Khóa luận: Thực trạng hoạt động mùa vụ của du lịch Cát Bà

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Khóa luận: Thực trạng hoạt động mùa vụ của du lịch Cát Bà hay nhất năm 2022 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm khóa luận thì với đề tài Khóa luận: Thực trạng và giải pháp phát triển hoạt động du lịch mùa thấp điểm tại Cát Bà dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.

2.1.Giới thiệu về khu du lịch Cát Bà

2.1.1.Khái quát về đảo Cát Bà Khóa luận: Thực trạng hoạt động mùa vụ của du lịch Cát Bà

Quần đảo Cát Bà là quần thể gồm 367 đảo trong đó có đảo Cát Bà ở phía nam vịnh Hạ Long, ngoài khơi thành phố Hải Phòng và tỉnh Quảng Ninh, cách trung tâm thành phố Hải Phòng khoảng 30 km, cách thành phố Hạ Long khoảng 25 km. Về mặt hành chính, quần đảo thuộc huyện đảo Cát Hải, thành phố Hải Phòng. Nơi đây đã được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới

Tương truyền xưa kia tên đảo là Các Bà, là hậu phương cho Các Ông theo Thánh Gióng đánh giặc Ân. Ở thị trấn Cát Bà hiện nay có đền Các Bà. Các bản đồ hành chính thời Pháp thuộc (như bản đồ năm 1938) còn ghi là Các Bà. Như vậy có lẽ tên gọi Các Bà đã bị đọc chệch thành Cát Bà.

Trước đây đảo Cát Bà thuộc huyện Cát Bà, năm 1977 mới sáp nhập với huyện Cát Hải thành huyện Cát Hải mới. Trước đây đảo thuộc tỉnh Quảng Yên, sau thuộc khu Hồng Quảng, đến năm 1956 mới chuyển về thành phố Hải Phòng.

Thị trấn Cát Bà hiện nay là huyện lị huyện Cát Hải. Trước năm 1945, thị trấn Cát Bà là phố Cát Bà, rồi đại lý Cát Bà thuộc huyện Cát Hải, tỉnh Quảng Yên. Sau năm 1945, trở thành thị xã Cát Bà. Đến năm 1957 thị xã Cát Bà đổi thành thị trấn và huyện Cát Bà mới thành lập.

Trên đảo chính Cát Bà có rừng nguyên sinh trên núi đá vôi là một nơi đang được đẩy mạnh phát triển du lịch sinh thái. phía đông nam của đảo có vịnh Lan Hạ, phía tây nam có vịnh Cát Gia có một số bãi cát nhỏ nhưng sạch, sóng không lớn thuận tiện cho phát triển du lịch tắm biển, nghỉ dưỡng. Trên biển xuất hiện nhiều núi đá vôi đẹp tương tự vịnh Hạ Long và Bái Tử Long. Ở một số đảo nhỏ cũng có nhiều bãi biển đẹp. Con đường độc đáo chạy ven biển và xuyên qua đảo Cát Bà

Đường xuyên đảo Cát Bà: dài 27km, có nhiều đèo dốc quanh co, men theo mép biển, xuyên qua vườn quốc gia, phong cảnh kỳ thú, non nước hữu tình.

Vườn quốc gia Cát Bà: có diện tích 15.200 ha, trong đó có 9.000 ha rừng, 5.400 ha biển tạo nên một môi trường sinh thái lý tưởng.

Động Trung Trang: Nằm cách thị trấn 15 km cạnh đường xuyên đảo, có nhiều nhũ đá thiên nhiên. Động này có thể chứa hàng trăm người.

Động Hùng Sơn: Cách thị trấn 13 km, trên đường xuyên đảo. Động còn có tên Động Quân y vì trong Chiến tranh Việt Nam người ta đã xây cả một bệnh viện hàng trăm giường nằm ở trong lòng núi. Khóa luận: Thực trạng hoạt động mùa vụ của du lịch Cát Bà

Động Phù Long (Cái Viềng) mới tìm ra, được cho là đẹp hơn động Trung Trang

Các bãi tắm: Cát Cò 1, Cát Cò 2, Cát Dứa (bãi tắm đảo Khỉ), Cát Ông, Cát Trai Gái, Đường Danh v.v… là những bãi tắm nhỏ, đẹp, kín đáo, có nhiều mưa, che nắng, cát trắng mịn, nước biển có độ mặn cao, trong suốt tới đáy. Một số bãi tắm có các khu resort như Monkey Island Resort ở đảo Khỉ, Nam Cát resort ở đảo Nam Cát, Cover Beach resort ở đảo Vách Đá… Người ta dự định xây dựng ở đây những “thuỷ cung” để con người có thể trực tiếp quan sát các đàn cá heo, tôm hùm, rùa biển, mực ống, cá mập bơi lượn quanh những cụm san hô đỏ.

Quần đảo Cát Bà có rừng mưa nhiệt đới trên đảo đá vôi, rừng ngập mặn, các rặng san hô, thảm rong – cỏ biển, hệ thống hang động, tùng áng, là nơi hội tụ đầy đủ các giá trị bảo tồn đa dạng sinh học, bảo đảm các yêu cầu của khu dự trữ sinh quyển thế giới theo quy định của UNESCO.

Cát Bà đã được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới ngày 02 tháng 12 năm 2004. Ngày 1 tháng 4 năm 2005 tại đây đã diễn ra lễ đón nhận bằng quyết định của UNESCO và kỷ niệm sự kiện này. Việt Nam hiện có 06 khu dự trữ sinh quyển thế giới được UNESCO công nhận là: Cần Giờ, Cát Tiên, châu thổ sông Hồng, miền Tây Nghệ An, Kiên Giang và quần đảo Cát Bà.

Tổng diện tích khu dự trữ sinh quyển Cát Bà rộng hơn 26.000 ha, với 2 vùng lõi (bảo tồn nghiêm ngặt và không có tác động của con người), 2 vùng đệm (cho phép phát triển kinh tế hạn chế song kết hợp với bảo tồn) và 2 vùng chuyển tiếp (phát triển kinh tế). Khu dự trữ sinh quyển Cát Bà là vùng hội tụ đầy đủ cả rừng mưa nhiệt đới trên đảo đá vôi, rừng ngập mặn, các rạn san hô, thảm rong và đặc biệt là hệ thống hang động.

Gần 60 loài đã được coi là các loài đặc hữu và quý hiếm đã được đưa vào Sách đỏ Việt Nam như các loài động vật: ác là, quạ khoang, voọc đầu vàng, voọc quần đùi trắng và các loài thực vật như chò đãi, kim giao (Podocarpus fleurii), lá khôi (Ardisia spp.), lát hoa (Chukrasia tubularis), dẻ hương, thổ phục linh, trúc đũa, sến mật. Ngoài ra còn 8 loài rong, 7 loài động vật đáy cũng cần được bảo vệ. Gần 60 loài đã được coi là các loài đặc hữu và quý hiếm đã được đưa vào Sách đỏ Việt Nam như các loài động vật: ác là, quạ khoang, voọc đầu vàng, voọc quần đùi trắngvà các loài thực vật như chò đãi, kim giao (Podocarpus fleurii), lá khôi (Ardisia spp.), lát hoa (Chukrasia tubularis),dẻ hương, thổ phục linh, trúc đũa, sến mật. Ngoài ra còn 8 loài rong, 7 loài động vật đáy cũng cần được bảo vệ.

Lễ hội của người dân Cát Bà giống như lễ hội của những người Kinh ở khu vực khác, tuy nhiên có thêm ngày 1 tháng 4 dương lịch là lễ hội ngày Bác Hồ về thăm làng cá.Còn có thêm lễ hội “Đền Bà” ở xã Hiền Hào. Đây cũng là một trong những lễ hội lớn của người dân địa phương. ngoài ra còn rất nhiều lễ hội khác

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Viết Thuê Khóa Luận Ngành Du Lịch

2.1.2.Vị trí địa lí Khóa luận: Thực trạng hoạt động mùa vụ của du lịch Cát Bà

Quần đảo Cát Bà nằm ở khoảng vĩ độ 20 độ 48’Bắc, kinh độ 107 độ Đông. Phía Tây tiếp giáp với đảo Cát Hải và chỉ cách đảo 1 km, phía Bắc và Đông Bắc tiếp giáp với vịnh Hạ Long, còn 3 phía Đông, Nam, Tây Nam đều hướng ra biển. Vị trí này là một thế mạnh cho Cát Bà phát triển loại hình du lịch phổ biến nhất hiện hay- Du lịch biển.

Xét về mặt địa lí, Cát Bà có vị trí khá thuận lợi đối với phát triển kinh tế xã hội của địa phương như khai thác thủy hải sản, phát triển nghề cá, thương mại, đặc biệt là hoạt động du lịch.

Với thế mạnh về vị trí địa lí, Cát Bà có rất nhiều các bãi biển đẹp như: Cát Cò 1, 2, 3, Cát Dứa, Ba trái đào, Cát Ông,…, các bãi san hô rộng lớn. Thê giới động thực vật ở đây vô cùng phong phú với nhiều loài đặc trưng như:Kim giao, Voọc đầu trắng,… Đây là những điểm hấp dẫn thu hút rất nhiều khách du lịch đến với Cát Bà.

2.1.3. Dân cư

Cát Bà là một đơn vị hành chính thuộc huyện đảo Cát Hải, thành phố Hải Phòng. Tuy nhiên, trung tâm hành chính, kinh tế của cả huyện đảo lại được đặt tại Cát Bà. Điều này cũng đem lại sự thuận lợi cho việc quản lý và tổ chức hoạt động du lịch trên đảo Cát Bà và huyện Cát Hải.

Trên một diện tích 200km2 của toàn bộ hòn đảo hiện có khoảng 15.000 dân sinh sống, phân bố tại thị trấn Cát Bà và 6 xã còn lại là: Gia Luận, Trân Châu, Xuân Đám, Việt Hải, Hiền Hào và Phù Long. Mật độ dân cư phân bố không đồng đều tập trung tại thị trấn khá đông, số còn lại rải rác ở các xã. Khóa luận: Thực trạng hoạt động mùa vụ của du lịch Cát Bà

Người dân trên đảo Cát Bà hầu hết là dân di cư từ đất liền ra sống chủ yếu bằng nghề đánh cá, nuôi trồng thủy sản, chăn nuôi trồng trọt và kinh doanh dịch vụ. Hiện tại thành phần dân cư trên đảo khá đa dạng do các cuộc di dân, do cư dân từ nơi khác đến làm ăn, buôn bán, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch. Ngoài ra, tại Cát Bà luôn có một số lượng nhất định ngư dân từ miền Trung (Quảng Ngãi, Thanh Hóa,…) neo đậu trong những chuyến đi biển dài ngày. Điều đó góp phần tạo nên sự sôi động của đời sống trên hòn đảo du lịch này.

Ngoài ra các ngư dân trên đảo có một số lượng không nhỏ cư dân sống trôi nổi trên biển, phần nhỏ là trên các thuyền đánh cá kiêm nhà ở. Phần còn lại, họ sống trên các ngôi nhà nổi gần bờ mà thực chất là bè nuôi cá. Hiện tại, xung quanh đảo Cát Bà có hàng trăm ngôi nhà nổi như vậy hình thành nên các cụm dân cư rieng biệt. Khách du lịch trên Cát Bà rất thích thú khi được ngắm nhìn các khu dân cư trên biển như này. Vào ban đêm, các nhà thuyền này thường bật điện sáng để đánh bắt mực tạo nên một khung cảnh lung linh thu hút sự chú ý của khách du lịch.

Đặc biệt, Cát Bà hôm nay còn hấp dẫn du khách trong và ngoài nước bởi làng Việt Hải. Đây là làng có dân cư sinh sống lâu nhất của đảo Cát Bà. Đời sông nhân dân vẫn dựa vào thiên nhiên là chủ yếu. Tuy vậy nhưng nơi đây lại thu hút khách du lịch muốn tìm hiểu về nét văn hóa bản địa và tham gia vào những hoạt động sinh hoạt thường ngày của người dân nơi đây. Làng Việt Hải hiện nay vẫn đang được đầu tư xây dựng thành một điểm du lịch mới. Cát Bà vừa khôi phục, bảo tồn vừa phát huy những giá trị truyền thống văn hóa của người dân trong làng, đồng thời thu hút thêm lượng khách đến với Cát Bà và kéo dài thêm thời gian của khách du lịch khi đến tham quan đảo.

Nhìn chung, đời sống dân cư trên đảo Cát Bà khá ổn định, Đảo có diện tích không lớn nhưng có nhiều địa phương khác nhau, làm phong phú thêm nét đẹp truyền thống văn hóa của đảo, bởi dân cư trên đảo đều có chung cốt cách của người đi khai phá mạnh mẽ và táo bạo. Do vậy, họ tiếp thu những cái mới có lợi cho họ. Đó cũng chính là tiềm năng, thuận lợi cho sự phát triển du lịch Cát Bà vào mùa thấp điểm.

2.2.Thực trạng khai thác tài nguyên du lịch tại đảo Cát Bà

2.2.1. Tài nguyên du lịch tự nhiên Khóa luận: Thực trạng hoạt động mùa vụ của du lịch Cát Bà

2.2.1.1.Địa hình

Địa hình có ảnh hưởng sâu sắc đến kiến trúc cảnh quan, vì thế, mỗi hộ phận địa hình đóng một vai trò như tài nguyên du lịch. Hay nói cách khác, mỗi một điểm du lịch đều có những đặc điểm địa hình riêng biệt, độc đáo, nó chính là yếu tố thu hút khách du lịch.

Sự lôi cuốn của Cát Bà không chỉ ở vị trí trời phú mà còn ở điều kiện tự nhiên đã ưu ái dành tặng cho hòn đảo ngọc này. Hình thái địa hình của đảo khá phức tạp. Đảo Cát Bà là một vùng đồi, núi pha trộn nhiều dạng địa hình. Dựa vào các chỉ tiêu về độ cao, độ dốc, mật độ chia cắt,có thể chia thành các dạng địa hình khác nhau như:

Núi thấp, chia cắt mạnh là kiểu địa hình chủ yếu ở đảo Cát Bà. Hầu hết các đỉnh núi có độ cao khoảng 100 – 150m. Đỉnh núi cao nhất – ngọn Cao Vọng 331m thộc phần Tây đảo Cát Bà. Có cảnh vật như “Bồng lai tiên cảnh” , có “bàn cờ tiên” ẩn dưới những gốc cây cổ thụ và hương rừng đỗ quyên quyến rũ. Khóa luận: Thực trạng hoạt động mùa vụ của du lịch Cát Bà

Đặc điểm nổi bật nhất của núi trên đảo là đỉnh nhọn, sắc, dốc đứng hiểm trở và nhiều hang động đẹp không kém vùng Bắc Ninh, đặc trưng cho địa hình Karst nhiệt đới, Karst ngập nước ở Đông Bắc Việt Nam: Hang nàng Tiên, động Trung Trang (dài khoảng 1000m), động Cao Vọng, động Hùng Sơn,… Hầu hết các hang động ở đây phần hớn có độ dài dưới 200m, hang dài nhất không quá 1000m. Vị trí cửa hang đều tập trung ở mức 10 – 30m so với mặt đất. Tuy về kích thước các hang động không lớn nhưng các hang động lại có hình thái khá đẹp, nhiều thạch nhũ,nhiều ngách và thường gắn liền với quá trình chống giặc ngoại xâm anh dũng của dân tộc. Một số hang trên đảo Cát Bà trước đây đã được các nhà khảo cổ khảo sát và tìm được hóa thạch răng người tiền sử và các công cụ bằng đá thời văn hóa Hạ Long. Vì vậy đây là nguồn tài nguyên có giá trị lớn, không những hấp dẫn du khách bốn phương mà còn là tiền đề thuận lợi cho việc phát triển du lịch địa phương trong thời điểm hiện tại và lâu dài.

Những ngọn núi cao sừng sững ở phía Đông Nam đảo Cát Bà như những tấm bình phong khổng lồ kết hợp với nhiều vách núi đâm thẳng ra biển, ngăn chặn gió lạnh phương Bắc làm cho vùng đảo này sóng nước luôn êm ả, hiền hòa. Vùng trung tâm đảo, núi non đan xen trùng điệp tạo thành những thung lũng trù phú. Sự có mặt của kiểu địa hình đặc sắc này cũng chính là yếu tố thu hút khách du lịch đến với Cát Bà ngày càng nhiều.

Các bờ biển xung quanh quần đảo Cát Bà mang kiểu bờ biển mài mòn hóa học. Cát Bà chủ yếu là núi đá vôi, có đường biển khúc khuỷu, độ dốc lớn, bờ biển hẹp, bị chia cắt mạnh. Bờ biển có nhiều mũi đá nhỏ xen kễ với các vụng nhỏ hình dáng không nhất định tạo thành do kết quả quá trình hòa tan đá vôi trong điều kiện ngập mặn. Nhiều vách núi đâm thẳng ra biển tạo thành các vịnh nhỏ, bãi cát trải dài, phẳng mịn, nước trong vắt, soi rõ đáy cát như bãi Cát Cò I, Cát Cò II,… Đó là những bãi tắm đẹp nổi tiếng có sức hút mạnh đối với khách du lịch trong và ngoài nước.

Nhìn chung, địa hình Cát Bà so với các khu vực khác ở miền Bắc và miền Trung là tương đối đặc biệt và khá đa dạng, làm nền tảng cho cảnh quan tự nhiên, tạo nên những nét đẹp độc đáo và phong phú cho phong cảnh mà trên đó có thể phát triển nhiều loại hình du lịch cùng một lúc: du lịch tham quan, du lịch sinh thái, du lịch leo núi, du lịch nghiên cứu, du lịch lặn biển,… Hơn nữa, địa hình đã tạo nên cho Cát Bà một vụng kín gió, luồng lạch thuận tiện và nhiều chỗ neo đậu, tránh các biến động bất thường về sóng bão. Đó là những ưu đãi lớn và rất độc đáo mà địa hình nơi đây dành tặng cho hoạt động du lịch của đảo, cần được bảo tồn và phát huy nguồn tài nguyên phong phú này.

2.2.1.2.Khí hậu Khóa luận: Thực trạng hoạt động mùa vụ của du lịch Cát Bà

Khí hậu là một trong những yếu tố quan trọng tạo ra môi trường du lịch. Các điều kiện nhiệt độ, độ ẩm có ảnh hưởng lớn đến sức khỏe của khách du lịch. Do vậy, việc phát triển có hiệu quả ngành du lịch tại đảo có tác dụng hạn chế những tác động xấu của thời tiết tạo nên khí hậu Cát Bà thuận tiện như hiện nay. Cát Bà có những ưu thế về khí hậu, cũng tương tự như những điểm du lịch khác ven biển phía Bắc, khí hậu Cát Bà bị chi phối sâu sắc bởi biển. Ảnh hưởng của biển làm điều hòa khí hậu khu vực đảo, giảm bớt các ảnh hưởng cực đoan về nhiệt độ và độ ẩm, mùa hè, thời tiết ở Cát Bà không quá oi bức, mùa đông không quá lạnh. Khí hậu Cát Bà mang tính nhiệt đới nóng ẩm và gió mùa, chia làm hai mùa rõ rệt:

  • Mùa hè, từ tháng 5 đến tháng 9, khí hậu nóng ẩm gần trùng với mùa mưa nhiều, rất thuận lợi cho hoạt động du lịch, đặc biệt là tắm biển. Mùa hè cũng là mùa đông khách của hoạt động du lịch trên đảo. Tháng 4 và tháng 10 là các tháng chuyển tiếp.
  • Mùa đông: mang tính lạnh, hạn chế các nhu cầu nghỉ ngơi tắm biển, từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau, đồng thời cũng chính là mùa vắng khách trên đảo.
  • Ngoài ra, nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa chịu ảnh hưởng của đại dương nên các chỉ số trung bình về nhiệt độ, độ ẩm, lượng mưa cũng tương đương như các khu vực xung quanh. Khóa luận: Thực trạng hoạt động mùa vụ của du lịch Cát Bà

Cụ thể là:

  • Lượng mưa: 1.700-1.800 mm/năm, dao động theo mùa. Mùa mưa chủ yếu là tháng 7,
  • Nhiệt độ trung bình: 25-28 °C, dao động theo mùa. Về mùa hè có thể lên trên 30 °C, về mùa đông trung bình 15-20 °C nhưng có thời điểm có thể xuống dưới 10 °C (khi có gió mùa đông bắc).
  • Độ ẩm trung bình: 85%.
  • Dao động của thủy triều: 3,3-3,9 mét.
  • Độ mặn nước biển: Từ 0,930% (mùa mưa) đến 3,111% (mùa khô)

Khí hậu Cát Bà thường xuyên biến động, rõ nhất là sự biến động của yếu tố nhiệt độ trong mùa mưa dông và yếu tố mưa trong mùa hạ. Tuy nhiên, vì Cát Bà nằn giáp biển Đông nên hàng năm Cát Bà vẫn xuất hiện các hiện tượng thời tiết bất thường như:

  • Bão và áp thấp nhiệt đới thường xuất hiện vào tháng 7,8,9,10. Hàng năm, có từ 3 – 5 lần đổ bộ vào Cát Bà. Bão thường gay mưa lớn trên toàn khu vực, gây tổn hại lớn đến các công trình phục vụ khách du lịch.
  • Dông: Hàng năm, có khoảng 40 – 50 ngày có dông lớn. Dông thường xuyên xuất hiện vào mùa hạ. Đôi khi dông có kèm theo cả gió lốc và mưa đá, hiện tượng vòi rồng gặp trên biển gây trở ngại rất lớn cho tàu bè qua lại và hạn chế việc tổ chức hoạt động du lịch trên địa bàn, đồng thời, hiện tượng này sẽ tác động tiêu cực đến tâm lý du khách khi chọn Cát Bà là điểm đến trong mùa hè.

2.2.1.3. Đặc điểm hải văn và tài nguyên ngước Khóa luận: Thực trạng hoạt động mùa vụ của du lịch Cát Bà

Hải văn: Chế độ thủy chiều ở Cát Bà theo chế độ nhật triều thuần nhất. Mực triều trung bình từ 3,3 – 3,5 m. Mùa mưa thủy triều lên cao vào buổi chiều còn mùa khô lại lên cao vào buổi sáng.

Độ mặn nước biển tương đối ổn định, đồng đều trung bình 31 – 32o/oo (mùa khô), 26 – 27o/oo (mùa mưa) Nhiệt độ nước biển trung bình các tháng 4 – 11 và 23oC phù hợp cho tắm biển và sự phát triển của một số loài hải sản như:

Ngọc trai, cá Song, Tu hài,…

Tài nguyên nước: đóng một vai trò rất quan trọng trong nhu cầu sinh hoạt của cư dân trên đảo và khách du lịch. Một số nguồn tài nguyên nước đặc biệt như nước khoáng tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển hoạt động du lịch tại đảo. Đảo Cát Bà có nguồn nước biển, có suối ngầm cung cấp nước ngọt cho sinh hoạt, có suối khoáng chữa bệnh và làm nước giải khát.

Nước biển: Bao bọc xung quanh đảo Cát Bà là biển. Nước biển tại Cát Bà có độ đục thấp, thường là dưới 10g/m3. Nước khá trong, vào những ngày thường có thể nhìn qua lớp nước xuống độ sâu 5 – 7m. Chế độ nhật triều lớn có biên độ lớn, 4 – 4,3m, tạo nên những thay đổi về diện mạo bờ biển, tăng thêm tính đa dạng cho cảnh quan bờ biển. Thủy triều dâng cao vào ban ngày, mùa hè rất thuận lợi cho các tuyến du lịch bằng thuyền nhưng lại hạn chế thời gian tắm ở các bãi trên đảo.

Bên cạnh đó, các kết quả nghiên cứu về hàm lượng oxy tiêu hao bởi sinh học là không cao. Điều này chứng tỏ hoạt động của vi khuẩn và sinh vật phù du trong nước vào thời kỳ cuối cuân và đầu hè là khá cao, khả năng tự làm sạch nước tốt.

Nước khoáng: Cát bà có nguồn tài nguyên nước khoáng có giá trị lớn về du lịch.Trên đảo có suối nước khoáng Thuồng Luồng thuộc xã Trân Châu, chảy ra từ chân núi đá vôi với lưu lượng lớn.Hiện nay, Cát Bà cũng phát triển thêm một số khoáng ngầm là những “túi nước” có trữ lượng hàng vạn mét khối. Xã Xuân Đám có nguồn nước khoáng nóng,chảy quanh năm với độ nóng 38oc.

Nước khoáng Cát Bà còn có tác dụng chữa một số bệnh về tuần hoàn, tiêu hóa, hô hấp và giải khát. Năm 1985 – 1986, xí nghiệp điện nước Cát Bà xuất thử 500.000 chai nước khoáng. Với điều kiện bình thường như hiện nay, có khả năng đảm bảo sản xuất và tiêu thụ 6 – 9 triệu chai/ năm. Điều này không chỉ giúp nhân dân địa phương có công ăn việc làm mà còn phục vụ khách du lịch đến thăm Cát Bà.

2.2.1.4. Tài nguyên động thực vật Khóa luận: Thực trạng hoạt động mùa vụ của du lịch Cát Bà

Tài nguyên động, thực vật góp phần làm sinh động thêm cho điểm du lịch và cũng là đặc sản làm nên nét riêng biệt của mỗi địa phương, là tài sản quý hiếm của mỗi điểm du lịch và của cả nước. Vì vậy, bảo tồn hệ thống động, thực vật là việc làm cần thiết của bất kì nơi nào để phát triển bền vững.

Đảo Cát Bà là thảm rừng nhiệt đới xanh quanh năm, có khu rừng nguyên sinh với nhiều loài chim, thú, bò sát và thảm thực vật quý hiếm. Ngoài ra, đảo còn có giá trị lớn về hải sản, hệ sinh thái rừng ngập mặn, có ao hồ trên núi đá vôi, góp phần làm phong phú về các hình thức du lịch trên đảo.

Hệ thực vật:

Cát Bà có khí hậu nhiệt đới gió mùa bị chi phối mạnh bởi biển nên thực vật xanh tốt và sinh trưởng mạnh mẽ quanh năm. Rừng trên đảo nguyên là rừng rậm nhiệt đới, nhưng do bị tác động mạnh của con người nên hầu hết đã bị thay bằng thực bì thứ sinh nghèo nàn hơn: thành phần cây ít, chủ yếu là loại ưa đó vôi, tăng trưởng chậm nên thường không cao, ít tầng tán, ít cây leo. Tại trung tâm đảo Cát Bà hiện vẫn còn rừng rậm nhiệt đới xanh quanh năm được bảo tồn khá nguyên vẹn.

Đa dạng với 20.000 ha rừng, trong đó có 570 ha rừng nguyên sinh. Theo điều tra hiện nay trong vườn quốc gia Cát Bà đã có 745 loài thực vật bạc cao thuộc 495 chi và 149 họ thực vật. Trong số thực vật đã xác định có thể chia thành:

  • Cây gỗ lớn – 145 loài
  • Cây gỗ nhỏ – 120 loài
  • Cây bụi – 81 loài
  • Thân thảo đứng – 237 loài
  • Thân thảo leo – 56 loài
  • Cây nứa bụi dây leo – 50 loài

Những đặc điểm nổi bật của hệ thực vật rừng Cát Bà

  • Có nhiều loài thực vật vùng đảo đá Đông Bắc đều có mặt ở Cát Bà Khóa luận: Thực trạng hoạt động mùa vụ của du lịch Cát Bà
  • Có nhiều loài gốc quý, hiếm ở Việt Nam như kim giao(đặc hữu), lát hoa(quý), chỏ đãi(đặc hữu), trai(quý), đinh(quý), gội nếp(quý), cọ Bắc Sơn(đặc hữu).
  • Bên cạnh các loài thực vật có nguồn gốc tại chỗ còn nhiều loài thực vật có nguồn gốc từ khu hệ lân cận như long não, gạo, hoan hài,…
  • Vườn còn có nhiều loài có thể làm thuốc quý 250/745 loài có thể làm thuốc chữa bệnh, đáng chú ý nhất là thuyết giáo, hương nhu, bình vôi, kim ngâu…

Hệ động vật rừng:

Theo kết quả điều tra, quan sát và phân loại, động vật rừng Cát Bà gồm các loại chim, thú, ếch,nhái, bò sát.

Toàn bộ động vật tại Vườn quốc gia Cát Bà có thể chia theo các nhóm sau:

  • Động vật đặc hữu – 1 loài
  • Động vật quý hiếm – 5 loài
  • Động vật có thể làm thuốc – 20 loài
  • Động vật cho da và lông quý – 9 loài
  • Động vật làm cảnh xuất khẩu – 15 loài
  • Động vật cho thịt – 23 loài

Sự phân bố các loài động vật quý hiếm trên đảo không đều. Hiện tại các loài khỉ vàng, sơn dương phân bố rải rác ở các thung, áng dân cư. Voọc đầu trắng – loài vật đặc hữu duy nhất trên thế giới – tập trung ở các vách núi bên cửa sông Việt Hải, Lạch Tàu, Trà Báu,… Toàn đảo Cát Bà ước tính số lượng Voọc đầu trắng khoảng trên dưới 300 cá thể. Đây là loài động vật cực quý hiếm, là biểu tượng của vườn quốc gia Cát Bà. Chim quý, đặc biệt là chim Cu Gáy phân bố dọc tuyến Trung Trang – Áng Sỏi, Trung Trang – Mốc Trắng.

Hệ sinh thái biển

Số lượng sinh vật biển của đảo Cát Bà rất đa dạng về thành phần loài, phong phú về số lượng. Điều đó góp phần làm phong phú các nguồn hải sản và nhiều loài đặc sản quý của cá nước lợ và nước biển, làm tăng giá trị, chất lượng các đặc sản địa phương cũng như cảnh quan môi trường nước. Theo thống kê, vùng biển Cát Bà có những loài động thực vật biển với số lượng:

  • Động vật phù du – 98 loài
  • Thực vật phù du – 199 loài
  • Rong biển – 75 loài
  • San hô – 177 loài
  • Thưc vật ngập mặn – 23 loài

Sinh vật biển đảo Cát Bà được đánh giá là phong phú và đa dạng vào bậc nhất của vùng biển đảo miền Bắc Việt Nam. Đây không chỉ là nơi lưu giữ và phát tán nguồn gen lớn của vịnh Bắc Bộ mà còn có nhiều loại có giá trị kinh tế quý hiếm. Rong biển( 8 loài: rong guội, rong đá cong, rong mơ mếm,…),động vật đáy(7 loài: ốc đun đục, trai ngọc,…), bò sát (5 loài: đồi mồi, rùa da, vích,…), chim biển( 4 loài: cốc đế, cò thìa, yến núi, mang biển đen) Khóa luận: Thực trạng hoạt động mùa vụ của du lịch Cát Bà

Ngoài ra, đảo Cát Bà còn thu hút khách du lịch bởi các rạn san hô tại vùng biển Đông Nam đảo kéo dài đến Hang Trai – Đấu Bê rất có giá trị cho bảo tồn và du lịch và cũng là một trung tâm phát tán nguồn gen của Vịnh Bắc Bộ. Tại các rạn này, có nhiều loài cá sinh sông như: cá thìa, các nóc, cá bàng chài,…

Cát Bà có nguồn tài nguyên du lịch tự nhiên khá đa dạng và phong phú, được hình thành bởi đặc điểm tổng hợp các yếu tố địa chất – địa hình, khí hậu, thủy văn, lớp phủ thực vật và thế giới động vật. Điều này đã tạo nên cho Cát Bà một dáng vẻ riêng có thu hút khách du lịch trong và ngoài nước đến với hòn đảo ngọc của vịnh Hạ Long này. Sự kết hợp giữa việc khai thác nguồn tài nguyên quý hiếm này phục vụ du lịch với các hoạt động phát triển bền vững sẽ đem lại cho Cát Bà không chỉ là điểm đến thân thiện của thành phố Hải Phòng mà còn là của đát nước Việt Nam.

Như vậy với địa hình đa dạng, nguồn tài nguyên phong phú, cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ, thơ mộng với bốn bề núi đá vôi lô xô, trập trùng ẩn hiện trong màu xanh bạt ngàn của các cánh rừng nguyên sinh nhiệt đới trên đảo núi đá vôi, các hệ sinh thái cùng các rạn san hô, hệ thống hang động đã tạo cho Cát Bà một sức hấp dẫn đặc biệt. Hiện nay khách du lịch đến với Cát Bà, ngoài sự hấp dẫn của những bãi tắm thì tài nguyên thiên thiên vốn có của Cát Bà cũng làm du khách cảm thấy hứng thú hơn với chuyến đi.

Tuy nhiên vào mùa thấp điểm, tài nguyên du lịch tự nhiên lại chưa phát huy được những lợi thế vốn có của nó. Điển hình là việc khách du lịch khi nhắc đến Cát Bà người ta đã vội nhận định ngay ở đó có biển, giường như khách du lịch chưa thấy được vẻ đẹp và tiềm năng của du lịch tự nhiên nơi đây. Thực trạng vào mùa thấp điểm, tài nguyên du lịch tự nhiên tại đảo Cát Bà chưa được quan tâm và đầu tư một cách nghiêm túc.

Với những lợi thế về tài nguyên du lịch tự nhiên sẵn có, Cát Bà có thể sử dụng chính nguồn tài nguyên này vào giai đoạn mùa du lịch thấp điểm trong năm. Là cơ sở để Cát Bà phát triển loại hình du lịch như: Du lịch nghỉ dưỡng, Du lịch thể thao, Du lịch sinh thái, Du lịch tham quan thắng cảnh, Du lịch cộng đồng.

2.2.2.Tài nguyên nhân văn Khóa luận: Thực trạng hoạt động mùa vụ của du lịch Cát Bà

Tài nguyên du lịch nhân văn là cơ sở để phát triển loài hình du lịch văn hóa, một trong những loại hình du lịch phổ biến nhất trên thế giới. Để đóng góp vào sự phát triển thành công của một vùng thì sự kết hợp giữa hai loại tài nguyên: tự nhiên và nhân văn là hết sức quan trọng. Hơn nữa, nằm trong cùng một quần thể thì sự hỗ trợ bổ sung cho nhau của hai loại hình du lịch: sinh thái và văn hóa là thực sự cần thiết, tạo nên sức hấp dẫn và sự đa dạng cho sản phẩm du lịch của một vùng.

2.2.2.1. Các di tích khảo cổ học

Vùng đất cổ Cát Bà được hình thành từ cuối nguyên đại cổ sinh sớm ( cách ngày nay khoảng 410 triệu năm) nhờ chuyển động tạo núi Celadoni và chế độ lục địa kéo dài suốt nguyên đại Trung sinh ( cách ngày nay khoảng 240 – 267 triệu năm). Các nhà địa chất đã phát hiện được nhiều di tích hóa thạch động vật và thực vật cổ xa lưu giữ trong các trầm tích ở Cát Bà phản ánh những biến cố địa chất lớn và tiến hóa của sự sống hàng trăm triệu năm tại miền đất này.

Cát Bà là một trong những nơi có nhiều di chỉ khảo cổ có giá trị lịch sử thuộc nền văn hóa Hạ Long, nền văn hóa của cha ông từ thời kì dựng nước. Theo kết quả nghiên cứu của các nhà khảo cổ học đã phát hiện ở đây trên 70 di chỉ khảo cổ học thuộc các nền văn hóa Sơn Vi, Soi Nhụ cách đây 2000 – 4000 năm. Họ đã tìm thấy ở dưới lớp đất sâu các công cụ bằng đá ghè, đẽo, các loại chày đá hình tháp, bàn nghiền đá, đồ gốm thô sơ, bếp đun với dấu vết than tro. Lớp đất nông phía trên là những công cụ bằng đá đã được mài, các đồ bằng gốm, đồ trang sức được chế tác tiến bộ,hoa văn đẹp và tinh vi hơn. Những di chỉ này không nằm tập trung mà phân tán ở các khi vực Xuân Đám, Hiền Hào. Đặc biệt là di chỉ Cái Bèo được một nhà khảo cổ học người Pháp phát hiện năm 1938, qua nhiều lần khai quật và kết quả phân tích cho biết người Việt Cổ có mặt ở đây trên 6000 năm.

Tại di chỉ Cái Bèo người ta đã phát hiện một lượng lớn các di vật thuộc thời kì đá mới như Đồ đá, đồ gốm và xương răng động vật. Đồ đá có các loại hình như rìu, đục, công cụ mũi nhọn, bàn mài và các công cụ sản xuất. Đồ gốm được trang trí nhiều hoa văn khác nhau như Văn đan, khắc vạch, văn thừng. Qua các di vật này người ta biết được cư dân ở đây đã biết làm sợi lưới vó và làm nghề đánh bắt hải sản. Khóa luận: Thực trạng hoạt động mùa vụ của du lịch Cát Bà

Theo báo cáo nghiên cứu khảo cổ học Cát Bà của viện khảo cổ học, ở Cát Bà hiện có: trên 20 di chỉ hang động núi đá chứa di tích người tiền sử, 42 di tích chưa di tồn và di vật thời tiền sử, 7 di tích chứa di vật thuộc các thời kì lịch sử, 2 di tích có liên quan đến truyền thuyết lịch sử.

2.2.2.2. Các di tích lịch sử

Tương truyền xưa kia đảo có tên là Các Bà vì nơi đây từng là hậu phương của các ông theo Thánh Gióng đánh giặc Ân, sau đọc chệch ra thành đảo Cát Bà.

Thị trấn Cát Bà hiện nay còn có đền Các Bà trong cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm phương Bắc. Hòn Cẩm Thạch của xã Gia Luận đã từng là nơi tập kết giấu cọc gôc góp phần làm nên chiến thắng quân Nam Hán trong trận Bạch Đằng Giang của Ngô Quyền (938)

Ngôi miếu cổ Văn Chấn, có kiến trúc tinh xảo vào thời kì Hậu Lê (thế kỉ 15).

“Tân tạo thách bia” ở chùa Gia Lộc là một khối đá 4 mặt chạm khắc hoa văn sinh động hiếm thấy được tạo dựng từ thời Cảnh Thịnh tứ niên năm 1797. Đình Đôn Lương có nghệ thuật điêu khắc tuyệt diệu thể hiện được tài nghệ một thời.

Tại xã Xuân Đám còn lại một phần kiến trúc bực tượng thành xếp đá được xây dựng từ thời nhà Mạc thế kỉ 16. Đặc biệt ở chùa Hòa Hy kiến trúc còn tương đối nguyên vẹn, có nhiều pho tượng độc đáo, những nét hoa văn chạm trên bia đá hiếm thấy trên các bia chùa của miền Bắc, hay tấm văn chạm trên bia ở đình làng Hoàng Châu còn lưu danh các sinh đồ Quốc Tử Giám như Nguyễn Khắc Minh, Bùi Quang Trịnh, Vũ Tiến Tước.

Đảo Cát Bà còn là nơi lưu giữ rất nhiều các chiến tích lịch sử trong các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, những chiến thắng oanh liệt của quân dân trên đảo thể hiện tinh thần yêu nước và một nền văn hóa đáng tự hào.

2.2.2.3. Lễ hội Khóa luận: Thực trạng hoạt động mùa vụ của du lịch Cát Bà

Cùng với các di tích lịch sử văn hóa, ở Cát Bà còn có nhiều lễ hội truyền thống của sức hút khách du lịch như:

Lễ ra biển: Được tổ chức tại làng chài Trân Châu vào tháng Giêng âm lịch hàng năm

Lễ đền Hiền Hào: Được tổ chức vào 21 – 1 âm lịch với lễ cầu phúc ở đền Cô – Lễ hội kỉ niệm ngày Bác Hồ về thăm làng cá (1-4-1959) diễn ra vào 1 – 4 dương lịch hàng năm. Đây là lễ hội được tổ chức lớn nhất trong năm với các hoạt động văn hóa sôi nổi như Hội đua thuyền rồng trên biển, đua thuyền thúng, bơi trải,… thu hút được sự chú ý của đông đảo du khách từ mọi miền và đây cũng là cơ hội để Cát Bà quảng bá hình ảnh của mình trước mỗi mùa du lịch bắt đầu.

Hội đền Các Bà được tổ chức vào tháng 10 âm lịch.

Đánh giá tiềm năng về tài nguyên du lịch nhân văn tại đảo Cát Bà

Nếu so với tài nguyên du lịch tự nhiên thì tài nguyên tu lịch nhân văn trên đảo Cát Bà ít phong phú hơn về số lượng, chủng loại. Hiện nay toàn đảo Cát Bà mới chỉ có 4 công trình văn hóa.

Vào mùa thấp điểm lại chỉ có duy nhất một lễ hội là hội đền Các Bà được tổ chức vào tháng 10 âm lịch. Điều này rất khó có thể thu hút khách du lịch đến với đảo Cát Bà vào mùa thấp điểm nếu chỉ dựa vào điều kiện du lịch nhân văn.

2.3.Thực trạng du lịch tại đảo Cát Bà mùa thấp điểm

2.3.1.Thực trạng khách du lịch Khóa luận: Thực trạng hoạt động mùa vụ của du lịch Cát Bà

Với chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của huyện đảo Cát Hải giai đoạn 2015 – 2020, du lịch Cát Bà đã đạt được những kết quả khả quan và đang trở thành ngành kinh tế mũi nhọn mang lại nguồn ngân sách lớn cho địa phương, tạo ra công ăn việc làm cho người dân trên huyện. Năm 2017 việc khánh thành Cầu vượt biển Đình Vũ – Cát Hải (hay còn được gọi là Cầu vượt biển Tân Vũ – Lạch Huyện I) là cầu vượt biển dài nhất Việt Nam và một trong những cầu vượt biển dài nhất Đông Nam Á. Đã tạo điều kiện thuận lợi cho khách du lịch đặc biệt là người dân Hải Phòng, Hà Nội và các tỉnh, thành phố lân cận đã chọn Cát Bà là điểm du lịch ngày lễ, cuối tuần lí tưởng. Bên cạnh đó có cả khách quốc tế, vì vậy lượng khách du lịch đến với Cát Bà ngày một tăng. Số lượng khách đến với Cát Bà năm 2007 chỉ có 729.000 lượt khách nhưng đến năm 2018 đã tăng lên 2.550.000 lượt khách, gấp 3 so với 2007.

Khách nội địa

Khách du lịch nội địa đến Cát Bà bao gồm khách trong thành phố, Hà Nội và các tỉnh khác trong nước. Trong số này hầu hết là những người đến để nghỉ mát vào cuối tuần như thương thân, cán bộ nhà nước, sinh viên, học sinh và gia đình.

Số lượng khách nội địa đến Cát Bà trong năm 2014 chỉ có 660.000 lượt khách nhưng đến năm 2018 đã tăng lên 2.050.000 lượt khách, gấp hơn 3 lần so với 2012. Điều này khẳng định Cát Bà đã trở thành một điểm du lịch hấp dẫn được khách du lịch lựa chọn, và lí do chính làm lượng khách đến Cát Bà tăng là do phương tiện và thời gian để đến đảo Cát Bà đã được đơn giản và rút ngắn di rất nhiều. Khóa luận: Thực trạng hoạt động mùa vụ của du lịch Cát Bà

Tuy nhiên lượng khách du lịch đến với Cát Bà hiện nay chỉ tập trung vào khoảng thời gian từ cuối tháng 5 đến tháng 8 trong năm. Bởi đây là khoảng thời gian mà đảo Cát Bà phát triển mạnh về du lịch biển đảo. Khách du lịch đến với Cát Bà vào dịp này sẽ được đắm chìm vào không gian thoáng mát của biển cả, tránh xa bộn bề công việc với hàng loạt các hoạt động như: tắm biển, thăm vịnh Lan Hạ, câu mực đêm,…

Còn vào các tháng còn lại tức là mùa đông (mùa thấp điểm) thì lượng khách nội địa giảm mạnh bởi quan niệm đã được hình thành từ trước đó rằng “ Mùa hè đi biển, mùa đông lên núi”. Đồng thời do chưa có được sản phẩm du lịch đa dạng, hấp dẫn nên khả năng giữ khách lưu trú dài ngày bị hạn chế. Nhiều đoàn khách nội địa chỉ tổ chức tham quan Cát Bà trong ngày và kết quả sẽ làm giảm số ngày lưu trú của khách du lịch.

Khách quốc tế

Cát Bà nằm gần tỉnh Quảng Ninh, địa phương có cửa khẩu quốc tế với thị trường du lịch to lớn là Trung Quốc, nằm trên đường biển quốc tế, đồng thời lại nằm trong khu di sản thiên nhiên Hạ Long, vì vậy lượng khách đến với Cát Bà trong những năm qua tăng mạnh. Nếu như năm 2014 là 334.000 lượt khách quốc tế đến Cát Bà thì năm 2018 là 660.00 lượt khách.

Khách quốc tế có khoảng thời gian đến du lịch tại đảo Cát Bà đa dạng hơn khách nội địa. Vào mùa vụ của Cát Bà, nơi đây đón các đoàn khách quốc tế bằng đường biển đến từ các nước Mỹ, Anh, Đức, Canada, Trung Quốc… Đặc biệt vào mùa đông (mùa thấp điểm) thì lượng khách quốc tế đến với Cát Bà chiếm trên 80% tổng lượng khách mùa thấp điểm là khách Trung Quốc.

Theo dự báo, lượng khách quốc tế đến với đảo Cát Bà đến năm 2020 là 750.000 lượt khách, và hiện này số lượng này đã ở mức hơn 600.000 lượt khách. Điều này chứng tỏ lượng khách đến với Cát Bà sẽ còn tăng hơn nữa so với dự kiến. Điều đó khẳng định là Cát Bà đang được quan tâm và biết đến rộng rãi, nhưng sự chênh lệch giữa lượng khách vào mùa cao điểm và mùa thấp điểm rất lớn. Tạo nên tính thời vụ rõ rệt tại đảo Cát Bà.

2.3.2. Thực trạng doanh thu và các dự án đầu tư Khóa luận: Thực trạng hoạt động mùa vụ của du lịch Cát Bà

Doanh thu

Theo thống kê UBNN huyện Cát Hải năm 2008 doanh thu đạt trên 390 tỷ đồng, năm 2014 đạt trên 416 tỷ, năm 2018 doanh thu đạt 1.250 tỷ đồng tăng gấp lần so với năm 2014. Trong đó doanh thu phần lớn tăng là do tăng doanh thu từ khách quốc tế, lượng khách có khả năng chi trả cao. Ngoài ra hoạt động du lịch còn giải quyết được hàng nghìn việc làm cho người dân trên đảo và thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển như ngành xây dựng, thủy sản, giao thông vận tải,thương mại, thông tin liên lạc…

Hiện nay doanh thu từ hoạt động du lịch của Cát Bà đang có chiều hướng tăng tích cực. Tuy nhiên nguồn thu này chưa được sử dụng một cách hợp lí đặc biệt là vào công tác bảo vệ môi trường, cơ sở vật chất. Cát Bà chỉ mới tập trung xây dựng hệ thống đường xá giao thông thuận tiên để khách du lịch dễ dàng tiếp cận với đảo Cát Bà hơn. Còn việc lưu trú, cải tạo cảnh quan, đầu tư cơ sở vật chất lại chưa thể đáp ứng thỏa đáng với lượng khách đến với Cát Bà. Đây là vấn đề thuộc cơ chế chính sách mà thành phố Hải Phòng nói chung và huyện Cát Hải nói riêng chưa thật sự quan tâm để bảm bảo cho sự phát triển bền vững của ngành kinh tế được xem là mũi nhọn trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của mình. Khóa luận: Thực trạng hoạt động mùa vụ của du lịch Cát Bà

Dự án đầu tư

Trên địa bàn huyện Cát Hải hiện có tổng số 47 dự án đầu tư từ nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước, trong đó: 17 Dự án Thành phố cấp Giấy chứng nhận đầu tư, 06 dự án mô hình thí điểm liên doanh giữa Trung tâm dịch vụ du lịch và giáo dục môi trường của Vườn Quốc gia Cát Bà với các nhà đầu tư, 24 Dự án do huyện chấp thuận đầu tư.

Tại Cát Bà, nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp chiếm tỷ lệ lớn nhất lên đến 85,37%, nguồn vốn địa phương quản lý là 3,3%; nguồn vốn thành phố đầu tư là 10,13% và do Trung ương đầu tư là 1,2% tổng nguồn vốn có tại địa phương.

Phần lớn quy mô các dự án không lớn, chưa có tính đột phá, cơ sở hạ tầng du lịch biển chưa phát triển đồng bộ và chưa theo kịp xu thế thời đại, không có khách sạn nào có buồng nguyên thủ, buồng suite có số lượng hạn chế. Đây là yếu tố khiến du lịch Cát Bà bị hạn chế sức hút đối với khách cao cấp, bỏ lỡ các cơ hội tổ chức hội thảo, hội nghị quốc tế, khu vực tầm cỡ. Hơn nữa, số lượng khách sạn từ 3 sao trở lên trong tổng số cơ sở lưu trú quá thấp.

2.3.3. Thực trạng nguồn lao động trong ngành du lịch.

Du lịch được coi là một trong những ngành kinh tế trọng điểm của Cát Hải, đặc biệt là Cát Bà, cùng với sự phát triển của hoạt động du lịch, nguồn nhân lực cho du lịch ở đây cũng tăng lên đáng kể. Năm 2008 lượng lao động làm việc trực tiếp và gián tiếp trong ngành du lịch là khoảng 1500 người, năm 2018 khoảng 5600 người lao động.

Tuy nhiên chất lượng đào tạo đội ngũ cán bộ ở đây còn nhiều hạn chế, những người chủ kinh doanh khách sạn, nhà hàng ở khu vực này trình độ còn chưa cao, hơn nữa ít tham gia học hỏi kinh nghiệm nên rất yếu về giao tiếp và quản lý nhân viên phục vụ chưa đào tạo cơ bản nên năng lực còn kém, phục vụ chưa nhiệt tình, chưa chu đáo. Cát Bà thiếu trầm trọng đội ngũ hướng dẫn viên chuyên nghiệp. Hiện nay vấn đề đào tạo bổ sung nhân tực cho đội ngũ cán bộ, công nhân viên và quản lý được quan tâm nhiều hơn, số lượng cũng được sổ sung nhiều hơn nhưng vẫn chưa đáp ứng được đầy đủ chưa tương xứng với tiềm năng khu du lịch Cát Bà và lượng khách du lịch đến với đảo hàng năm. Khóa luận: Thực trạng hoạt động mùa vụ của du lịch Cát Bà

Mặt khác, tính mùa vụ của du lịch Cát Bà cũng làm cho nhân viên rất khó chuyên nghiệp. Vào mùa hè đông khách, dù phục vụ thế nào khách vẫn ào ào kéo vào, thậm chí đoàn khách này vừa ra có ngay đoàn khách khác, họ còn tự dọn bàn ghế cho nhà hàng để có chỗ ngồi. Thực trạng này cũng diễn ra ở khu du lịch Đồ Sơn vào mùa hè khi nhiều nhà hàng thậm chí sử dụng người nhà, thân quen hoặc học sinh tranh thủ nghỉ hè để phục vụ chạy bàn, bê đồ ăn, dọn dẹp,… Rất khó để chủ cơ sở dịch vụ duy trì lượng lao động hàng chục người khi nhà hàng, khách sạn không có khách hoặc ít khách vào mùa thu đông.

Mỗi mùa vụ lại “chạy” một nơi, vào mùa thu đông, các quán đều vắng vẻ, im lìm, không khó để nhận thấy sự thưa vắng của cả khách du lịch và nhân viên các nhà hàng. Tình trạng đìu hiu khách du lịch ở đảo Cát Bà còn điển hình hơn khi ngay cả ngày cuối tuần đường phố du lịch vắng vẻ, các nhà hàng, khách sạn trong cảnh “tối đèn”. Nhiều nhà hàng, nhà nghỉ chọn cách đóng cửa để hạn chế chi phí, nhiều nhà hàng duy trì để “nuôi quân” nhưng cũng rất ít khách qua lại. Trước tình cảnh như vậy, có đến 2/3 lực lượng lao động trong các cơ sở du lịch đi làm việc khác, đến khu vực du lịch sôi động hơn hoặc về quê làm ruộng, tìm việc thay thế. Đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng nhân lực du lịch Hải Phòng kém chất lượng, thiếu chuyên nghiệp. Đến hè năm tới, lại một lực lượng lao động mới xuất hiện. Thực tế hoạt động mùa vụ như trên rất khó để tạo dựng được đội ngũ lao động chuyên nghiệp, lành nghề trong hoạt động du lịch ở Cát Bà.

Một hạn chế khác tồn tại bấy lâu là đào tạo chưa gắn với thực tiễn của ngành Du lịch nói chung, các cơ sở kinh doanh du lịch Hải Phòng nói riêng. Theo ông Ngô Ngọc Tấn, Trưởng phòng Quản lý cơ sở lưu trú và dịch vụ du lịch (Sở Du lịch Hải Phòng), nhà nước mở lớp đào tạo, sẵn sàng bỏ chi phí, mời chuyên gia, tổ chức lớp miễn phí nhưng hiệu quả còn rất hạn chế. Ngay cả việc huy động lao động trong các cơ sở du lịch đến học đã khó, việc họ có thực tâm tiếp thu để áp dụng trong công việc hay chỉ học chiếu lệ, mang tính đối phó lại là câu chuyện khác. Một trong những lý do giải thích việc các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ hiệu quả thấp xuất phát từ chính nhu cầu của người sử dụng lao động. Nếu chủ doanh nghiệp không gắn bó, không chăm sóc và có chế độ tốt với người lao động, người lao động có tâm lý làm việc theo thời vụ.

2.3.4. Thực trạng cơ sở vật chất – kỹ thuật, hạ tầng

2.3.4.1. Cơ sở hạ tầng xã hội

Có thể nói cơ sở hạ tầng xa hội là điều kiện,là nguồn lực quan trọng cho sự phát triển du lịch cộng đồng tại đảo Cát Bà. Hiện nay, về cơ bản, hệ thống đường giao thông trên đảo đã hoàn thành và hoạt động khá tốt. Do đặc thù địa hình đảo Cát Bà cách xa đất liền nên khách du lịch mỗi khi đến đảo thường phải qua nhiều loại phương tiện cả đường thủy và đường bộ, do đó khoảng thời gian khách đến đảo thường mất một buổi. Chính vì lẽ đó, thành phố đã đầu tư xây dựng thêm một con đường mới dẫn vào thị trấn Cát Bà cùng với cầu Đình Vũ – Cát Hải để giúp khách du lịch có thể thuận tiện và rút ngắn quãng thời gian di chuyển. Khóa luận: Thực trạng hoạt động mùa vụ của du lịch Cát Bà

Trên địa bàn huyện cũng có 196 phương tiện tàu, xe ô tô vận chuyển khách du lịch, trong đó 31 tàu lưu trú nghỉ đêm trên vịnh. Ô tô chở khách tại Cát Bà có các loại từ 12 chỗ – 45 chỗ, có một hãng taxi đang hoạt động với 10 chiếc xe loại 4 – 7 chỗ. Ngoài ra còn có 50 xe điện chuyên trở khách du lịch từ khu du lịch ra các bãi tắm và ngược lại… Đặc biệt sau khi có cầu Đình Vũ – Cát Hải, nhiều doanh nghiệp vận tải cũng đã chuyển sang khai thác tuyến mới Cát Bà – Hà Nội, Cát Bà – Lào Cai, Cát Bà – Nam Định… góp phần kết nối du lịch các vùng miền, tạo sự thuận tiện về giao thông cho du khách cũng như nhân dân trên đảo.

Nhờ sự nâng cấp thêm mới về tàu thuyền mà lượng khách du lịch đến Cát Bà ngày càng tăng như: tàu khách tham quan ở Quảng Ninh đưa khách tham quan Cát Bà cập bến tại Bến Bèo năm 2016 là 6.260 lượt khách, tại bến Gia Luận là 3.540 lượt khách. Ngành giao thông vận chuyển hành khách đã có nhiều cố gắng trong việc đầu tư,mua sắm phương tiện và nâng cao chất lượng phục vụ, rút ngắn thời gian đi lại của du khách.

Vào mùa cao điểm thì số lượng phương tiện vận chuyển ở Cát Bà có những ngày vẫn bị quá tải. Năm 2018 lượng khách đến với Cát Bà quá đông gây nên sự ùn tắc tầm trọng tại phà Gót. Các phương tiện du lịch đến đảo Cát Bà còn không có đủ bãi xe để đậu. Dẫn đến tình trạng khách du lịch đến với Cát Bà phải trong tình trạng ùn tắc hàng tiếng đồng hồ.

Với mùa cao điểm thì trong tình trạng quá tải về lưu thông còn vào mùa thấp điểm thì ngược lại. Do lượng khách đến với Cát Bà vào giai đoạn thấp điểm quá ít nên việc di chuyển lưu thông đến đảo Cát Bà dễ dàng và thuận tiện hơn. Với hệ thống các cung đường hiện đại, rộng rãi với 2 làn xe của con đường mới vào thị trấn Cát Bà, cùng với con đường cũ xuyên vườn quốc gia. Khách du lịch khi đi qua 2 con đường này sẽ phần nào thấy được cảnh sắc tuyệt vời mà thiên nhiên đã ban tặng cho đảo Cát Bà. Hứa hẹn một chuyến đi đầy hấp dẫn.

2.3.4.2. Cơ sở vật chất – kỹ thuật Khóa luận: Thực trạng hoạt động mùa vụ của du lịch Cát Bà

Cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất – kỹ thuật là một trong hai điều kiện để phát triển du lịch của một vùng. Nếu như cơ sở hạ tầng mang tính nền tảng cơ bản thì cơ sở vật chất – kỹ thuật lại mang tính thực tiễn và trực tiếp. Nó tạo ra sản phẩm du lịch và quyết định mức độ khai thác sản phẩm. Đây là yếu tố cơ bản có vai trò quan trọng trong việc thu hút và kéo dài thời gian lưu trú của du khách khi đến các điểm du lịch. Trong những năm gần đây, hệ thống cơ sở vật chất – kỹ thuật phục vụ du lịch của Cát Bà đã được cải thiện đáng kể.

Hiện Cát Bà có 63 nhà hàng phục vụ du lịch, 211 cơ sở lưu trú với 3.888 phòng nghỉ, trong đó có 37 cơ sở được thẩm định xếp hạng từ 1- 4 sao. Ngoài ra còn có trên 70 hộ dân trong các khu dân cư thị trấn Cát Bà với trên 300 phòng nghỉ cho khách thuê vào những ngày đông khách. Cát Bà có 66 nhà hàng phục vụ ăn uống trong đó gồm 13 bè nổi tại khu vực thị trấn Cát Bà. Các cơ sở cung ứng dịch vụ mua sắm chủ yếu tập trung tại khu hàng lưu niệm Cát Bà với hơn 60 cửa hàng, gian hàng và chợ thị trấn Cát Bà. Ngoài ra còn các nhà hàng tại 8 khu du lịch nghỉ dưỡng biển cũng như tại các điểm du lịch cộng đồng và Khu hành chính của Vườn quốc gia Cát Bà.

Tuy nhiên vào mùa hè, những ngày cao điểm số lượng phòng vẫn không đủ đáp ứng nhu cầu phòng nghỉ cho khách du lịch đến Cát Bà. Các cơ sở lưu trú đã trú trọng hơn trong việc bổ sung các trang thiết bị, nâng cấp các cơ sở lưu trú nhưng một số cơ sở dịch vụ nhà nghỉ, nhà dân kinh doanh dịch vụ lưu trú còn thiếu trang thiết bị, chất lượng phục vụ kém ảnh hưởng đến uy tín của du lịch Cát Bà. Đặc biệt phần lớn các cơ sở lưu trú chưa được đầu tư thỏa đáng theo hệ thống thu gom, xử lí nước thải, phần lớn được thải trực tiếp ra tự nhiên hoặc chỉ qua bể tự thấm. Đây là tác động đáng kể của hoạt động du lịch đến môi trường Cát Bà. Khóa luận: Thực trạng hoạt động mùa vụ của du lịch Cát Bà

Bên cạnh đó, vào mùa cao điểm các nhà hàng phục vụ ăn uống cũng không tránh khỏi việc quá tải khách. Dẫn đến việc phục vụ và chất lượng ẩm thực còn chưa cao. Các nhà hàng vẫn đôi khi chỉ quan tâm đến số lượng khách và lợi nhuận mà bẵng đi việc chỉ có chất lượng phục vụ và chuyên nghiệp mới có thể khiến khách du lịch họ hài lòng và quay trở lại nhiều lần tiếp nữa.

Đến với Cát Bà hôm nay, chúng ta có thể cảm nhận được sự tấp nập, nhộn nhịp hơn trước rất nhiều lởi kết quả của quá trình đô thị hóa nhanh chóng trong những năm gần đây. Các nhà hàng, khách sạn xây rất nhiều đặc biệt là từ khi có cầu Tân Vũ- Lạch Huyện và con đường bộ thứ 2 đưa khách từ bến phà tới trung tâm thị trấn Cát Bà. Các nhà hàng, khách sạn với đủ kích cỡ kiểu dáng,loại hình lưu trú đa dạng mọc lên bám quanh khu vực thị trấn. Hầu hết là những khách sạn tư nhân được xây dựng tự phát, mạnh ai lấy làm, kĩ thuật và kiểu dáng không đồng nhất, quy mô số lượng phòng chưa cao. Quá trình xây dựng tràn lan ồ ạt, không theo quy hoạch đã tạo nên những dáng vẻ kiến trúc nhấp nhô, khập khiễng, thiếu hài hòa. Nhìn chung tất cả các khách sạn có dạng nhà ống với mặt tiền chỉ 4 – 5 m, chen chân mọc lên như những Contenner chồng xếp lên nhau mà không theo trật tự nào cả.

Hiện tượng các nhà nổi chưa có hệ thống thu gom rác thải nên các chất thải đều được đổ trực tiếp xuống vịnh, cộng thêm một số hộ dân sống trên thuyền, hàng ngày mọi thứ sinh hoạt rác thải đều được vứt hết xuống biển, trong khi đó hệ thống thu gom rác lại không đủ để rác thải nổi trên mặt nước làm ô nhiễm cảnh quan, môi trường ảnh hưởng không nhỏ đến ấn tượng của khách du lịch.

Hoạt động của các cơ sở vui chơi giải trí như sàn nhẩy nhà hàng karaoke, quán bar,… tạo những tiếng ồn lớn gây khó chịu ảnh hưởng đến giấc ngủ của người dân sống quanh khu vực cũng như cho chính du khách.

Đấy là sự ồn ào, lập lập vào mùa hè của Cát Bà. Còn vào mùa đông, hầu hết các nhà hàng khách sạn tại khu vực Cát Bà nằm im lìm, bởi lượng khách du lịch đến với Cát Bà giai đoạn này không nhiều đa phần là khách quốc tế. Khách quốc tế đến với Cát Bà trong mùa thấp điểm này họ sẽ ưu tiên chọn những khách sạn, nhà hàng có chất lượng phục vụ cao, chuyên nghiệp, cơ sở vật chất hiện đại. Điều này càng làm nổi bật lên tính thời vụ tại đảo Cát Bà.

2.3.5. Hoạt động của một số tuyến, điểm du lịch Khóa luận: Thực trạng hoạt động mùa vụ của du lịch Cát Bà

Dựa vào tài nguyên du lịch tự nhiên, tài nguyên du lịch nhân văn và các điều kiện thuận lợi khác của đảo Cát Bà đã tạo nên các tuyến du lịch để khách du lịch có thể tham quan, biết nhiều hơn về đảo Cát Bà Các tuyến du lịch chính tại Cát Bà:

Tuyến thị trấn Cát Bà – Vườn quốc gia – Gia Luận

Tuyến thị trấn Cát Bà – Xuân Đám – Phù Long – Cái Viềng -Tuyến du lịch biển thị trấn Cát Bà – Vịnh Lan Hạ – Hạ Long Xuất phát từ vườn quốc gia Cát Bà có một số tuyến như: -Tuyến trung tâm vườn – Rừng Kim Giao

Tuyến trung tâm vườn – động Trung Trang -Tuyến trung tâm vườn – Ao Ếch

Tuyến trung tâm vườn – Ao Ếch – làng Việt Hải – Vịnh Lan Hạ Các điểm du lịch quan trọng và phổ biến:

Điểm du lịch vui chơi giải trí, tắm biển: các bãi tắm Cát Cò 1, 2, 3, các bãi tắm nhỏ ở Vịnh Lan Hạ.

Hầu hết các tuyến du lịch tạo nên dựa trên sự thuận tiện đường đi của các điểm đến và chuyên về một mảng tài nguyên nhất định. Tuy nhìn vào các tuyến du lịch, khách du lịch đã cảm nhận được phần nào về các điểm tham quan tại Cát Bà. Nhưng mặt khác các tuyến du lịch này đa phần đều là tuyến du lịch truyền thống, chưa có sự đột phá và sự thay đổi phù hợp, linh hoạt cho cả mùa cao điểm và mùa thấp điểm.

Thực tế vào mùa thấp điểm các tuyến du lịch quan trọng và phổ biến của Cát Bà lại ít khách du lịch lựa chọn. Thay vào đó họ sẽ lựa chọn các tuyến trong Vườn quốc gia. Nhưng hiện nay các tuyến trong vườn quốc gia lại quá ngắn, và chưa có sự hấp dẫn đặc biệt để khách du lịch có thể lưu tâm đến. Cát Bà có một lợi thế rất lớn về tài nguyên rừng nhưng lại chưa được đầu tư khai thác đúng với tiềm năng của nó vốn có.

Các tuyến du lịch bán chạy vào mùa đông hiện nay trên thị trường du lịch đa phần là các tuyến du lịch vùng Đông – Tây Bắc. Bởi sự hấp dẫn về cảnh quan núi rừng tự nhiên và sức hấp dẫn của các phong tục tập quán của các dân tộc thiểu số. Xét về Cát Bà, yếu tố tự nhiên hoàn toàn có thể đáp không hề thua kém cảnh núi rừng Tây Bắc. Thậm chí Cát Bà còn thuận tiện về đường đi hơn rất nhiều, mà khi đến đây du khách vẫn cảm nhận được một không gian núi rừng tự nhiên – một khu dự trữ sinh quyển của thế giới.

Tiểu kết chương 2:

Trong chương 2 tác giả đã phân tích và nêu lên những tài nguyên du lịch và thực trạng du lịch tại đảo Cát Bà cũng như hiện trạng du lịch mùa thấp điểm. Kết quả phân tích cho thấy:

Cát Bà có một tiềm năng du lịch rất phong phú, đa dạng với hệ thống rừng, biển, đảo, sự đa dạng sinh học cao cùng với nhiều loài động thực vật đặc hữu được ghi vào trong sách đỏ thế giới như: Cây Kim Giao, Voọc đầu trắng,…

Hoạt động du lịch tại đảo Cát Bà hiện nay có thể thấy là ngày càng phát triển và trong tương lai sẽ còn phát triển hơn nữa. Biểu hiện rõ ràng ở doanh thu đạt được và những mục tiêu đề ra qua từng năm. Hoạt động du lịch đã đóng góp một lượng lớn vào ngân sách huyện Cát Hải cũng như thành phố Hải Phòng, đồng thời cũng đã giải quyết được một số lượng lớn về việc làm cho người lao động.

Bên cạnh đó Cát Bà cũng gặp phải vấn đề bất cập về tính thời vụ trong du lịch, tác động không hề nhỏ đến cư dân sở tại, chính quyền địa phương, khách du lịch và các nhà kinh doanh du lịch. Khóa luận: Thực trạng hoạt động mùa vụ của du lịch Cát Bà

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY

===>>> Khóa luận: Giải pháp phát triển du lịch Cát Bà mùa thấp điểm

One thought on “Khóa luận: Thực trạng hoạt động mùa vụ của du lịch Cát Bà

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Contact Me on Zalo
0906865464