH trong các trường ĐH nói riêng được quy định chung trong Luật Sở hữu trí tuệ đã được sửa đổi năm 2022 một số nội dung về QTG. Tuy có sự sửa đổi bổ sung những thực trạng là rất khó áp dụng các quy định của pháp luật, đặc biệt là những quy định về QTG đối với tác phẩm là tác phẩm nghiên cứu khoa học. Hệ thống pháp luật về QTG có những quy định khác biệt về nguyên tắc, nội dung và cơ chế thực thi bảo hộ so với các đối tượng khác của quyền SHTT như quyền sở hữu công nghiệp, giống cây trồng.

Hiện nay, hệ thống văn bản pháp luật về QTG vẫn còn tương đối phức tạp, chưa có tính đồng bộ và thống nhất với các văn bản hướng dẫn thi hành. Chính vì vậy, nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế- xã hội, Việt Nam cần hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo hộ QTG đối với KHCN trong đó có các đề tài KHCN, đây là một nhu cầu tất yếu phải thực hiện bởi khi được bảo hộ trong môi trường pháp lý thuận lợi sẽ tạo động lực cho nghiên cứu, sáng tạo trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.

Việc quy định đan xen cùng với các quy định về bảo hộ QTG đối với tác phẩm trong hoạt động NCKH là khá “mờ nhạt”. Sự cần thiết ban hành các quy định riêng, độc lập về bảo hộ QTG đối với tác phẩm nghiên cứu khoa học là cần thiết. Đây không chỉ là yếu tố về hình thức và kỹ thuật mà còn phải được chứa đựng được những đặc thù, sự khác biệt trong việc bảo hộ QTG trong môi trường truyền thống và môi trường tác phẩm NCKH của các sinh viên, học viên, giảng viên…Giải pháp này cũng phù hợp với xu hướng chung trên thế giới trong lĩnh vực này. Giải pháp này cũng được xem và được nhận định là lâu dài bởi khi thực hiện bảo hộ QTG trong môi trường truyền thống tại Việt Nam hiện nay vẫn còn khá nhiều bất cập chẳng hạn như việc một sinh viên trường ĐH sử dụng 8 bộ tài liệu, giáo trình photocopy của một trường ĐH luật khi xử lý đã gây ra những quan điểm của các nhà nghiên cứu luật là khác nhau.

2.3.3. Hoàn thiện quy định trong trường hợp quyền tác giả bị trí tuệ nhân tạo xâm phạm

Hệ thống pháp luật nói chung và những quy định của pháp luật về QTG nói riêng về cơ bản có chức năng điều chỉnh các mối quan hệ xã hội đã phát sinh và đang tồn tại trong xã hội. Sự ra đời và phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin, trực tiếp là công nghệ Internet đã có những ảnh hưởng tới việc thực hiện pháp luật về QTG ở Việt Nam. Tiến tới đây, khi trí tuệ nhân tạo AI, chat GPT, …là những sản phẩm công nghệ mới thì việc thực hiện QTG còn khó khăn hơn nữa khi mà trí tuệ nhân tạo đang trong thời kỳ bắt đầu phát triển. Việc xâm phạm QTG bởi trí tuệ nhân tạo là vấn đề hiện hữu như tác giả đã phân tích ở mục 2.3.2, tuy nhiên pháp luật Việt Nam hiện vẫn chưa có điều khoản để giải quyết vấn đề này.

Trí tuệ nhân tạo hoạt động dựa trên dữ liệu đầu vào do con người cung cấp để tạo ra các tác phẩm. Trong trường hợp trí tuệ nhân tạo sao chép, xử lý dữ liệu để phục vụ cho quá trình học máy dựa trên dữ liệu đầu vào mà con người cung cấp để tạo ra các tác phẩm mới, nếu bản quyền tồn tại trên những dữ liệu đó thì sẽ có nguy cơ bị trí tuệ nhân tạo xâm phạm. Hành vi này của trí tuệ nhân tạo cũng tạo thuận lợi hơn cho người dùng xâm phạm QTG, bởi lẽ họ sẽ dễ dàng sao chép tiếp tục các dữ liệu có bản quyền đó phục vụ cho mục đích của mình. Việc trí tuệ nhân tạo có thể xâm phạm QTG trong quá trình học máy hoặc quá trình thực hiện nhiệm vụ ảnh hưởng rất lớn đến hệ thống pháp luật bảo hộ QTG. Vì vậy, pháp luật Việt Nam về trí tuệ nhân tạo và QTG cần hoàn thiện là yêu cầu cấp thiết trong thực tiễn hiện nay đồng thời cũng là tiền đề để phát triển khoa học kỹ thuật.

Hiện nay, pháp luật Việt Nam chưa có cơ sở pháp lý giải quyết vấn đề xâm phạm QTG do trí tuệ nhân tạo thực hiện. Vì vậy, cần có những điều khoản riêng biệt để giải quyết vấn đề này. Do đó, các quy định mà pháp luật cần phải sửa đổi cụ thể như: Trước hết, về chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, các phương án giải quyết được đề xuất như áp dụng chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng; quy trách nhiệm cho người dùng trí tuệ nhân tạo để tạo ra tác phẩm. Việt Nam có thể tham khảo ý kiến được đưa ra dựa trên nguyên tắc “Respondeat Superior” hay “Vicarious” – Nguyên tắc chịu trách nhiệm của người ủy thác đối với hành vi của người thụ thác. Cơ sở phát triển là dựa trên các nguyên tắc của tort law (luật trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng), quy định rằng một pháp nhân có thể chịu TNHS nếu đáp ứng điều kiện (1) hành vi của bất cứ nhân viên nào của pháp nhân đó thực hiện một tội phạm (2) trong phạm vi công việc của họ (3) với ý định mang lại lợi ích cho pháp nhân). Trong đó, người dùng cuối được xem là đã tạo lập, chỉ đạo và nhận được lợi ích từ trí tuệ nhân tạo, do đó trách nhiệm cho những hành vi của trí tuệ nhân tạo làm ra sẽ do họ đảm nhận. Luận văn: Thực tiễn về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm.

Bên cạnh đó, Nhà nước cần có những hướng dẫn cụ thể nhằm nâng cao hiểu biết cũng như ý thức của mọi người để họ có thể bảo vệ QTG của mình tốt hơn bởi trí tuệ nhân tạo là một lĩnh vực phức tạp và không phải ai cũng hiểu rõ được tác động của nó.

2.3.4. Xây dựng cơ chế giám sát có hệ thống, có sự phối hợp liên ngành

Bên cạnh việc xây dựng luật pháp, Nhà nước và các cơ quan ban ngành cũng cần có những biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về QTG. Hiện nay, trong hoạt động NCKH tình trạng xâm phạm QTG đang diễn ra một cách tràn lan và không có sự kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ ngay chính tại các đơn vị thực hiện NCKH. Để chấn chỉnh hoạt động trên thì các cơ quan quản lý có thẩm quyền thực thi pháp luật cần có những quy định chặt chẽ và nghiêm khắc hơn trong việc xử lý những vi phạm trên, theo đó thì giải pháp cần thực hiện bao gồm:

Thứ nhất, cần phải đưa ra mức xử phạt đủ mạnh về mặt quy định trong pháp luật trong các khung hình phạt nhằm thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật và mức xử phạt về kinh tế phải đủ nặng nhằm tăng tính răn đe đối với hành vi vi phạm pháp luật về QTG tác phẩm.

Thứ hai, phải xây dựng cơ chế giám sát có hệ thống có sự tổ chức phối hợp liên ngành trong các cơ quan quản lý nhằm phòng, chống một cách có hiệu quả đối với các cá nhân, tập thể trong hoạt động vi phạm QTG. Trong hoạt động giám sát cần thực hiện một cách thường xuyên, tránh thực hiện theo phong trào hay theo chuyên đề để có hoạt động giám sát có được kết quả tốt nhất. Hiện nay theo quy định của pháp luật Việt Nam về việc xử lý các hành vi vi phạm QTG đối với TPKH như tại Điều 200 Luật SHTT quy định: “Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, các cơ quan Toà án, Thanh tra, Quản lý thị trường, Hải quan, Công an, Uỷ ban nhân dân các cấp có thẩm quyền xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ”. Việc quy định nhiều cơ quan có thẩm quyền xử phạt sẽ giúp việc phát hiện hành vi vi phạm cao hơn, giúp ngăn chặn kịp thời và xử lý các hành vi vi phạm về QTG nhanh chóng. Tuy nhiên, việc phối hợp giữa các đơn vị là không dễ dàng, vì vậy đối với việc bảo hộ QTG đối với các TPKH cần phải có một đơn vị có trình độ chuyên môn với các biện pháp xử lý riêng để xử lý các hành vi vi phạm.

Thứ ba, thực hiện phối hợp với các đơn vị, cơ quan liên ngành thực hiện xóa bỏ hoạt động tại các diễn đàn, trang thông tin điện tử có hoạt động mua bán, tặng miễn phí “tài liệu” trái quy định pháp luật là các công trình NCKH trên không gian mạng.

Vì những lý do trên, Nhà nước cần thực hiện nghiên cứu từ những đóng góp của các nhà khoa học, nhà nghiên cứu luật…tìm ra những bất cập khác trong việc sửa đổi bổ sung những hạn chế thiếu sót trong hệ thống văn bản pháp luật, luật liên quan đến QTG đối với tác phẩm nói chung và TPKH nói riêng nhằm có những quy định chặt chẽ hơn, cùng với đó là những khung pháp lý phù hợp, cụ thể mang tính răn đe cho mọi hành vi xâm phạm tới QTG.

2.4. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật Việt Nam về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm khoa học tại các trường Đại học Luận văn: Thực tiễn về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm.

2.4.1. Thành lập bộ phận chuyên trách về bảo hộ quyền tác giả tại các trường đại học

Tại mỗi trường ĐH ở Việt Nam cần thành lập bộ phận chuyên trách về bảo hộ QTG tại các trường ĐH để thực hiện các nhiệm vụ sau:

Thứ nhất, Để xử lý nghiêm các vi phạm về QTG, tại các trường ĐH, cơ sở giáo dục thì bộ phận chuyên trách phải thực hiện việc thanh, kiểm tra thường xuyên việc thực hiện QTG trong quá trình học tập và NCKH của sinh viên, học viên trong toàn nhà trường. Việc thiết lập các chế tài đủ mạnh nhằm giải giải quyết các hành vi từ những vi phạm nhỏ nhất như mua sách giáo trình, tài liệu nghiên cứu không đúng quy định của pháp luật, của nhà trường. Mặc khác, bộ phận chuyên trách này có tăng cường cho việc hoạt động khoa học có thêm nguồn thu từ hoạt động chuyển công nghệ từ các đề tài NCKH, hoạt động chuyển giao này dựa trên những quy định của pháp luật. Do đó, nhà trường và các sinh viên, học viên có sự say mê hơn trong NCKH, các đơn vị, doanh nghiệp có thêm được những ứng dụng từ các công trình NCKH có giá trị.

Thứ hai, để hỗ trợ các tác giả đăng ký bảo hộ QTG đối với các công trình nghiên cứu khoa học và các sản phẩm là trí tuệ với Cục bản quyền Sở hữu trí tuệ Việt Nam. Nghiên cứu khoa học tại các trường ĐH ngày càng tăng về số lượng các công trình, chất lượng nghiên cứu cũng tăng lên đáng kể vì các công trình khoa học sau đã có sự nghiên cứu từ những công trình của những năm trước. Tuy nhiên, khi thực hiện xong các công trình nghiên cứu khoa học được nghiệm thu thì việc lại cất cho vào “ngăn kéo” là thường xuyên. Vấn đề này đã được Đại biểu Quốc hội chất vấn tại các kỳ họp Quốc hội do việc chi ngân sách cho hoạt động NCKH quá tốn kém và công trình NCKH không có tính thực tiễn hoặc lại cho vào “ngăn kéo”. Do vậy việc đăng ký bản QTG với các tác phẩm nghiên cứu khoa học là hết sức cần thiết đối với các công trình có giá trị thực tiễn, có giá trị về mặt khoa học và có những giá trị về sáng tạo trong nghiên cứu. Hiện nay, việc đăng ký bản quyền tại Cục SHTT Việt Nam đối với các công trình NCKH của sinh viên, học viên và các giảng viên là rất ít, chủ yếu là được đăng ký đối với các công trình NCKH đối với các ngành khoa học kỹ thuật bởi các ngành này còn cần sự bảo hộ đến quyền về kiểu dáng công nghiệp. Mặt khác, việc đăng ký quyền SHTT nhằm bảo vệ QTG còn là hình thức quảng cáo sản phẩm nghiên cứu KH. Hoạt động này giúp nhà trường và các doanh nghiệp có thêm mối quan hệ trong việc phát triển nghiên cứu khoa học nhằm tạo ra những sản phẩm khoa học tốt, chất lượng để doanh nghiệp đặt hàng các công trình nghiên cứu khoa học tại các trường ĐH.

2.4.2. Phối hợp giữa công nghệ kỹ thuật và các giải pháp nhằm phát hiện hành vi sao chép, mức độ trùng lặp trong nghiên cứu khoa học Luận văn: Thực tiễn về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm.

Hành vi sao chép “đạo văn” trong các NCKH, tiểu luận, luận văn của SV hiện nay diễn ra rất tinh vi, nhiều phần mềm được các nhà trường sử dụng trong việc “quét” đạo văn và sao chép luận văn như Turnitin, DoIT, PlagScan, Grammarly,… Công cụ này sẽ so sánh văn bản của tác phẩm nghiên cứu với các nguồn dữ liệu công khai hoặc cơ sở dữ liệu tài liệu khoa học để xác định xem có bất kỳ phần nào trong tác phẩm bị sao chép từ nguồn khác hay không. Tuy nhiên những phần mềm này có cách hoạt động khác nhau do đó việc xác định nội dung trùng lặp theo mỗi phần mềm sẽ khác nhau. Tuy nhiên, các phần mềm này đã có từ lâu, trên thị trường đã xuất hiện những phần mềm “hack” chống lại được những phần mềm Turnitin, DoIT. DoIT…. Do đó, hiện tại và trong tương lai thì các trường ĐH và các cơ sở giáo dục cần đầu tư thêm các phần mềm khác chống nạn “đạo văn”, nạn sao chép luận văn, tiểu luận bằng các phần mềm khác. Cùng với việc đầu tư công nghệ thông tin này thì các trường ĐH cũng tổ chức thu nộp công trình NCKH, luận văn, tiểu luận…bằng hình thức nộp bản mềm, việc in giấy đóng quyển được nhà trường tổ chức in khi cần thiết. Việc này các trường ĐH sẽ kiểm soát được hành vi sao chép, “đạo văn” ngay trong trường ĐH của mình. Ngoài ra, cần xem xét đồng thời đánh giá của hội đồng nghiệm thu đề tài nghiên cứu, hội đồng đạo đức trong liêm chính học thuật và kết quả mà phần mềm đưa ra để phát hiện hành vi sao chép, mức độ trùng lặp trong nghiên cứu khoa học.

2.4.3. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về quyền tác giả tại các trường Đại học

Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước thì quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước luôn chỉ đạo việc thực hiện công tác tuyên truyền và phổ biến pháp luật tới mọi người trong xã hội. Không chỉ là những chỉ đạo của Đảng mà hoạt động này đã được cụ thể hoá bằng Luật Phổ biến giáo dục pháp luật năm 2012, theo đó thì “Phổ biến, giáo dục pháp luật là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị, trong đó Nhà nước giữ vai trò nòng cốt.”. Thực trạng bảo vệ QTG đối với tác phẩm trong hoạt động NCKH đã được trình bày trong nghiên cứu này cho thấy, hành vi xâm phạm đến QTG trong hoạt động nghiên cứu khoa học, trong việc sử dụng giáo trình, tài liệu nghiên cứu…diễn ra hết sức dễ dàng và dấu hiệu thì ngày càng gia tăng bởi số lượng các công trình ngày càng nhiều, thiết bị công nghệ Internet và các thiết bị mới của trí tuệ nhân tạo AI ngày càng phát triển hơn nữa. Tuy nhiên, phần lớn nhóm người thực hiện hành vi vi phạm QTG về cơ bản trong việc nhận thức là chưa tốt.

Hiện nay, thực tế tại các quy định của các trường ĐH thì bên cạnh việc khuyến khích SV tích cực học tập, tích cực tham gia hoạt động các phong trào thanh niên thì nhiều trường khuyến khích SV tìm hiểu về pháp luật. Đối với những trường chuyên ngành luật thì việc tổ chức thi tìm hiểu pháp luật thì ở mức độ chuyên sâu hơn khối các trường khác. Do đó, việc nâng cao ý thức của sinh viên trong việc hiểu biết pháp luật nói chung và hiểu biết về Luật SHTT nói riêng cần có những hoạt động từ phía nhà trường trong việc triển khai thực hiện. Theo đó, việc nâng cao ý thức thượng tôn pháp luật cần phải được nhà trường tuyên truyền trực tiếp đến các lớp học thông qua hoạt động thi tìm hiểu về QTG, tìm hiểu Luật SHTT qua các cuộc thi, các bài viết. Chính vì vậy, hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật phải đẩy mạnh hơn nữa tới cộng đồng trong xã hội, coi hành động vi phạm này như một “tội phạm” đối với tác giả. Hoạt động tuyên truyền cũng cần đưa vào sớm hơn trong các chương trình giáo dục từ cấp 2, cấp 3 của các trường THPT, THCS nhằm mục đích xây dựng ý thức cho SV trong việc tôn trọng tác giả tác phẩm và tinh thần thượng tôn pháp luật khi còn ngồi trên ghế của nhà trường. Bên cạnh đó, ở bậc ĐH cần xây dựng đề cương môn học về SHTT dành cho sinh viên các ngành nghề chung chứ không chỉ dành riêng cho sinh viên ngành Luật dựa theo Quyết định Số: 1068/QĐ-TTg giao Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ “Đề án tăng cường hoạt động SHTT và liên kết với doanh nghiệp của cơ sở giáo dục ĐH và xây dựng, triển khai giảng dạy môn học SHTT tại các cơ sở đào tạo”. Thông qua việc đưa nội dung pháp luật về QTG giúp học sinh/sinh viên nâng cao kiến thức pháp luật đồng thời hình thành thói quen vận dụng pháp luật về QTG. Luận văn: Thực tiễn về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm.

Trong các khu vực khối các trường ĐH, cơ quan có hoạt động NCKH thì việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật về QTG tác phẩm thì việc tuyên truyền được sử dụng nhiều phương pháp kết hợp khác nhau như: tổ chức hội thảo khoa học về vấn đề QTG; tổ chức hướng dẫn các quy định khi thực hiện sử dụng nguồn tài liệu theo đúng quy định của pháp luật khi thực hiện NCKH; trưởng, quản lý các đơn vị có hoạt động NCKH phải thông báo, hướng dẫn cụ thể tới các nhóm người thực hiện NCKH những quy định cụ thể rõ ràng về QTG, luật SHTT…

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Trong chương 2 luận văn đã nghiên cứu thực tiễn thực hiện pháp luật về bảo hộ QTG đối với TPKH tại các trường ĐH. Qua phân tích đánh giá, có thể thấy việc thực thi pháp luật về QTG tại các trường ĐH hiện nay bên cạnh một số thuận lợi thì vẫn còn nhiều khó khăn như pháp luật Việt Nam chưa giải quyết được tình trạng xâm phạm QTG bởi trí tuệ nhân tạo hay các quy chế bảo hộ QTG trong môi trường giáo dục ĐH chưa đồng nhất giữa các trường ĐH cũng như sự thiết hiểu biết về QTG của giảng viên, người học. Thông qua đó, tác giả đã trình bày một số kiến nghị nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về bảo hộ QTG đối với TPKH tại các trường ĐH như đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về QTG nhằm nâng cao nhận thức và trách nhiệm trong quá trình thực hiện nghiên cứu. Bên cạnh đó, tăng cường giám sát và kiểm tra việc bảo vệ QTG trong quá trình nghiên cứu khoa học. Khi phát hiện vi phạm, cần đưa ra các biện pháp kỷ luật và xử lý nghiêm minh để tạo ra sự giáo dục về tầm quan trọng của QTG.

Từ đó, tác giả mong rằng một số kiến nghị nêu trên sẽ góp phần vào việc hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam nhằm khắc phục những bất cập về việc thực thi bảo hộ QTG đối với tác phẩm khoa học tại các trường ĐH trên thực tế, đồng thời đảm bảo hài hòa lợi ích giữa các chủ thể.

KẾT LUẬN

Các công trình NCKH tại các trường ĐH là sản phẩm trí tuệ của nhà trường. Hàng năm các trường ĐH có rất nhiều công trình nghiên cứu khoa học được ra đời. Qua nghiên cứu, cho thấy việc xâm phạm QTG đối với TPKH tại các trường ĐH rất phổ biến, và dễ dàng do sự bùng nổ của mạng internet, sự phát triển mạnh mẽ của trí tuệ nhân tạo đã gây ra những tác hại không hề nhỏ đến nỗ lực bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nói chung và QTG nói riêng.

Trong chương 1 tác giả đã trình bày những lý luận chung về bảo hộ QTG đối với TPKH tại trường ĐH. Bên cạnh đó, thông qua pháp luật về QTG của một số quốc gia như Hoa Kỳ, Anh, Nhật Bản về QTG để có thêm những góc nhìn đa chiều về việc bảo hộ QTG. Cũng trong chương 1, tác giả trình bày những quy định pháp luật Việt Nam về bảo hộ QTG đối với TPKH tại các trường ĐH, tác giả nhận thấy Luật SHTT hiện nay đã có những quy định phù hợp với các quy định tại các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, tuy nhiên thực tế tại một số trường ĐH thì tình trạng xâm phạm QTG vẫn còn đang diễn ra phổ biến bởi sự phát triển mạnh mẽ của internet và trí tuệ nhân tạo. Tình trạng vi phạm bản quyền đã khiến chủ sở hữu QTG mất đi nhiều cơ hội thu về lợi nhuận, ảnh hưởng lớn đến việc đầu tư nghiên cứu cũng như động lực sáng tạo. Những thực trạng tồn tại trong việc thực thi quyền SHTT đối với tác phẩm nghiên cứu khoa học hiện vẫn còn nhiều bất cập và những hạn chế nhất định từ phía người thực hiện NCKH đối với QTG trong hoạt động NCKH cần khắc phục. Từ cơ sở lý luận và phân tích thực tiễn đã chỉ ra những bất cập, tạo tiền đề cho những kiến nghị, đề xuất trong Chương 2 về pháp luật bảo hộ QTG đối với TPKH tại các trường ĐH hiện nay. Luận văn: Thực tiễn về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm.

Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn “Pháp luật Việt Nam về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm khoa học tại các trường đại học” . Tác giả hi vọng đề tài sẽ góp một phần nhỏ vào quá trình hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam về bảo hộ quyền SHTT nói chung và QTG đối với tác phẩm khoa học nói riêng.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:  

===>>> Luận văn: Pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Contact Me on Zalo
0906865464