Tiểu luận:Liên Hợp Quốc và các khía cạnh pháp lý

Chia sẻ cho các bạn bạn sinh viên ngành luật bài Tiểu luận:Liên Hợp Quốc và các khía cạnh pháp lý. Hiện nay có rất nhiều bạn sinh viên đang có một vấn đề chung là gặp khó khăn trong khi viết bài: luận văn, khóa luận, báo cáo, tiểu luận. Biết được điều đó nên mình đã ở đây để hỗ trợ cho các bạn những bài tiểu luận hay nhất. Hãy liên hệ với mình khi các bạn chưa lên được ý tưởng cho bài làm của mình nhé.

 LỜI MỞ ĐẦU :

Vấn đề hạt nhân đã và đang là mối quan tâm lớn của toàn thế giới. Thực tế các công nghệ hạt nhân đang được đưa vào sử dụng ngày càng nhiều trong các công trình phục vụ mục đích dân sự; tuy nhiên, cuộc chạy đua vũ trang – sản xuất vũ khí hạt nhân cũng ngày càng diễn ra với cường độ mạnh mẽ không kém. Hai thực tiễn sử dụng này khiến cho quan hệ quốc tế bị ảnh hưởng khá lớn: vấn đề làm thế nào để phân biệt hay cụ thể là đảm bảo các nước chỉ xây dựng các chương trình hạt nhân vì mục đích hòa bình (trừ một số nước theo qui đinh của Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân). Trong số các quốc gia đang sở hữu công nghệ này, Iran và Bắc Triều Tiên hiện là những vấn đề nổi bật nhất trong quan hệ quốc tế, và thậm chí được cho là có thể phá hoại hòa bình và an ninh quốc tế.

Trước lo ngại trên, Liên hợp quốc đã có những biện pháp liên tục nhằm xoa dịu những nguy cơ hạt nhân thực hiện trách nhiệm được đa số các quốc gia giao cho theo qui định tại Điều 1 của Hiến chương LHQ. Cụ thể:

“Liên Hợp Quốc theo đuổi những mục đích sau:

Duy trì hoà bình và an ninh quốc tế, và để đạt được mục đích đó, thi hành những biện pháp tập thể có hiệu quả để phòng ngừa và loại trừ các mối đe doạ hoà bình, cấm mọi hành vi xâm lược và phá hoại hoà bình khác; điều chỉnh hoặc giải quyết các vụ tranh chấp hoặc những tình thế có tính chất quốc tế có thể đưa đến sự phá hoại hoà bình, bằng phương pháp hoà bình theo đúng nguyên tắc của công lý và pháp luật quốc tế;”

Trong thực tiễn hoạt động, để tiến hành những bước giải quyết vấn đề hạt nhân này, LHQ mà cụ thể là Hội đồng bảo an hoạt động tích cực sôi nổi và đã thông qua rất nhiều nghị quyết để yêu cầu Iran và Bắc Triều Tiên hợp tác tái duy trì hòa bình và an ninh quốc tế. Đối với cả hai trường hợp này, Hội đồng bảo an đều phải áp dụng chương VII của Hiến chương LHQ đưa ra những biện pháp cứng rắn để áp đặt với cả hai quốc gia này. Cụ thể, các biện pháp đó sẽ được phân tích trong từng Nghị quyết của HĐBA ở các phần tiếp theo.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Bảng Giá Viết Thuê Tiểu Luận Môn

I. KHÁI QUÁT CHUNG

1.Khái quát về Iran 

  • Cộng hoà hồi giáo Iran, tên gọi đơn giản là Iran, là một quốc gia ở Trung Đông, nằm ở phía Tây Nam châu Á. Trước 1935, tên gọi của nước này là Ba Tư.
  • Thủ đô: Tehran.
  • Iran giáp với Armenia, Azerbaijan và Turkmenistan ở phía Bắc, Pakistan và Afghanistan ở phía Đông, Iraq và Thổ Nhĩ Kỳ ở phía Tây. Iran giáp biển Caspia về phía Bắc. Vịnh Ba Tư (thuộc Iran) là vùng vành đai nông của Ấn Độ Dương nằm giữa bán đảo Ả Rập và vùng Tây Nam Iran

2.Vấn đề hạt nhân Iran

Chương trình hạt nhân Iran đã kéo dài 50 năm, bắt đầu từ một lò phản ứng mua từ Mỹ năm 1959. Vào những năm 1990, Iran lên kế hoạch xây dựng 23 lò phản ứng hạt nhân. Tuy nhiên, kế hoạch này không được xem là bước chuẩn bị cho chương trình hạt nhân bởi lúc này Iran không tìm kiếm công nghệ làm giàu nhiên liệu. Trên thực tế đã có những nghi ngại nhất định về chương trình hạt nhân của Iran. Chương trình hạt nhân Iran tạm ngừng trong thời gian giữa cuộc cách mạng Iran 1979 và thời điểm kết thúc cuộc chiến tranh giữa Iraq và Iran. Hiện tại, Iran đang có kế hoạch khá tham vọng là xây dựng 7 nhà máy điện hạt nhân đến năm 2025. Cũng như những gì Iran đã lập luận trong những năm 1970s, nhà máy điện hạt nhân là cần thiết cho nhu cầu năng lượng trong nước ngày càng tăng, trong khi dầu và kam pháhí đốt là để thu hút ngoại tệ.

Iran đã khẳng định rất nhiều lần là chương trình hạt nhân của Iran là để phục vụ cho mục đích hoà bình. Người phát ngôn của chính phủ Iran Gholam Hussein Elht biểu vào tháng 7 năm 2006 rằng Iran sẽ không bao giờ sản xuất vũ khí huỷ diệt hàng loạt. Cũng vào lúc đó, lãnh đạo tối cao ở Iran Ali Khamanei khẳng định rằng Iran sẽ không bao giờ từ bỏ chương trình làm giàu Uranium. Chương trình làm giàu uranium có thể được dùng cho cả mục tiêu quân sự lẫn dân sự. Tuy nhiên, hai thập kỷ làm giàu uranium trong bí mật của Iran đã làm cho thế giới nghi ngờ về ý định thật sự của Iran đối với chương trình hạt nhân này.

II. CÁC NGHỊ QUYẾT CỦA HỘI ĐỒNG BẢO AN VỀ VẤN ĐỀ IRAN

A. NGHI QUYẾT 1696 CỦA HĐBA LHQ Tiểu luận:Liên Hợp Quốc và các khía cạnh pháp lý

1.Hoàn cảnh ra đời:

  • Tháng 2/2006, Iran khôi phục chương trình làm giàu theo sau nghị quyết ngày 04/12 của IAEA báo cáo lên HĐBA và đe dọa sẽ rút khỏi Hiệp ước cấm phổ biến.
  • Ngày 29/3/2006 HĐBA kêu gọi Iran ngừng chương trình hạt nhân nhưng Iran từ chối thông báo này và tái khẳng định Iran có quyền đối với công nghệ làm giàu uranium vì mục đích dân sự. Hơn nữa, Iran xác nhận dự định không ngừng bất kì hoạt động hạt nhân nào.
  • 5 thành viên thường trực và Đức cho rằng Iran đã không thực hiện các bước cần thiết cho phép bắt đầu đàm phán và do vậy không còn cách nào khác là đưa lại vấn đề cho HĐBA. Họ bắt đầu thảo luận về bản dự thảo nghị quyết cứng rắn hơn đối với Iran.

2. Nội dung chính của nghị quyết 1696:

Nghị quyết 1696 được thông qua ngày 31/7/2006, nghị quyết khẳng định Hội đồng Bảo an sẽ xem xét áp dụng “các biện pháp thích hợp” theo điều 40, Chương 7 của Hiến chương LHQ, liên quan đến trừng phạt kinh tế nếu Iran không tuân thủ thời hạn chót vào ngày 31/8 để ngừng làm giàu uranium và mở cửa cho các cơ quan thanh sát quốc tế.

Cụ thể các điều khoản trong Nghị quyết như sau:

  • Yêu cầu Iran phải chứng minh được rằng Chương trình hạt nhân của Iran chỉ với mục đích hoà bình,
  • Yêu cầu Iran ngừng tất cả các việc làm giàu và tái sản xuất uranium,
  • Lên án hoạt động trì hoãn của Iran cũng như yêu cầu Iran thực hiện đầy đủ và xác thực các yêu cầu của ban lãnh đạo IAEA, khuyến khích Iran, phù hợp với các điều khoản trên, tham gia trở lại vào cộng đồng quốc tế và IAEA, và nhấn mạnh những cam kết này sẽ mang lại lợi ích cho Iran,
  • Trung Quốc, Pháp, Đức, Liên Bang Nga, Vương Quốc Anh và Mỹ, cùng với sự ủng hộ của Thượng viện EU sau 1 thời gian dài chuẩn bị, đã phê chuẩn đề xuất S/2006/521 cho phép phát triển quan hệ và hợp tác với Iran trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau và thiết lập sự tin cậy quốc tế với Chương trình hạt nhân vì mục đích hoà bình của Iran (the establish ment of international confidence in the exclusively peaceful nature of Iran’s nuclear programme).
  • Kêu gọi các quốc gia phù hợp với thẩm quyền hợp pháp của mình và phù hợp với luật quốc tế, phòng chống việc vận chuyển bất cứ thiết bị, nguyên liệu, hàng hoá và công nghệ mà có thể góp phần vào hoạt động tái sản xuất và làm giàu uranium và các chương trình tên lửa đạn đạo,
  • Nhấn mạnh sự cần thiết của việc IAEA tiếp tục công việc xác minh tất cả các vấn đề nổi bật có liên quan tới Chương trình hạt nhân của Iran, và yêu cầu Iran thực hiện theo đúng những điều khoản của Nghị định thư Bổ sung và thực hiện mà không trì hoãn các giải pháp mà IAEA yêu cầu trong việc hỗ trợ những khảo sát tiếp theo của IAEA.
  • Trong trường hợp Iran không tuân thủ nghị quyết này khi đến thời hạn (ngày 31 tháng 8), sẽ áp dụng các biện pháp phù hợp theo điều 41, chương VII của Hiến chương LHQ để thuyết phục Iran tuân thủ nghị quyết này và các yêu cầu của IAEA.

3. Phản ứng của các nước Tiểu luận:Liên Hợp Quốc và các khía cạnh pháp lý

a. Phản ứng của các quốc gia khác

Quata là quốc gia Arập duy nhất trong HĐBA lúc này, và cũng là thành viên duy nhất bỏ phiếu chống đối với nghị quyết 1696. Mặc dù quốc gia này vẫn lo ngoại về tham vọng hạt nhân của Iran, cũng như vị trí địa lý của Quatar là ở gần các nhà máy năng lượng hạt nhân đang xây dựng tại Bushehr của Iran, nhưng đại sứ Quata khẳng định rằng ông không đồng ý với nghị quyết này của HĐBA. Ông cho rằng nhẽ ra hội đồng nên đợi thêm một vài ngày nữa để xem xét thiện chí của Iran trong việc hợp tác, nhấtlà khi Iran không phản đối đề xuất ngày 6 tháng 6 của 5 thành viên thường trực cộng Đức.

Mỹ:

Phát ngôn viên của Mỹ bày tỏ sự đồng ý và hài lòng đối với hành động rõ ràng và quyết liệt của HĐBA khi thông qua nghị quyết 1696. Chương trình hạt nhân của Iran là một mối đe doạ trực tiếp đến hoà bình và an ninh quốc tế. Mỹ còn gửi thông điệp đến Iran qua lời phát biểu của phát ngôn viên là Mỹ và các nước khác sẽ hành động nhân danh LHQ nếu như Iran không tuân thủ nghị quyết này bằng các biện pháp như cấm vận hoặc sử dụng các biện pháp theo điều 41 của HCLHQ

Pháp:

Phát ngôn viên bộ ngoại giao của Pháp nói: Pháp với tư cách là đồng soạn thảo nghị quyết, tán thành với nghị quyết này, thể hiện một bước tiếp quan trọng trong việc giải quyết đa phương vấn đề hạt nhân của Iran và cho thấy sự quan tâm lớn của cộng đồng quốc tế. Pháp nhấn mạnh rằng nghị quyết đã cho Iran một thời hạn (deadline) để lựa chọn giữa việc đối thoại hay bị cô lập. Đồng thời, Pháp cũng nhấn mạnh thêm rằng những đề xuất của P5+1 vẫn còn hiệu lực nếu như Iran chấp nhận từ bỏ chương trình hạt nhân của mình thay vào đó là chương trình hạt nhân vì mục đích dân sự với sự giúp đỡ của các nước trong đó có Pháp.

Trung Quốc và Nga:

Hai nước này lập luận chống lại những đề cập cụ thể về lệnh trừng phạt và nhấn mạnh rằng Hội đồng Bảo an sẽ phải tiếp tục bàn thảo về việc nên áp dụng các biện pháp nào nếu Iran không đáp ứng thời hạn chót.

Tuy nhiên cả hai nước này muốn Iran chấp nhận nội dung gói đề xuất và chứng minh cho cả thế giới biết rằng chương trình hạt nhân của mình là nhằm sản xuất điện chứ không phải chế tạo bom nguyên tử.

Anh:

Đại sứ Anh tại LHQ John Bolton chúc mừng nghị quyết trên.

“Đây là nghị quyết đầu tiên của Hội đồng Bảo an về Iran trước chương trình vũ khí hạt nhân của nước này, phản ánh tính nghiêm trọng của tình hình và quyết tâm của Hội đồng”, ông nói. “Chúng tôi hy vọng nghị quyết này sẽ chứng minh cho Iran thấy rằng cách tốt nhất để chấm dứt sự cô lập quốc tế đơn giản là từ bỏ tham vọng vũ khí hạt nhân”.

b. Phản ứng của Iran

Đại sứ Iran tại LHQ Javad Zarif kịch liệt phản đối động thái trên.

Mỹ và các nước khác cáo buộc Iran đang cố gắng chế tạo vũ khí hạt nhân song nước Iran khẳng định chương trình hạt nhân của họ chỉ phục vụ mục đích hòa bình. “Chương trình hạt nhân hòa bình của Iran không gây ra bất cứ một mối nguy hại nào cho hòa bình và an ninh quốc tế, do vậy giải quyết vấn đề này trong Hội đồng Bảo an là tùy tiện và bỏ qua mọi cơ sở hợp pháp hoặc lợi ích thiết thực”, ông Zarif nói.

Vì thế, Iran cho rằng HĐBA đã hành động không dựa trên cơ sở hợp pháp. Iran cho rằng hành động của HĐBA với mục đích bắt buộc Iran ngừng các chương trình làm giàu Uranium là vi phạm luật pháp quốc tế, Hiệp ước cấm phổ biến vũ khí hạt nhân và nghị quyết của IAEA. Điều này cũng trái với quan điểm của hầu hết các nước thành viên LHQ.

Iran là thành viên của Hiệp ước Không phổ biến Vũ khí hạt nhân (NPT) song nước này nói rõ rằng họ có quyền theo đuổi việc sản xuất điện hạt nhân trong phạm vi các điều khoản của hiệp ước này. Cơ chế mà NPT thiết lập ra đưa lại quyền lợi chính đáng cho các thành viên của nó và đồng thời nó cũng cân bằng giữa quyền lợi và nghĩa vụ. Iran cho rằng không công bằng khi những kẻ coi thường NPT, đặc biệt là thủ phạm của những vụ tàn sát gần đây tại Lebanon và Palestine lại được hưởng những thoả thuận rộng lượng về hợp tác hạt nhân ” Đây là bước tụt lùi để đảm bảo NPT và đảm bảo tính toàn cầu của nó.”

4. Đánh giá, phân tích nghị quyết Tiểu luận:Liên Hợp Quốc và các khía cạnh pháp lý

  • Vấn đề nổi bật gây nhiều tranh cãi nhất đối với nghị quyết 1696 liên quan đến việc HĐBA áp dụng chương VII của Hiến chương LHQ. Nghị quyết 1696 viết HĐBA hành động “theo điều 40 chương VII của hiến chương LHQ nhằm làm cho việc đình chỉ được yêu cầu bởi IAEA trở thành bắt buộc. Điều 40 qui định về các biện pháp tạm thời nhằm ngăn tình trạng trầm trọng thêm của một tình hình mà HĐBA đã xác định là đe doạ hoà bình và an ninh quốc tế theo điều 39. Nhưng nghị quyết 1696 dường như đi ngược lại so với nguyên tắc truyền thống này. Trong nghị quyết 1696 không hề có sự khẳng định chương trình hạt nhân của Iran là đe doạ hoà bình và an ninh thế giới, chỉ có 1 đoạn nói đến nguy cơ phổ biến vũ khí hạt nhân của Iran như sau : “Concerned by the proliferation risks presented by the Iranian nuclear programme, mindful of its primary responsibility under the Charter of the United Nations for the maintenance of international peace and security, and being determined to prevent an aggravation of the situation”
  • Như vậy có thế nói là HĐBA đã chỉ sử dụng điều 40 để làm cho những yêu cầu của HĐ đối với Iran mang tính ràng buộc mà không cần phải thực hiện việc xác định đe doạ hoà bình an ninh quốc tế qua điều 39 nữa. Và có thể đây sẽ là kiểu mẫu chứng tỏ HĐBA có thể có rất nhiều cách thực hiện ý định làm cho 1 nghị quyết trở nên ràng buộc. (có thể lập luận theo điều 25 để làm cho nghị quyết này có tính ràng buộc)
  • Trong bản dự thảo vào tháng 5 có dẫn chiếu đến điều 39, nhưng ở nghị quyết này thì không có việc dẫn chiếu đó. Đặc biệt là từ “threat”- nguy cơ đe doạ không được sử dụng trong cả bản nghị quyết này. Phải chăng việc này nhằm làm giảm bớt ảnh hưởng của chương VII đối với bản nghị quyết, mà ảnh hưởng này cuối cùng có thể dẫn tới việc sử dụng vũ lực ở điều 42. Thêm nữa là từ “decides” – quyết định cũng không được sử dụng trong nội dung chính mà thay vào đó là các từ như kêu gọi, yêu cầu (calls upon, requests, demands) để có thể là nhằm làm cho giọng điệu của nghị quyết này trở nên mềm mỏng hơn.
  • Việc HĐBA cho Iran thời hạn đến ngày 31 tháng 8, chỉ sau 9 ngày so với thời hạn mà Iran yêu cầu là 22 tháng 8 để trả lời cho gói đề xuất của các nước lớn. Điều này đặt ra nghi vấn như đại sứ Qatar đã nói là tại sao HĐBA lại hành động như vậy. Dường như là tính cấp bách của bản nghị quyết này chỉ là nhân tạo, và có vẻ còn làm tình hình xấu thêm (in flame).

Các câu hỏi đặt ra:

  • Phải chăng là do vấn đề hạt nhân của Iran chưa được làm rõ (IAEA is unable to conclude that there are no undeclared nuclear materials or activities in Iran) nên bản nghị quyết đã ko dẫn chiếu đến điều 39? Không có cơ sở cho việc tìm ra nguy cơ đe doạ hoà bình an ninh quốc tế đối với chương trình hạt nhân của Iran. Theo các chuyên gia độc lập và giám đốc cơ quan tình báo Mỹ thì nếu Iran có ý định chế tạo vũ khí hạt nhân, Iran còn phải mất vài năm nữa mới có thể chế tạo được 1 số loại vũ khí hạt nhân đơn lẻ, và ít nhất là 1 thập kỉ nữa để có khả năng triển khai đầu đạn hạt nhân.

Điều này có là nhằm làm giảm bớt hậu quả của hành động có vẻ như hơi vội vã của HĐBA khi thông qua nghị quyết này? Liệu việc thông qua nghị quyết này của HĐBA có phải là do chịu tác động của sức ép chính trị? Sau đó, HĐBA thông qua 1 nghị quyết mới

B. NGHỊ QUYẾT 1737

1. Hoàn cảnh ra đời: Tiểu luận:Liên Hợp Quốc và các khía cạnh pháp lý

  • Nhấn mạnh tầm quan trọng của những nỗ lực ngoại giao và chính trị để tìm ra giải pháp đảm bảo rằng chương trình hạt nhân của Iran là thực sự vì mục đích hoà bình.
  • HĐBA quyết định đưa ra những biện pháp phù hợp để buộc Iran phải tuân theo Nghị quyết 1696 và yêu cầu của IAEA. Do những nguy cơ phổ biến vũ khí hạt nhân trong chương trình hạt nhân của Iran, cộng với sự khăng khăng không tuân thủ yêu cầu của IAEA, HĐBA lưu ý đến trách nhiệm cơ bản của mình theo Hiến chương của LHQ là bảo vệ hoà bình và an ninh quốc tế.
  • Ngày 23 tháng 12 năm 2006, HĐBA đã thông qua lệnh cấm vận để ngừng chương trình phát triển hạt nhân của Iran. Nghị quyết này được chuẩn bị bởi Đức và 5 thành viên thường trực của HĐBA, biểu hiện qua nhiều tháng đàm phán để đưa ra những lệnh cấm vận hoàn chỉnh đáp trả lại việc không tuân thủ yêu cầu của HĐBA của Iran.

2.Nội dung chính:

Nghị quyết 1737 theo điều 41 của chương VII Hiến chương, HĐBA quyết định rằng Iran nên ngay lập tức ngừng các hoạt động phổ biến hạt nhân như sau: tất cả các hoạt động liên quan đến làm giàu và xử lí lại, bao gồm nghiên cứu và phát triển; và việc nghiên cứu tất cả các dự án liên quan đến nước nặng, bao gồm việc xây dựng một lò phản ứng nghiên cứu vận hàng bởi nước nặng. Việc dừng các hoạt động này sẽ được xác nhận bởi IAEA.

Đặc biệt, HĐBA quyết định rằng tất cả các quốc gia nên ngăn việc cung cấp, bán hoặc vận chuyển thiết bị hoặc công nghệ có liên quan vì lí do sử dụng hoặc đem lại lợí ích cho Iran, nếu quốc gia thấy những yếu tố đó sẽ góp phần vào hoạt động làm giàu, xử lí lại hay có liên quan đến nước nặng, hoặc góp phần vào sự phát triển hệ thống phân phối vũ khí hạt nhân.

Lệnh cấm vận lần này bao gồm xuất khẩu và nhập khẩu giữa Iran và tất cả các quốc gia các nguyên vật liệu, kĩ thuật được sử dụng trong quá trình làm giàu hạt nhân và tên lửa đạn đạo. Nghị quyết cũng kêu gọi tất cả các quốc gia đóng băng tài sản của 12 cá nhân và 10 thực thể liên quan tới vấn đề hạt nhân và chương trình chế tạo tên lửa đạn đạo của Iran cũng như đề phòng việc các cá nhân và thực thể này nhập cảnh, quá cảnh qua lãnh thổ của chính các quốc gia.

Hội đồng yêu cầu một bản Báo cáo của Giám đốc IAEA trong vòng 60 ngày về việc liệu Iran có đình chỉ đầy đủ và liên tục các hoạt động được đề cập trong nghị quyết không, cũng như về quá trình tuân theo các bước của Iran được yêu cầu bởi uỷ ban IAEA. HĐBA quyết định sẽ giải quyết vấn đề Iran sau khi xem xét bản báo cáo và đình chỉ việc triển khai các biện pháp, nếu hoặc miễn là Iran đình chỉ các hoạt động làm giàu và xử lí lại.

HĐBA cũng thiết lập 1 uỷ ban mới dựa trên các thành viên của Hội đồng, để quan sát việc thực thi văn bản hiện tại và đưa ra những cá nhân hay thực thể khác vào trong những điều mà lệnh cấm vận áp dụng. Uỷ ban sẽ chịu trách nhiệm đưa ra các hành động phù hợp với sự xâm phạm vào phê chuẩn này, xem xét những yêu cầu miễn trừ, đưa thêm những cá nhân hay thực thể vào trong các biện pháp xử lí và sẽ thông báo ít nhất là trong vòng 90 ngày tới HĐBA về việc thực hiện các nghị quyết. Tất cả các quốc gia phải thông báo lại cho HĐ trong vòng 60 ngày về những bước mà họ đã làm để thực hiện những điều khoản tương đương trong nghị quyết.

3.Phản ứng của các nước Tiểu luận:Liên Hợp Quốc và các khía cạnh pháp lý

a. Phản ứng của các nước khác

Mỹ:

Đại diện của Mỹ nhấn mạnh rằng việc thông qua nghị quyết này đã gửi cho Iran một thông điệp rằng đã có những phản ứng gay gắt vì sự không tôn trọng và thách thức liên tục SC. Ông ta hy vọng nghị quyết này sẽ thuyết phục Iran rằng cách tốt nhất để đảm bảo an ninh và chấm dứt bị cô lập là dừng chương trình vũ khí hạt nhân và tiến hành những bước được vạch ra trong văn bản và ông ta hy vọng vào sự đáp lại không điều kiện và ngay lập tức. Văn bản đã được đưa ra với một nền tảng quan trọng cho hành động và cấm các thành viên phải từ chối các thiết bị, công nghệ và sự trợ giúp kĩ thuật và tài chính để phục vụ các hoạt động hạt nhân của Iran. Với thái độ không ủng hộ Iran, US sẽ đưa ra trước SC những hành động xa hơn nữa.

Anh:

Đại diện của Anh cho rằng việc thông qua nghị quyết của Hội đồng bảo an vào ngày

  • tháng 7 yêu cầu Iran đình chỉ những hoạt động được đề cập ở trên và rằng quốc gia này đã hoàn toàn coi thường và không tuân thủ luật pháp quốc tế. Nếu Iran không thay đổi cách hành xử này, hội đồng sẽ tiến hành những biện pháp tăng cường, trong văn bản ngày hôm nay. Do đó, Iran đối mặt 1 sự lựa chọn và sự ủng hộ ngày hôm nay đã chỉ ra tính nghiêm trọng của lựa chọn đó. Ông hy vọng Iran sẽ lưu ý đến quyết định của hội đồng và quay trở lại đàm phán để giải quyết hồ sơ hạt nhân và rằng lần lượt sẽ mở đường cho liên minh châu âu và iran bắt đầu một mối quan hệ nới ra rộng hơn vì lợi ích của nhau và vì lợi ích của hoà bình và an ninh quốc tế.

Nga:

Sự công kích chính của nghị quyết là sự ủng hộ của hội đồng đối với các hoạt động của IAEA về những vấn đề trong tầm tay. Những cuộc hội đàm dài và khó khăn đã tập trung vào việc thông qua những biện pháp mà Iran cần để đảm bảo lòng tin vào chương trình hạt nhân mà đã được trình bày bởi uỷ ban IAEA. Hợp tác với Iran trong các lĩnh vực mà Nghị quyết không cấm là phù hợp với các quy định trên. Trong văn bản này, các biện pháp được áp dụng phải được tuân theo điều 41 của Hiến chương, và không cho phép sử dụng vũ lực.

Trung Quốc :

Đại diện của Trung Quốc cho rằng những biện pháp cấm vận này chưa phải đã kết thúc, và nó có ý nghĩa kêu gọi Iran trở lại đàm phán. Các lệnh cấm vận trong nghị quyết này đã được giới hạn và có khả năng bãi bỏ. Cũng có các điều khoản rõ ràng rằng nếu Iran đình chỉ các hoạt động liên quan đến làm giàu và tái xử lí hạt nhân phù hợp với Nghị quyết của HĐBA và yêu cầu của IAEA thì HĐBA sẽ đình chỉ thậm chí cắt hoàn toàn những cấm vận đó. Trung Quốc nhấn mạnh thiện chí phát triển mối quan hệ hợp tác với Iran của các nước và thiết lập lòng tin của cộng đồng quốc tế với chương trình làm giàu hạt nhân với mục đích hoà bình. Tiểu luận:Liên Hợp Quốc và các khía cạnh pháp lý

b.Phản ứng của Iran

Hội đồng Bảo an đã áp đặt lệnh cấm vận đối với 1 thành viên của Hiệp ước chống phổ biến vũ khí hạt nhân. Nước này đã đặt tất các các cơ sở hạt nhân theo sự quan sát của IAEA. Việc đưa chương trình hạt nhân vì mục đích hoà bình của Iran ra HĐBA bởi 1 thành viên cụ thể là Mĩ không phải nhằm mục tiêu giải quyết vần đề mà chỉ là việc ép buộc Iran từ bỏ quyền của mình theo như Hiệp ước NPT về công nghệ hạt nhân. Ông ta đã không chấp nhận Nghị quyết này với lí do đây là những đòi hỏi trái quy định của luật pháp. Cũng trong thời gian này, Iran đã tiếp tục đi tới những biện pháp để làm dịu đi mối quan tâm hạt nhân. Iran không cần phải xây dựng lòng tin vì lòng tin vì nó chỉ có thể có được nếu việc tuân thủ luật quốc tế và các hiệp ước quốc tế một cách công bằng. Trong Nghị quyết đưa ra vào tháng 12 năm 2006, các lệnh cấm vận dành cho Iran khi nước này không chấm dứt chương trình làm giàu hạt nhân của mình theo như thời hạn mà HĐBA đưa ra. Iran viện dẫn rằng nước này có quyền tiếp tục phát triển vũ khí hạt nhân theo Hiệp ước NPT được kí vào năm 1970, cho phép Iran được phát triển hạt nhân với mục tiêu hoà bình dưới sự quan sát của IAEA.

4. Đánh giá

  • UN đã chậm trễ trong việc đưa ra những lệnh trừng phạt Iran. Các quốc gia thành viên tránh Nghị quyết này có thể vì nó xung đột với lợi ích riêng của họ. Tương tự với trường hợp UN là bị chỉ trích không giải quyết tình trạng ở Dafur một cách hiệu quả. HĐBA đã thông qua các nghị quyết để kêu gọi chính phủ Xuđăng giải trừ vũ trang của quân phiến loạn Janjaweed, và gửi lực lượng gìn giữ hoà bình ở đó. Tuy nhiên những hành động này không mang lại kết quả. Người ta mong đợi HĐBA đưa ra những hành động mạnh mẽ để triển khai lực lượng gìn giữ hoà bình 1 cách có trật tự để bảo vệ người dân ở đây. Trung Quốc phụ thuộc vào khu vực này vì vấn đề dầu mỏ nên đã tạo cơ hội cho Chính Phủ Xuđăng chống lại sự can thiệp này. Do lợi ích của riêng mỗi quốc gia mà UN tiếp tục bị động khi đối mặt với việc hối thúc những vấn đề quốc tế.
  • Lần này, UN cũng bị chỉ trích vì đã chậm trễ đưa ra những hình phạt dành cho Iran vì lợi ích kinh tế của Nga và Trung Quốc. Nga đã phản đối những Nghị quyết mà được đệ trình ra HĐBA trước đó. Đại sứ Nga đã kịch liệt chống lại ngôn từ dùng trong lệnh trừng phạt mà ảnh hưởng đến những hiệp định thương mại của Nga với Iran. Ví dụ, ở dự thảo trước nghị quyết chỉ rõ tất cả các quốc gia không được cho những thành phần Iran đang ở trong diện nghi phạm vào quốc gia mình, nhưng nghị quyết lại đơn giản chỉ kêu gọi các quốc gia đề cao cảnh giác trên toàn biên giới của nước mình. Cũng chính do sự chậm trễ trong việc đưa ra những nghị quyết kịp thời mà hậu quả là vào tháng 2 năm 2007, IAEA thông báo Iran đang tiếp tục và gần tới đạt tới 1000centrifuges mà có khả năng làm giàu uranium ở cơ sở hạt nhân ở Natanz. Việc áp dụng các lệnh cấm vận này cho thấy sự yếu kém điển hình của hầu hết các cơ chế cấm vận. Trong khi một vài các quốc gia thực hiện các lệnh cấm vận của LHQ, một vài số khác thì không. Trong thời đại toàn cầu hoá này, khi một số lượng lớn hàng hoá được mua bán từ các quốc gia khác nhau, nên việc cấm vận là mang tính toàn cầu và được thực hiện cũng trong phạm vi trên. Toàn cầu hoá, sự gia tăng hội nhập kinh tế thế giới là một con dao hai lưỡi cho những cấm vận kinh tế.
  • Cụ thể ở đây, Iran là nước có trữ lượng dầu mỏ lớn, đóng góp 80% tổng sản lượng xuất khẩu hàng năm. Iran là nước sản xuất dầu lửa lớn thứ hai OPEC sau Arab. Cấm vận kinh tế hoàn toàn chắc chắn sẽ ảnh hưởng mạnh đến kinh tế Iran nhưng cũng tác động đến kinh tế thế giới do giá dầu tăng cao. Iran cũng có mối quan hệ kinh tế với những nước tiêu thụ năng lượng lớn như Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật, Nga. Đây là lí do mà những biện pháp cấm vận về kinh tế không đem lại hiệu quả. Một lần nữa, HĐBA thông qua nghị quyết mới bổ sung cho Nghị quyết 1737.

C. NGHỊ QUYẾT 1747

1.Hoàn cảnh ra đời

Nghị quyết 1747 được HĐBA thông qua tại cuộc họp 5647 vào ngày 24/3/2007, với sự nhất trí của các thành viên nhằm thắt chặt hơn nữa các biện pháp cấm vận đối với Iran vì đã không tuân thủ các nghị quyết 1696 và 1737.

IAEA báo cáo rằng Iran vẫn bất hợp tác với IAEA trong việc ngừng các hoạt động làm giàu uranium. Iran đã không đạt được các yêu cầu của IAEA, không tuân theo các điều khoản trong các nghị quyết 1696 và 1747 của HĐBA.

HĐBA nhận thấy trách nhiệm cơ bản của mình theo HC LHQ là duy trì hoà bình và an ninh quốc tế, và nhận thấy rằng những chương trình hạt nhân của Iran mang lại những nguy hiểm phổ biến vũ khí hạt nhân.

2.Nội dung Tiểu luận:Liên Hợp Quốc và các khía cạnh pháp lý

  • Tái khẳng định những cam kết trong Hiệp ước cấm phổ biến vũ khí hạt nhân, các quốc gia thành viên phải tuân theo một cách đầy đủ tất cả những nghĩa vụ được đề ra trong Hiệp ước, cũng như nhắc lại quyền của họ phù hợp với Điều I và II của Hiệp ước: phát triển việc nghiên cứu, sản xuất và sử dụng năng lượng hạt nhân cho mục đích hoà bình mà không có bất kì một sự phân biệt đối xử nào.
  • Nhắc lại bản báo cáo gần đấy nhất của Tổng chỉ huy IAEA vào 22/7/2007, và lấy làm tiếc rằng, Iran đã không tuân theo Nghị quyết 1696 và 1737 của Hội đồng Bảo an.

HĐBA căn cứ vào Điều 41 hiến chương LHQ về áp dụng các biện pháp đối với Iran:

  • Iran không được trì hoãn việc áp dụng các biện pháp được đưa ra bởi Ban Thống đốc IAEA trong nghị quyết GOV/2006/14.
  • Kêu gọi các quốc gia đề phòng và hạn chế việc nhập cảnh hay quá cảnh của các phần tử kết giao hoặc ủng hộ các hoạt động phổ biến hạt nhân nhạy cảm của Iran qua lãnh thổ các quốc gia này.
  • Iran không được cung cấp, bán hay vận chuyển trực tiếp hay gián tiếp vũ khí và các trang thiết bị liên quan từ lãnh thổ quốc gia mình hoặc bởi những người dân của mình cũng như sử dụng máy bay, tàu mang cờ nước mình.
  • Yêu cầu Iran không được trì hoãn thêm việc thực hiện các yêu cầu của HĐBA trong Điều 2 của nghị quyết 1737.
  • Quyết định các biện pháp trong đoạn 12, 13, 14, 15 của nghị quyết 1737 sẽ được áp dụng cho các đối tượng trong Phụ lục 1 của nghị quyết này.
  • Lên án việc Iran trì hoãn thực hiện các yêu cầu của HĐBA đề cập đến trong đoạn 2 của nghị quyết 1737 và của Ban thống đốc IAEA để tiến tới 1 giải pháp thông qua đàm phán.
  • HĐBA sẽ chấm dứt các biện pháp trong đoạn 3, 4, 5, 6, 7, 12 của nghị quyết 1737 ngay khi nhận được báo cáo rằng Iran đã thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ theo các nghị quyết có liên quan của HĐBA và các yêu cầu của IAEA.
  • Trong trường hợp báo cáo rằng Iran không tuân theo nghị quyết 1737 và nghị quyết này thì HĐBA sẽ áp dụng những biện pháp thích hợp theo Điều 41 HCLHQ buộc Iran phải tuân theo và nhấn mạnh rằng những quyết định yêu cầu các biện pháp thích hợp tiếp theo là cần thiết.

3.Phản ứng của các nước

a.Phản ứng của các quốc gia khác

Sau cuộc bỏ phiếu, 5 thành viên HĐBA cho rằng: Sự nhất trí trong nghị quyết 1747 cho thấy sự quan tâm sâu sắc của cộng đồng quốc tế đối với Chương trình hạt nhân của Iran.

Mỹ:

Nước này tỏ ra hết sức hài lòng vì HĐBA đã một lần nữa nhất trí hành động chống lại cái mà rõ ràng đe dọa nghiêm trọng dến hoà bình và an ninh thế giới. Cùng với hi vọng rằng Iran sẽ phản ứng lại nghị quyết này bằng việc tuân thủ những nghĩa vụ pháp lý quốc tế của mình, Mỹ cũng đã hoàn toàn sẵn sàng ủng hộ những biện pháp bổ sung trong vòng 60 ngày nếu như Iran chọn một cách phản ứng khác. Mỹ cho rằng Iran tiếp tục không tuân theo nguyện vọng của cộng đồng quốc tế, quyết định của HĐBA cũng như những nghĩa vụ của Iran theo luật quốc tế. Vì thế nên HĐBA cần thiết phải đưa ra những biện pháp cứng rắn hơn nữa để bảo đảm an ninh quốc gia này bằng cách cấm việc theo đuổi vũ khí hạt nhân của Iran.

Nga:

Nga tán thành nghị quyết này và bày tỏ sự vui mừng vì nghị quyết này đã cân đối và chặt chẽ hơn văn bản trước. Văn cảnh của nghịquyết này không hề mơ hồ mà đã mở ra con đường cho việc đàm phán. Điều quan trọng mấu chốt ở đây là nếu Iran ngừng tất cả các hoạt động làm giàu uranium của mình thì những biện pháp đưa ra trong nghị quyết này cũng sẽ được chấm dứt. Tất cả chỉ phụ thuộc vào phản ứng của Iran mà thôi. Tiểu luận:Liên Hợp Quốc và các khía cạnh pháp lý

Trung Quốc:

TQ không muốn chứng kiến bất kì một sự hỗn loạn nào ở vùng Trung Đông và tán thành những biện pháp hoà bình thông qua đàm phán chính trị và ngoại giao hơn đối với vấn đề hạt nhân của Iran. Nói chung, Trung Quốc vẫn nhận định ngoại giao là 1 biện pháp tốt nhất và thoả thuận cùng với IAEA gần đây sẽ mang lại bước tiến lớn.

b.Phản ứng của Iran

Bộ trưởng Bộ ngoại giao Iran Manouchehr Mottaki nói rằng đây là lần thứ 4 trong vòng 12 tháng gần đây HĐBA đã lạm dụng quyền lực để thực hiện các hành động phi pháp, không cần thiết và vô lý để chống lại Chương trình hạt nhân hoà bình không đe doạ đến hoà bình và an ninh quốc tế của Iran”.

Việc HĐBA đưa chương trình hạt nhân hoà bình ra xem xét là hoàn toàn không có cơ sở pháp lý. Những hoạt động hạt nhân hoà bình của Iran không thể bị coi là đe doạ đến hoà bình thế giới dù là về mặt thực tế hay về mặt lý luận. Hơn thế nữa, một số thành viên của HĐBA đã cố ý “chính trị hoá” vụ việc này. Để đạt được mục đích chính trị và bất hợp pháp – lấy đi quyền bất khả xâm phạm của Iran đối với năng lượng hạt nhân – các quốc gia này đã ra sức bịa đặt ra các chứng cứ để buộc tội Iran. Thực tế là IAEA đã thực hiện kiểm soát tất cả các trang thiết bị hạt nhân của Iran nhưng những báo cáo của IAEA từ tháng 11/2003 cho đến thời điểm này đều chỉ ra bản chất hoà bình của chương trình hạt nhân Iran. Vào năm 2003, IAEA đã xác nhận và tiếp tục duy trì rằng “cho đến bây giờ, không có một chứng cứ rõ ràng nào chỉ ra những hành động và nguyên liệu hạt nhân không được tuyên bố trước kia của Iran liên quan tới một chương trình vũ khí hạt nhân.”

Một lần nữa, Iran bác bỏ hoàn toàn những trách nhiệm của mình trong việc phát triển vũ khí hạt nhân, khẳng định rằng chương trình hạt nhân của mình là vì mục đích sản xuất điện.

Ngoài ra, Người phát ngôn Bộ ngoại giao Iran Hosseini còn cho rằng nghị quyết của HĐBA là chống lại các hoạt động hạt nhân hoà bình của Iran cũng như trái ngược với ý chí và yêu cầu của cộng đồng quốc tế. Ông nhấn mạnh rằng nghị quyết được thông qua là dưới áp lực của các nước với mục tiêu làm giảm quyền bất khả xâm phạm của Iran, không phản ánh được ý chí của Cộng đồng quốc tế và hơn thế nữa, HĐBA với việc đưa ra 1 nghị quyết chống lại chương trình hạt nhân cuả Iran đã thực hiện 1 bước làm giảm vai trò của HCLHQ và LQT. Ông nhấn mạnh Chương trình hạt nhân của Iran là vì mục đích hoà bình, Iran sẵn sàng xoá bỏ các mối ngờ vực về Chương trình hạt nhân của mình cũng như sẽ tham gia bất cứ cuộc đàm phán không điều kiện nào với một lịch làm việc rõ ràng.

4. Đánh giá Tiểu luận:Liên Hợp Quốc và các khía cạnh pháp lý

  • Nghị quyết 1747 không hiệu quả trong việc buộc Iran tuân thủ. Bằng chứng là sau ngày nghị quyết 1747 được HĐBA thông qua thì Iran đã tuyên bố rằng họ sẽ không hợp tác với IAEA. Và 2 tuần sau thì Iran tuyên bố Iran sẽ thực hiện 1 bước nhảy vọt trong chương trình hạt nhân của mình bằng việc bắt đầu làm giàu uranium. Việc cấm xuất khẩu công nghệ hạt nhân nhạy cảm đến Iran còn tiềm ẩn nhiều kẽ hở trong đó có cả một kẽ hở lớn về việc xuất khẩu đó đối với lò phản ứng hạt nhân Bushehr của Iran và Nga (13/12 Nga và Iran đã ký thoả thuận hoàn tất dự án chương trình Bushehr về phân phối nhiên liệu sau nhiều năm ngưng trệ). Việc phong toả tài sản của Iran ở nước ngoài hy vọng là sẽ có hiệu lực ngay lập tức nhưng cũng gây nghi ngờ rằng Iran có thể thu hồi (huỷ) các tài sản ở nước ngoài trước khi lệnh phong toả có hiệu lực
  • Nghị quyết 1747 cũng yếu kém trong việc kiềm chế chương trình hạt nhân của Iran . Việc cấm vận xuất khẩu công nghệ hạt nhân nhạy cảm tới Iran thì quá phức tạp và có quá nhiều kẽ hở, chẳng hạn như việc này sẽ khó hơn cấm vận thương mại toàn diện (comprehensive trade embargo). Đặc biệt còn liên quan đến việc Iran sẽ sử dụng các chương trình hạt nhân hợp pháp ở lò phản ứng Bushehr như là cái vỏ bọc để tiếp tục nhận được những công nghệ cần thiết cho chương trình hạt nhân của mình.

Phạm vi lệnh cấm vận là hẹp bởi nghị quyết chỉ áp đặt lệnh cấm vận về mặt kinh tế mà bỏ qua cấm vận về quân sự. Chẳng hạn như nghị quyết 1747 chỉ nhấn mạnh cấm vận vào một ít các quan chức trong việc thực hiện chương trình hạt nhân mà bỏ qua những người đưa ra quyết định cho chính sách về vũ khí hạt nhân (decision-makers). Và việc cấm vận thì chỉ phong toả tài sản mà không đề cập đến việc vận chuyển các tài sản đó.

D.NGHỊ QUYẾT 1803

Nghị quyết 1803 được thông qua vào 3/3/2008 với 14 phiếu thuận, Indonesian bỏ phiếu trắng.

1.Hoàn cảnh ra đời nghị quyết 1803

  • Ngày 10/4/2007, Iran tuyên bố đã hoàn thành chu trình nhiên liệu hạt nhân và lên kế hoạch cài đặt 50,000 máy li tâm
  • Theo báo cáo của IAEA vào ngày 23/5/2007 thì Iran đã không tuân thủ NQ 1737 và 1747 về yêu cầu ngừng các hoạt động tái xử lý và làm giàu uranium bao gồm việc nghiên cứu và phát triển, thậm chí còn đang triển khai các dự án có liên quan đến các lò phản ứng nước nặng. Iran đã vận hành 8 đợt gồm 16 máy li tâm tại 1 vùng bí mật ở Natantz, đang sản xuất nhiên liệu thích hợp cho các lò phản ứng hạt nhân và đang trong quá trình triển khai thêm 5 đợt nữa
  • Cho đến cuối tháng 8 năm 2007, IAEA thông báo rằng Iran vẫn không tuân thủ các NQ 1737 và 1747 của HĐBA
  • Trong phát biểu ngày 23/10/2007, Tổng thống Iran Amadinejad cho hay, Iran sẽ vẫn tiếp tục chương trình hạt nhân của mình.
  • Ngày 13/12/2007, Nga và Iran đã ký thoả thuận hoàn tất dự án chương trình Bushehr về phân phối nhiên liệu sau nhiều năm ngưng trệ
  • Ngày 4/2/2008, Iran thông báo đã phóng thành công một quả tên lửa
  • Ngày 21/2/2008, Anh và Pháp đã đệ trình 1 dự thảo nghị quyết với sự đồng ý của EU +3 lên Hội đồng Bảo an nhằm tái khẳng định lập trường chống lại Iran bởi Iran đã không tuân theo nghị quyết 1737 và 1747.

2.Nội dung: Tiểu luận:Liên Hợp Quốc và các khía cạnh pháp lý

  • NQ 1803 áp dụng lệnh cấm vận bổ sung đối với Iran bao gồm giám sát việc vận chuyển các loại hàng hoá bị nghi ngờ, thắt chặt kiểm soát các cơ quan tài chính, phong toả tài sản, giám sát tài chính, xuất khẩu tín dụng và tăng cường cấm vận đối với việc vận chuyển các tài sản đó.
  • Tái khẳng định yêu cầu Iran ngay lập tức thi hành những biện pháp được quy định trong nghị quyết GOV/26/14 của Hội đồng điều hành IAEA và para.2 của nghị quyết 1737 của HĐBA để chứng tỏ rằng việc chương trình hạt nhân của Iran là vì mục đích hòa bình.

Khuyến khích việc Iran và IAEA ký với nhau một thỏa thuận để giải quyết các vấn đề liên quan đến chương trình hạt nhân của Iran, nhấn mạnh rằng việc này sẽ chứng tỏ một lần nữa chương trình hạt nhân của Iran là vì mục đích hòa bình và củng cố vai trò của IAEA trong việc giám sát, canh giữ những hoạt động hạt nhân của Iran theo thỏa thuận đã ký giữa hai bên.

  • Cấm Iran buôn bán và vận chuyển các mặt hàng, nguyên liệu và công nghệ có thể được dùng vào mục đích quân sự hay dân sự.
  • Kêu gọi các quốc gia thành viên giám sát việc vận chuyển các hàng hóa bị nghi ngờ ra vào Iran và sau đó thông báo lại cho HĐBA.
  • Kêu gọi các quốc gia thành viên thận trọng và có biện pháp ngăn chặn đối với các cá nhân có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tiếp tay cho hoạt động hạt nhân của Iran đi vào, đi qua hay vận chuyển hàng hóa, nguyên liệu qua lãnh thổ của các quốc gia này. Kêu gọi các quốc gia thành viên thận trọng khi ký kết những cam kết quốc tế về hỗ trợ tài chính cho Iran nhằm tránh việc tiếp tay cho chương trình làm giàu hạt nhân của Iran.
  • Kêu gọi các quốc gia thành viên, trên cơ sở tôn trọng luật quốc tế và luật quốc gia, kiểm tra tàu thuyền cũng như các phương tiện vận tải khác ra và vào Iran nếu như có cơ sở để nghi ngờ rằng các phương tiện đó đang vận chuyển hàng cấm theo nghị quyết này và nghị quyết 1737.
  • Nhấn mạnh thiện chí của Trung Quốc, Pháp, Đức, Anh và Mỹ trong nỗ lực thúc đẩy đối thoại với Iran nhằm tìm ra một giải pháp toàn diện và lâu dài cho vấn đề này, từ đó tạo điều kiện cho việc phát triển quan hệ hợp tác giữa các bên trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau và sự tin tưởng vào tính hòa bình của chương trình hạt nhân Iran. Nếu Iran dừng tất cả các chương trình làm giàu uranium thì các nước này sẽ bắt đầu đàm phán trực tiếp với Iran.
  • Tổng giám đốc IAEA trong vòng 90 ngày phải thông báo về việc Iran có ngừng các hoạt động làm giàu uranium không
  • Nếu Iran vẫn tiếp tục không tuân theo NQ 1803 và hai nghị quyết trước thì HĐBA sẽ có các biện pháp thích hợp tiếp theo để buộc Iran phải tuân thủ.

3.Phản ứng của các quốc gia

a.Phản ứng của các nước khác

Anh:

Anh ủng hộ nghị quyết của HĐBA bởi nghị quyết này thể hiện sự quan tâm sâu sắc của cộng đồng quốc tế đối với những nguy cơ mà Iran có thể gây ra đối với hòa bình an ninh quốc tế.”Anh không tin rằng chương trình hạt nhân của Iran chỉ đơn thuần phục vụ cho mục đích hòa bình”

Pháp:

Pháp cho rằng theo như các biện pháp được đề cập trong nghị quyết này thì đây không phải là một sự trừng phạt mà một giải pháp ngoại giao vẫn được ưu tiên hơn. HĐBA sẽ ngừng các biện pháp này một khi Iran tôn trọng và thực hiện các nghĩa vụ của mình. Trên thực tế, một kế hoạch hợp tác về kinh tế, chính trị và hạt nhân đã được đề xuất với Iran.

Mỹ:

Mỹ thừa nhận quyền phát triển chương trình hạt nhân vì mục đích hòa bình của Iran. 5 thành viên thường trực của HĐBA và Đức đã đề nghị giúp đỡ Iran phát triển chương trình hạt nhân dân sự, Nga cung cấp nhiên liệu cho nhà máy hạt nhân của Iran. Điều đó cho thấy việc Iran nhất thiết phải tiến hành làm giàu uranium không phải là sự thật. 17 quốc gia khác đã mua nhiên liệu từ các nước khác chứ không tự sản xuất như Iran. Mỹ cho rằng Iran nên noi gương các quốc gia đã ngừng các chương trình sản xuất vũ khí hạt nhân, trong đó có 2 thành viên không thường trực HĐBA là Nam Phi và Libya.

Mỹ còn cho rằng cộng đồng quốc tế có lý do để lo ngại về chương trình hạt nhân của Iran bởi Iran đang tài trợ cho hoạt động khủng bố ở Libăng, Palestine và Afganistan. Tuy nhiên, năm thành viên thường trực cho hay, họ sẵn sàng mở rộng hợp tác với Iran, sẵn sàng đàm phán nếu Iran thiện chí ngừng các hoạt động tái xử lý và làm giàu uranium. Tiểu luận:Liên Hợp Quốc và các khía cạnh pháp lý

Trung Quốc:

Trung Quốc hoan nghênh sự hợp tác giữa Iran và IAEA. Tuy nhiên, Trung Quốc cũng nói rằng Iran đã chưa cho ngừng chương trình hạt nhân theo như Nghị quyết của HĐBA yêu cầu. Về phía HDDBA, Trung Quốc cho rằng Nghị quyết của HDBA không phải được đưa ra để trừng phạt Iran mà là muốn Iran nhanh chóng quay trở lại bàn đàm phán. Những trừng phạt mà HDBA đưa ra không nhắm đến người dân Iran và không gây ảnh hưởng đến các hoạt động kinh tế chính trị của Iran với các quốc gia khác. Nếu Iran tuân thủ Nghị quyết của HDBA và IAEA thì các biện pháp trừng phạt hoàn toàn có thể được hoãn lại hoặc chấm dứt hẳn.

Indonesia:

Indonesia ghi nhận những nỗ lực hợp tác của Iran, cụ thể là Iran đã cho phép IAEA tiếp cận với những nguồn nguyên liệu hạt nhân mà Iran đã công bố.

Indonesia lưu ý rằng IAEA chỉ còn một vấn đề chưa giải quyết là nghiên cứu về hoạt động vũ khí hoá. Về vấn đề này, IAEA không phát hiện ra bất kỳ một nguyên liệu hạt nhân nào cả. Tuy nhiên, IAEA cũng chưa sẵn sàng để quyết định toàn bộ bản chất của vụ việc hạt nhân Iran.

Indonesia mong đợi Iran tiếp tục hợp tác với IAEA nhằm xây dựng lòng tin về chương trình hạt nhân của mình. Việc cho ngừng chương trình hạt nhân của Iran không phải là mục đích cuối cùng, mà mục đích cuối cùng là sự hợp tác lâu dài giữa Iran và IAEA.

b.Phản ứng của Iran

  • Iran cho rằng NQ 1803 không đạt được những tiêu chuẩn tối thiểu về mặt pháp lý. Việc đưa vấn đề hạt nhân của Iran lên HĐBA là trái với quy chế của IAEA và Iran không hề vi phạm Thỏa thuận Bảo vệ toàn diện hiệp định chống làm giàu uranium. Iran đã ký nghị định thư bổ sung vào năm 2003 và đã bắt đầu thực thi một cách tự nguyện. Theo quy định, Iran chỉ phải thông báo cho IAEA về việc bắt đầu làm giàu uranium của mình trước 180 ngày nhưng trên thực tế Iran đã thông báo trước đến 4 năm trước khi thực hiện và cũng là trước 4 năm so với quy định. Iran khẳng định chương trình hạt nhân của Iran hoàn toàn là vì mục đích hoà bình, không hề đe dọa đến hòa bình an ninh quốc tế.
  • Tính chất hòa bình của chương trình hạt nhân của Iran đã được khẳng định qua các bản báo cáo của IAEA trong nhiều năm qua. Tổng giám đốc IEAE đã tuyên bố rằng tổ chức này không hề có một dữ liệu hay bằng chứng nào chứng tỏ rằng Iran đang sản xuất vũ khí hạt nhân và không có chứng cứ để kết luận rằng việc làm giàu uranium của Iran là nhằm phục vụ cho chương trình hạt nhân quân sự.
  • Iran khẳng định chương trình hạt nhân của Iran sẽ không phụ thuộc vào những điều tra, khảo sát hay những kết luận của HĐBA.

4.Đánh giá: Tiểu luận:Liên Hợp Quốc và các khía cạnh pháp lý

  • Có nhiều ý kiến cho rằng sự nhất trí trong HĐBA về NQ 1803 đã cho thấy rằng cộng đồng quốc tế đang mất dần kiên nhẫn và hiện tại đang áp dụng các biện pháp mạnh tay để buộc Iran phải tuân theo. Nghị quyết 1803 là một bước quan trọng đầu tiên trong việc làm cho các nhà lãnh đạo Iran thấy rằng dự án làm giàu uranium của Iran là không được khả thi, hết sức tốn kém và không mang lại lợi ích cho Iran như mong đợi.
  • Tuy vậy, sau đó những động thái của Iran lại khiến một lần nữa HĐBA phải đưa ra một nghị quyết tiếp theo, đó là nghị quyết 1835.

E. NGHỊ QUYẾT 1835

1.Hoàn cảnh ra đời:

  • Việc HĐBA ra Nghị quyết 1835 đối với Iran xuất phát từ báo cáo của IAEA được công bố ngày 15/9 trong đó IAEA khẳng định Iran đã đạt được những tiến bộ trong việc làm giàu uranium. Báo cáo nêu rõ Iran đã sản xuất được 3.800 máy ly tâm, và đã khắc phục được một số nhược điểm trong kỹ thuật làm giàu uranium, từ đó nâng cao năng suất hoạt động của các máy ly tâm từ 50% lên 80%. Một tiết lộ gây chú ý của báo cáo là chi tiết “một số chuyên gia nước ngoài làm việc tại Iran” để hỗ trợ về mặt kỹ thuật hạt nhân cho nước này, nhưng không nêu rõ đến từ nước nào.
  • Các tình tiết mới này ngay lập tức đã được Mỹ và các đồng minh châu Âu chộp lấy để làm cơ sở thúc đẩy LHQ gia tăng các biện pháp trừng phạt Iran. Vấn đề đang được Mỹ và phương Tây quan tâm là với những tiến bộ kỹ thuật như báo cáo đã nêu thì trong bao lâu nữa Iran sẽ sản xuất được một quả bom hạt nhân?
  • Nghị quyết 1835 đã được toàn thể 15 thành viên HĐBA LHQ thông qua tuyệt đối (không có phiếu chống và phiếu trắng) vào ngày 27/9.

2. Nội dung chính của Nghị quyết 1835 Tiểu luận:Liên Hợp Quốc và các khía cạnh pháp lý

  • Nghị quyết 1835 của Hội đồng Bảo an kêu gọi Iran “tuân thủ đầy đủ và ngay lập tức các nghĩa vụ của nước này (theo các nghị quyết Liên hợp quốc có liên quan) và đáp ứng các yêu cầu của ban giám đốc Cơ quan Năng lương Nguyên tử Quốc tế (IAEA)”.
  • Nghị quyết cũng khẳng định lại “cam kết của Hội đồng Bảo an về việc sớm đưa ra một giải pháp đối với vấn đề hạt nhân Iran”, đồng thời hoan nghênh “cách tiếp cận kép” của Nhóm 5+1 (gồm Anh, Trung Quốc, Pháp, Nga, Mỹ và Đức), theo đó Teheran phải lựa chọn giữa ngừng làm giàu urani hoặc đối mặt với nguy cơ bị áp đặt các lệnh trừng phạt mới.
  • Đây là nghị quyết thứ 5 về vấn đề Iran nhưng nghị quyết này đã không đưa ra thêm biện pháp trừng phạt mới nào.

3. Phản ứng của các quốc gia

a.Phản ứng của các quốc gia khác

Phản ứng chủ yếu cần quan tâm là của hai nước Mỹ và Nga:

  • Mỹ dựa vào “nguồn tin tình báo” cho rằng Iran có thể sản xuất một quả bom nguyên tử vào cuối năm 2009, trong khi nước này vẫn quả quyết chương trình hạt nhân của mình nhằm mục đích hòa bình và đó là quyền lợi hợp pháp đã được ghi trong Hiệp ước cấm phổ biến vũ khí hạt nhân (NPT).
  • Tuy nhiên, các nỗ lực của Mỹ nhằm tăng thêm mức độ và các hình thức trừng phạt Iran hầu như đã bị chặn đứng trước thái độ kiên quyết phản đối của nước Nga. Ngày 23/9, Bộ Ngoại giao Nga ra tuyên bố “sẽ không tiếp xúc với Mỹ về vấn đề hạt nhân Iran”. Trong tuyên bố của mình, Nga cho rằng vào thời điểm hiện nay không cần thiết có thêm những hình thức trừng phạt mới nào đối với Iran vì sẽ không có tác dụng gì, thậm chí còn phản tác dụng.
  • Do sự phản đối của Nga nên cuộc họp các Bộ trưởng Ngoại giao 6 cường quốc (gồm 5 nước thường trực HĐBA và Đức) để bàn về việc tăng cường các biện pháp trừng phạt Iran đã không thể được tiến hành như dự kiến.

Vào ngày 24/9, 2 Ngoại trưởng Condoleezza Rice của Mỹ và Sergei Lavrov của Nga đã gặp riêng và 2 bên đã đi đến thỏa thuận chung về những điều khoản đối với Iran như đã nêu trong nội dung Nghị quyết 1835, trong đó giữ nguyên các hình thức trừng phạt cũ như đã nêu trong 3 nghị quyết trước đây, đồng thời không ràng buộc Iran phải tuân thủ đầy đủ. Rõ ràng Nghị quyết này là một thắng lợi của Iran đồng thời là một “gáo nước lạnh” đối với thái độ hung hăng của Mỹ. Tiểu luận:Liên Hợp Quốc và các khía cạnh pháp lý

b.Phản ứng của Iran

  • Phái đoàn ngoại giao Iran tại Liên hợp quốc ra tuyên bố cho rằng “Hội đồng Bảo an một lần nữa lại hành động vội vàng và không cần thiết về một vấn đề không nằm trong phạm vi luật pháp và tư pháp của Hội đồng Bảo an cũng như không tạo ra bất cứ mối đe doạ nào đối với hoà bình và an ninh quốc tế”.
  • Trước đó, khi dự thảo nghị quyết này được đưa ra, Chính phủ Iran đã tuyên bố rằng văn kiện này “không có tính xây dựng” và thể hiện sự bất hòa giữa các cường quốc.
  • Đến nay, Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc đã ban hành ba nghị quyết trừng phạt Iran sau khi Teheran từ chối ngừng làm giàu urani. Mỹ và các đồng minh phương Tây cáo buộc chương trình phát triển hạt nhân của Iran là vỏ bọc để phát triển vũ khí hạt nhân, trong khi Teheran bác bỏ cáo buộc này và khẳng định chương trình hạt nhân của họ chỉ phục vụ sản xuất điện.

4. Đánh giá, phân tích nghị quyết

  • Nghị quyết 1835 đã được toàn thể 15 thành viên HĐBA LHQ thông qua tuyệt đối (không có phiếu chống và phiếu trắng) vào ngày 27/9. Trong gần 3 năm qua, HĐBA LHQ đã ban hành ít nhất 4 nghị quyết nhằm buộc Iran phải ngưng hoàn toàn chương trình hạt nhân của mình, đồng thời cũng đã áp dụng cả 3 gói biện pháp trừng phạt sau khi Iran không tuân thủ các nghị quyết. Và đây là nghị quyết thứ 5 về vấn đề Iran nhưng nghị quyết này đã không đưa ra thêm biện pháp trừng phạt mới nào.
  • Vì vậy giới phân tích nhận định rằng Nghị quyết 1835 thực ra là một thắng lợi lớn của Iran hơn là thành công của Mỹ trong việc thuyết phục các đối tác triển khai các biện pháp mới trừng phạt Iran.

VẤN ĐỀ BẮC TRIỀU TIÊN

I. KHÁI QUÁT CHUNG

  1. Khái quát về Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên
  • Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều Tiên (Democratic People’s Republic of Korea)
  • Thủ đô: Bình Nhưỡng (Pyong Yang)
  • Vị trí địa lý: Nằm ở nửa Bắc bán đảo Triều Tiên; Đông và Tây giáp biển; Bắc giáp Trung Quốc (1300 km) và Nga (16 km); phía Nam là giới tuyến quân sự với Hàn Quốc chạy theo vĩ tuyến 380 Bắc. (map)

2.Vấn đề hạt nhân của Triều Tiên Tiểu luận:Liên Hợp Quốc và các khía cạnh pháp lý

  • Từ giữa những năm 1960: DPRK đã cho xây dựng một khu liên hợp nghiên cứu về năng lượng nguyên tử quy mô lớn ở Yongbyon (Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Hạt nhân Yongbyon) ở tỉnh Bắc Pyongan, cách thủ đô Bình Nhưỡng 103 km về phía Bắc (map) và đào tạo chuyên gia từ những sinh viên đã từng học tập ở Liên Xô. Bên cạnh đó, một trung tâm nghiên cứu hạt nhân cũng đã được xây dựng ở gần Yongbyon theo hiệp định hợp tác song phương giữa Liên Xô và DPRK.
  • Năm 1965: Một lò phản ứng hạt nhân đã được lắp ráp (assembled) cho trung tâm nghiên cứu này.
  • Năm 1977: DPRK ký một hiệp định với Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế [IAEA], cho phép cơ quan này thanh tra lò phản ứng của nước này.
  • Những năm 1980s: Đây là thời điểm DPRK bắt đầu chương trình vũ khí hạt nhân của mình. Nhắm tới thực tế sử dụng năng lượng hạt nhân và việc hoàn thành hệ thống phát triển vũ khí hạt nhân của mình, DPRK bắt đầu vận hành những trang thiết bị phục vụ cho việc làm giàu uranium. Từ năm 1992, do nghi ngờ Triều Tiên sản xuất vũ khí hạt nhân, Mỹ, Hàn Quốc, Nhật Bản cùng với phương Tây gây sức ép đòi thanh tra toàn diện công nghệ hạt nhân của Triều Tiên và vấn đề bắt đầu căng thẳng từ thời điểm này.

II. CÁC NGHỊ QUYẾT CỦA HĐBA VỀ VẤN ĐỀ BẮC TRIỀU TIÊN 

A. NGHỊ QUYẾT 825 (11/5/1993)

Nghị quyết được thông qua tại cuộc họp thứ 3212 của Hội đồng Bảo An LHQ vào ngày 11 tháng 5 năm 1993.

1.Hoàn cảnh ra đời nghị quyết

  • Năm 1985, CHDCND Triều Tiên tham gia vào hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân (the Nuclear Non – Proliferation Treaty). Tuy nhiên, Bắc Triều Tiên không cho phép điều tra những phương tiện vận chuyển hạt nhân của nước này. Đáp lại hành động đó, Mỹ theo đuổi một chiến dịch ra điều kiện với Bắc Triều rằng nếu nước này đồng ý chấp nhận hiệp ước, đổi lại Mỹ sẽ bình thường hóa quan hệ giữa hai nước.
  • 31/8/1988, Bắc Triều Tiên bắn thử tên lửa Taepodong-1 bay qua Nhật Bản.
  • 12/3/1993, Bộ trưởng ngoại giao CHDCND Triều Tiên gửi một bức thư đến chủ tịch hội đồng bảo an đe dọa nước này sẽ rút ra khỏi Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân. Trước tình hình đó, Hội đồng Bảo an LHQ thông qua nghị quyết 825 vào ngày 11/5/1993.

2. Nội dung của nghị quyết Tiểu luận:Liên Hợp Quốc và các khía cạnh pháp lý

a.Cơ sở pháp lý của nghị quyết

  • Tuyên bố của Chủ tịch hội đồng bảo an ngày 8/4/1993 trong đó các thành viên của hội đồng hoan nghênh tất cả các nỗ lực nhằm giải quyết tình hình và cụ thể, ủng hộ IAEA tiếp tục thảo luận để tìm ra giải pháp cho vấn đề hạt nhân Triều Tiên.
  • Tầm quan trọng của Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân cũng như vai trò quan trọng của IAEA trong việc đảm bảo các quốc gia thực thi các nghĩa vụ quy định trong Hiệp ước và đảm bảo việc sử dụng năng lượng hạt nhân với mục đích hòa bình.
  • Bắc Triều là một bên của Hiệp ước và đã ký kết một thỏa thuận bảo vệ toàn diện theo như yêu cầu của Hiệp ước.
  • Thư của cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên gửi Tổng giám đốc IAEA vào ngày 22/4/1993, yêu cầu tổng giám đốc tiếp tục bàn bạc với Bắc Triều trong việc thực hiện các nghĩa vụ của bản thỏa thuận bảo vệ.
  • Bắc Triều sẵn sàng tiến hành đàm phán để giải quyết vấn đề.
  • Các thỏa thuận gần đây về việc tăng cường hợp tác giữa giữa Bắc Triều và IAEA cùng với triển vọng về các cuộc đối thoại giữa Bắc Triều và các quốc gia thành viên khác.

b. Nội dung chính của nghị quyết

  • Kêu gọi tuyên bố chung của Bắc Triều và Hàn Quốc trong việc xây dựng một Bán đảo Triều Tiên không có vũ khí hạt nhân, bao gồm việc thiết lập một cơ chế điều tra hiệu quả và đáng tin cậy và một sự bảo đảm không sở hữu vũ khí hạt nhân được chế biến từ việc làm giàu uranium.
  • Kêu gọi Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên xem xét lại cáo thị trong lá thư ngày 12/3/1992 thông qua đó, một lần nữa xác nhận cam kết của nước này đối với Hiệp ước.
  • Kêu gọi Bắc Triều Tiên thành thực trong nghĩa vụ không phổ biến vũ khí hạt nhân của theo quy định của Hiệp ước và phù hợp với bản thỏa thuận bảo vệ các vũ khí hạt nhân hoặc các thiết bị gây nổ khác với IAEA.
  • Yêu cầu Tổng giám đốc IAEA tiếp tục bàn bạc với Bắc Triều Tiên với quan điểm giải quyết vấn đề.
  • Buộc tất cả các thành viên Liên Hợp Quốc khuyến khích Bắc Triều Tiên đáp lại có thiện chí nghị quyết này và tìm ra được giải pháp thuận tiện.
  • Quyết định tiếp tục theo dõi vấn đề này và xem xét các biện pháp khác của Hội đồng Bảo an nếu cần thiết.

3. Phản ứng của các quốc gia

a. Phản ứng của các quốc gia khác

Mỹ :

Ngày 16/6, Mỹ đòi triệu tập Hội đồng Bảo an để áp đặt các cấm vận kinh tế đối với CHDCND Triều Tiên. Sau đó, Mỹ khởi động các vòng đàm phán để hòa bình giải quyết vấn đề. Hai nước còn ký kết với nhau một Hiệp định khung giữa Bình Nhưỡng và Washington năm 1994 mà theo đó, CHDCNC Triều Tiên sẽ ngừng việc phát triển vũ khí hạt nhân để đổi lấy sự giúp đỡ của cộng đồng quốc tế trong việc xây dựng hai lò phản ứng hạt nhân dùng để phát điện.

Hàn Quốc :

Hàn Quốc vẫn tỏ thái độ hoà hảo với CHDCND Triều Tiên và theo đuổi chính sách “Ánh dương” mềm mỏng với Bình Nhưỡng.

b. Phản ứng của Bắc Triều Tiên

Về phần mình, CHDCND Triều Tiên tuyên bố rằng những cấm vận do Mỹ kêu gọi đồng nghĩa với “một lời tuyên chiến”.

Tuy nhiên, sau cuộc đối thoại với Mỹ, (89 ngày sau khi tuyên bố rút) CHDCND Triều Tiên lại ra tuyên bố không rút khỏi hiệp ước nữa nhưng vẫn không cho phép IAEA tiến hành điều tra (một quốc ra được phép rút ra khỏi Hiệp ước sau 3 tháng kể từ khi quốc gia đó tuyên bố rút).

Sau đó, nước này đã ký thoả thuận ngừng tất cả các hoạt động có liên quan đến hạt nhân.

4. Đánh giá về nghị quyết và phản ứng của các quốc gia Tiểu luận:Liên Hợp Quốc và các khía cạnh pháp lý

Nghị quyết của Hội đồng Bảo an đưa ra trong hoàn cảnh CHDCND Triều Tiên đe dọa sẽ rút khỏi Hiệp ước cấm phổ biến vũ khí hạt nhân. Hoàn cảnh này chưa thực sự là một mối đe dọa lớn (mà ngay trong nội dung của nghị quyết cũng không khẳng định điều này), do đó HĐBA không đưa ra một biện pháp nào cụ thể, dứt khoát, mang tính cưỡng chế hay áp dụng một biện pháp cụ thể nào đó đã nêu trong chương VII của

Hiến chương LHQ, mà chỉ đưa ra nghị quyết với nội dung chủ yếu là khuyến nghị, kêu gọi hợp tác thiện chí từ phía CHDCND Triều Tiên trong các hoạt động liên quan đến vũ khí hạt nhân và nghĩa vụ của quốc gia này quy định trong Hiệp ước NPT.

Theo nhiều nhà phân tích, nghị quyết này về bản chất không đem lại hiệu quả trực tiếp, không có biện pháp nào cụ thể để giải quyết vấn đề, và thực tế là CHDCND Triều Tiên vẫn rút khỏi NPT. Tuy vậy, nó thể hiện được thái độ của HĐBA nói riêng và Liên Hợp Quốc nói chung trong vấn đề hạt nhân ở Triều Tiên, qua đó mở đường cho việc nối lại đàm phán giữa Mỹ và CHDCND Triều Tiên, kết quả là nước này đã không rút ra khỏi NPT và cam kết ngừng các hoạt động liên quan đến hạt nhân.

B. NGHỊ QUYẾT 1540 (28/4/2004)

Nghị quyết được thông qua tại cuộc họp thứ 4956 của Hội đồng Bảo An LHQ vào ngày 28 tháng 4 năm 2004.

1. Hoàn cảnh ra đời của nghị quyết

  • Sau nghị quyết 825 của Hội đồng Bảo An 11/5/1993, CHDCND Triều Tiên đã ký thoả thuận ngừng tất cả các hoạt động có liên quan đến hạt nhân. Tuy nhiên, nước này vẫn bí mật vận hành các chương trình hạt nhân.
  • Tháng 12/2002, Bắc Triều Tiên này tái khởi động lò phản ứng hạt nhân tại Yongbyon và trục xuất 2 giám sát viên hạt nhân LHQ.
  • 10/01/2003, Bình Nhưỡng tuyên bố rút ra khỏi hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân.
  • 12/2/2002 IAEA đưa vấn đề Bắc Triều Tiên ra Hội đồng Bảo an. Hội đồng Bảo an LHQ bày tỏ mối quan ngại về chương trình hạt nhân của Bắc Triều Tiên tuy nhiên không chỉ trích Bình Nhưỡng vì đã rút khỏi Hiệp ước Cấm phổ biến vũ khí hạt nhân.
  • 10/4/2003, NK chính thức rút ra khỏi Hiệp ước và là quốc gia đầu tiên rút ra khỏi Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân.
  • 23/4/2003, các cuộc đàm phán giữa Mỹ và Bắc Triều Tiên được tổ chức ở Bắc Kinh.
  • 1/8/2003 Bắc Triều Tiên đồng ý đàm phán 6 bên về vấn đề hạt nhân của họ. 5 nước cùng tham gia đàm phán là Mỹ, Hàn Quốc, Trung Quốc, Nga và Nhật.
  • Vòng đàm phán 6 bên chính thức khởi động 27/8/2008 tuy nhiên vòng đàm phán đầu tiên từ27 đến29/8/2004 không thành công. Trước tình hình đó, hội đồng bảo an LHQ thông qua nghị quyết 1540 vào 28/4/2004.

2.Nội dung nghị quyết Tiểu luận:Liên Hợp Quốc và các khía cạnh pháp lý

a. Cơ sở pháp lý của nghị quyết

  • Nghị quyết 825 ban hành năm 1993
  • Phát biểu của chủ tịch HĐBA tại cuộc họp cấp nguyên thủ quốc gia ngày 31/1/1992 kêu gọi tất cả các quốc gia kiểm soát và loại bỏ vũ khí hạt nhân.
  • Nguyên tắc các quốc gia hòa bình giải quyết các tranh chấp theo Hiến chương
  • Quyền của HĐBA áp dụng các hành động phù hợp chống lại bất cứ hành động nào đe dọa đến hòa bình và an ninh quốc tế được gây ra bởi hành động phổ biến vũ khí hạt nhân, hóa học, sinh học hay các phương tiện vận chuyển chúng.

b. Nội dung chính của nghị quyết

  • Quyết định rằng tất cả các quốc gia sẽ không hỗ trợ các chủ thể phi quốc gia đang cố gắng phát triển, tìm kiếm, sản xuất, sở hữu, vận chuyển, hoặc sử dụng vũ khí hạt nhân, hóa học hoặc sinh học và các phương tiện vận chuyển chúng dưới bất kỳ hình thức nào.
  • Đồng thời quyết định rằng, tất cả các quốc gia, ban hành các luật thích hợp có hiệu lực cấm bất cứ một quốc gia nào phát triển, tìm kiếm, sản xuất, sở hữu, vận chuyển, hoặc sử dụng vũ khí hạt nhân, hóa học hoặc sinh học và các phương tiện vận chuyển chúng đặc biệt cho các mục đích khủng bố, cũng như nỗ lực đạt được những hành động kể trên hay tham gia vào những hành động ấy với vai trò tòng phạm và hỗ trợ hoặc tài trợ cho các hành động đó.
  • Tất cả các quốc gia sẽ tiếp nhận và thực thi các biện pháp cưỡng chế hiệu quả để thiết lập một cơ chế kiểm soát trong nước với mục đích ngăn chặn việc phổ biến vũ Tiểu luận:Liên Hợp Quốc và các khía cạnh pháp lý

khí hạt nhân, hóa học hoặc sinh học và các phương tiện vận chuyển chúng; bao gồm việc thiết lập các biện pháp kiểm soát thích hợp đối với các vật liệu liên quan đến các hành động trên. Các quốc gia sẽ:

  • Phát triển và duy trì các biện pháp thích hợp và hiệu quả để kiểm soát và thắt chặt các khoản mục sử dụng trong việc sản xuất, sử dụng, cất giữ và vận chuyển;
  • Phát triển và duy trì các biện pháp bảo vệ vật chất thích hợp và hiệu quả;
  • Phát triển và duy trì các biện pháp kiểm soát biên giới thích hợp và hiệu quả kết hợp hợp tác quốc tế để dò tìm, ngăn cản, ngăn chặn và chống lại việc buôn lậu, môi giới trái phép các hạng mục trên theo quy định của luật pháp trong nước và phù hợp với luật quốc tế.
  • Thiết lập, phát triển, xem xét và duy trì các biện pháp kiểm soát xuất khẩu và vận chuyển xuyên quốc gia các hạng mục trên một cách thích hợp và hiệu quả. Bao gồm cả việc áp dụng luật và các quy định thích hợp kiểm soát xuất khẩu, vận chuyển, vận chuyển xuyên quốc gia và tái xuất khẩu; và kiểm soát việc cung cấp viện trợ, trợ giúp liên quan đến việc xuất khẩu và vận chuyển xuyên cuốc gia trên, chẳng hạn tài chính và việc vận chuyển mà có thể tạo thành một sự gia tăng, cũng như là thiết lập biện pháp kiểm soát người cuối cùng, và việc thiết lập và làm cho có hiệu lực.
  • Căn cứ vào quy định 28 của các quy định tạm thời về thủ tục của Hội đồng Bảo an, quyết định thành lập (trong khoảng thời gian không lâu hơn 2 năm) một ủy ban của hội đồng bảo an bao gồm tất cả các thành viên của Hội đồng. Ủy ban này sẽ kêu gọi những cơ quan chức năng khác báo cáo lên hội đồng bảo an những kiểm tra của các cơ quan này trong việc thực hiện các nghĩa vụ được ghi nhận trong nghị quyết này. HĐBA kêu gọi các cuốc gia đưa ra bản báo cáo đầu tiên không muộn hơn 6 tháng kể từ khi thông qua nghị quyết này với Ủy ban trong trường hợp các quốc gia chấp nhận hoặc có ý định tham gia và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ quy định trong nghị quyết này.
  • Quyết định rằng không có nghĩa vụ nào được nêu ra trong nghị quyết này cũng như việc giải thích nghị quyết trái với hoặc làm thay đổi các quyền và nghĩa vụ của các quốc gia thành viên Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân, Công ước vũ khí hóa học và công ước vũ khí sinh học và độc hại, hoặc làm thay đổi trách nhiệm của cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA) trong việc cấm các vũ khí hóa học.
  • Công nhận tính thiết thực của việc thực hiện nghị quyết này trong kiểm soát hiệu quả của các quốc gia với danh sách các hạng mục nêu trên và kêu gọi tất cả các quốc gia thành viên phát triển sớm nhất danh sách này khi cần thiết.
  • Một vài quốc gia có thể yêu cầu giúp đỡ thực hiện các điều khoản của nghị quyết này trong phạm vi lãnh thổ nước mình và đề nghị các quốc gia khác cũng hành động như thế.

Kêu gọi tất cả các quốc gia:

Xúc tiến thừa nhận và thực hiện các nghĩa vụ nêu trong nghị quyết, và, khi cần thiết, tăng cường các hiệp định đa phương mà quốc gia đó là thành viên mà hiệp định đó nhằm mục đích ngăn chặn hành động phổ biến vũ khí hạt nhân, hóa học, sinh học.

Thông qua các quy định quốc gia, nếu chưa có, để đảm bảo tuân theo cộng đồng với các hiệp ước đa phương về không phổ biến vũ khí hạt nhân.

Làm mới và hoàn thành những cam kết của mình trong hợp tác đa phương, cụ thể là trong phạm vi của bản dự thảo của Cơ quan năng lượng nguyên tử (IAEA), Tổ chức cấm vũ khí hóa học và công ước vũ khí sinh học và độc hại làm công cụ quan trọng để theo đuổi và đạt được đối tượng chung trong việc ngăn chặn hành vi phổ biến vũ khí hạt nhân và thúc đẩy hợp tác quốc tế vì các mục đích hòa bình.

Kêu gọi tất cả các quốc gia xúc tiến đối thoại và hợp tác trong việc không phổ biến vũ khí hạt nhân nhằm mục đích loại bỏ những nguy cơ của việc phổ biến vũ khí hạt nhân, hóa học, sinh học và các phương tiện vận chuyển chúng

  • Kêu gọi tất cả các quốc gia hợp tác chống lại hành vi buôn lậu, môi giới trái phép vũ khí hạt nhân, hóa học, sinh học, các phương tiện vận chuyển chúng và các vật liệu có liên quan theo quy định của luật pháp trong nước và phù hợp với luật quốc tế.
  • Quyết định Hội đồng Bảo an sẽ tiếp tục chủ động theo dõi vấn đề.

3.Phản ứng của các nước Phản ứng của các nước khác

Mỹ:

Mỹ không chỉ quan ngại về việc Bình Nhưỡng phát triển vũ khí hạt nhân mà còn muốn ngăn chặn khả năng CHDCND Triều Tiên xuất khẩu tên lửa và công nghệ hạt nhân sang các quốc gia hoặc các tổ chức khác.

Washington cho hay nếu Bình Nhưỡng từ bỏ bom nguyên tử, Washington có thể đảm bảo an ninh dưới một hình thức nào đó, hình thức bảo đảm có thể là một văn bản, chứ không là hiệp ước không xâm phạm như Bình Nhưỡng yêu cầu.

Điểm mấu chốt là đảm bảo an ninh chỉ có được với điều kiện Bình Nhưỡng có thiện chí và chứng minh được việc thực hiện nghĩa vụ.

Trung Quốc :

Trung Quốc hy vọng được thấy một bán đảo Triều Tiên không có vũ khí hạt nhân, một bán đảo được hưởng hoà bình và ổn định lâu dài. Tiểu luận:Liên Hợp Quốc và các khía cạnh pháp lý

Bắc Kinh lo ngại làn sóng người tị nạn từ nước CHDCND Triều Tiên bất ổn. Tuy nhiên, Trung Quốc còn lo ngại hơn về khả năng Nhật Bản và Hàn Quốc sử dụng bom nguyên tử để đối phó với Bình Nhưỡng.

Do đó, Bắc Kinh muốn Mỹ và CHDCND Triều Tiên đặt ra thời điểm cụ thể để bàn về việc Washington đảm bảo an ninh, còn Bình Nhưỡng cho phép thanh sát các cơ sở hạt nhân.

Nhật Bản :

Tokyo lo ngại nếu Bình Nhưỡng bị gây sức ép quá nhiều, họ sẽ tấn công Nhật Bản bằng tên lửa mang đầu đạn hạt nhân.

Nhật Bản muốn thúc đẩy đàm phán song phương nhằm làm dịu căng thẳng hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên đồng thời giải quyết vấn đề công dân Nhật bị CHDCND Triều Tiên bắt cóc.

Nga :

Nga là đồng minh lâu nay của CHDCND Triều Tiên và mong muốn có được các cuộc đàm phán giải quyết vấn đề.

Nga có thể sẽ thúc đẩy các bên ký thoả thuận đa phương, đảm bảo an ninh cho CHDCND Triều Tiên để đổi lấy việc ông Kim Jong-Il từ bỏ chương trình hạt nhân. Hàn Quốc

Hàn Quốc bị thiệt hại nhiều nhất nếu CHDCND Triều Tiên tấn công. Seoul muốn đạt một giải pháp ngoại giao bằng bất cứ giá nào. Về lâu về dài, Hàn Quốc muốn thống nhất với CHDCND Triều Tiên.

Seoul cho rằng mình có vai trò là nhà kiến tạo hoà bình. Hàn Quốc sẽ cố gắng ngăn chặn căng thẳng Mỹ – CHDCND Triều Tiên.

a.Phản ứng của CHDCND Triều Tiên

  • Ngày 2 tháng 7 năm 2004, ngoại trưởng Mỹ Colin Powell đã gặp người đồng cấp Paek Nam-Sun trong một cuộc trao đổi cấp cáo giữa hai nhà nước kể từ khi khủng hoảng nổ ra. Ngoại trưởng của Bắc Triều Tiên tuyên bố rằng nếu Mỹ có quan điểm cải thiện quan hệ song phương, Bắc Triều Tiên cũng sẽ không xem Mỹ như là kẻ thù truyền kiếp nữa, và sự phát triển của mối quan hệ song phương này hoàn toàn phụ thuộc vào việc Mỹ từ bỏ chính sách thù địch của mình đối với Bắc Triều Tiên. Ông Paek còn nói thêm rằng Bắc Triều Tiên muốn duy trì mục tiêu phi hạt nhân hóa ở bán đảo Triều Tiên và tái khẳng định rằng Bắc Triều Tiên sẽ không thay đổi lập trường về việc giải quyết vấn đề hạt nhân thông qua đối thoại.
  • Ngày 24 tháng 7, Bắc Triều Tiên từ chối đề nghị của Mỹ về việc từ bỏ tham vọng hạt nhân theo mô hình của Libya và gọi lời đề nghị đó là mơ giữa ban ngày.
  • Ngày 3 tháng 8, Bắc Triều Tiên triển khai một chương trình phát triển hệ thống tên lửa mới cho tàu chiến và tàu ngầm.
  • Ngày 28 tháng 9, Bắc Triều Tiên khẳng định trước Đại hội đồng rằng vũ khí hạt nhân là cần thiết cho việc tự vệ để chống lại đe dọa hạt nhân từ Mỹ.

4.Đánh giá

Nghị quyết này của Hội đồng Bảo an là khá cứng rắn, các biện pháp ở điều 41 đã được sử dụng với lý do có sự đe dọa đối với nền hòa bình và an ninh thế giới. Tuy vậy, theo một khía cạnh nào đó, nghị quyết này đã phản tác dụng khi CHDCND Triều

Tiên dường như không hề nhượng bộ trước những hành động cứng rắn này, trái lại, còn tỏ ra hung hãn hơn trong vấn đề hạt nhân và nguyên tử, và tái khẳng định rằng mọi hành động đều chỉ là tự vệ trước đe dọa hạt nhân từ Mỹ.

Phản ứng tương đối khác nhau của các quốc gia cũng là minh chứng cho hiệu quả và tính khả thi chưa cao của những biện pháp trong nghị quyết này. Đây cũng là một trong những hạn chế lớn của nghị quyết 1540. Tiểu luận:Liên Hợp Quốc và các khía cạnh pháp lý

Chính những hạn chế này đã khiến tình hình trầm trọng hơn, và một nghị quyết khác của Hội đồng Bảo an đã được ban hành – đó là nghị quyết 1695.

C. NGHỊ QUYẾT 1695

1. Hoàn cảnh ra đời

Sau khi Nghị quyết 1540 (2004) được ban hành về việc kêu gọi sự trừng phạt và cấm vận đối với DPRK, các cuộc đàm phán 6 bên được nối lại với nỗ lực tìm ra giải pháp chung về vấn đề hạt nhân. Tuy nhiên, DPRK đã biện hộ với ĐHĐ rằng việc sản xuất vũ khí hạt nhân của mình là để “tự vệ chống lại lời đe dọa hạt nhân từ Mỹ”.

Ngày 10/2/2005, DPRK tuyên bố sở hữu vũ khí hạt nhân. Trong buổi tối diễn ra cuộc họp của các thành viên Hiệp ước Cấm phổ biến vũ khí ngày 1/5/2005, DPRK đã cho phóng một tên lửa tầm ngắn vào vùng biển của Nhật.

Sau đó qua nhiều lần đàm phán, ngày 19/9/2005, DPRK đồng ý từ bỏ toàn bộ chương trình hạt nhân để đáp lại lời hứa về khả năng xây dựng một lò thử nước nhẹ và cam kết không tấn công của Mỹ.

Bất chấp những nỗ lực ngoại giao từ các nước khác và sự cảnh báo liên tục của cộng đồng quốc tế, ngày ngày 4 và 05/07/2006, DPRK đã tiến hành phóng thử 7 tên lửa trong đó có cả tên lửa tầm xa Taepodong-2.

Không những thế, vào ngày hôm sau, 06/07/2006, DPRK thông báo sẽ tiếp tục phóng thử tên lửa và cho rằng việc thử nghiệm này thuộc chủ quyền của DPRK. Đứng trước mối nguy hiểm đối với hòa bình và an ninh thế giới, HĐBA đã ban hành Nghị quyết 1695 ngày 15/07/2006, lên án mạnh mẽ việc thử nghiệm hạt nhân của DPRK.

2.Nội dung Nghị quyết 1695 Tiểu luận:Liên Hợp Quốc và các khía cạnh pháp lý

a.Cơ sở pháp lý của nghị quyết

  • Căn cứ vào Nghị quyết 825 (1993), Nghị quyết 1540 (2004) đã ban hành trước đó.
  • Sự lo ngại đối với việc thử nghiệm hạt nhân của DPRK cũng như tuyên bố sẽ có những cuộc thử nghiệm tiếp theo trong tương lai của nước này đe dọa đến hòa bình, an ninh khu vực và quốc tế.
  • Trách nhiệm của HĐBA trong việc duy trì hòa bình và an ninh quốc tế.

b.Nội dung chính của Nghị quyết

Đối với DPRK

  • Lên án các vụ phóng tên lửa đạn đạo của DPRK ngày 05/07/2006, giờ địa phương;
  • Yêu cầu DPRK đình chỉ tất cả các hoạt động liên quan đến chương trình tên lửa đạn đạo, và trong hoàn cảnh này thiết lập lại các cam kết từng có đối với trì hoãn phóng tên lửa;
  • Nhấn mạnh rằng, đặc biệt là DPRK, cần thiết phải kiềm chế bất cứ mọi hành động có thể làm gia tăng căng thẳng, và tiếp tục thực hiện các giải pháp không phổ biến vũ khí hạt nhân thông qua các nỗ lực chính trị và ngoại giao;
  • Khẩn thiết yêu cầu DPRK ngay lập tức trở lại bàn đàm phán 6 bên mà không đưa ra bất kì điều kiện nào, và nhanh chóng tiến hành thực thi Tuyên bố chung ngày 19/09/2005, đặc biệt là từ bỏ tất cả vũ khí cũng như các chương trình hạt nhân để sớm quay trở lại với NPT và các biện pháp bảo đảm của IAEA;
  • Đối với các quốc gia thành viên, HĐBA kêu gọi sự trừng phạt và cấm vận từ các nước đối với DPRK về hỗ trợ tài chính và vận chuyển (thu mua) tên lửa, những thứ liên quan đến tên lửa vào DPRK cũng như các chương trình vũ khí hủy diệt hàng loạt.
  • Đồng thời, HĐBA ủng hộ việc nối lại đàm phán 6 bên, thúc đẩy thực thi Tuyên bố chung (19/09/2005) với mục đích đạt được sự phi hạt nhân hóa ở bán đảo Triều Tiên bằng cách thức hòa bình và để duy trì hòa bình, ổn định ở bán đảo Triều Tiên cũng như Đông Bắc Á.
  • HĐBA quyết định tiếp tục theo dõi toàn bộ sự việc.

3.Phản ứng của các quốc gia Tiểu luận:Liên Hợp Quốc và các khía cạnh pháp lý

a.Phản ứng của các quốc gia khác

Nhật :

Là nước đầu tiên đưa ra phản hồi ngay sau khi Nghị quyết 1695 được thông qua, Nhật cho rằng việc đồng thuận đưa ra nghị quyết trên đánh dấu một bước tiến trong việc tăng cường hòa bình và an ninh trên bán đảo Triều Tiên cũng như trên toàn Đông Bắc

HĐBA đã hành động kịp thời và cứng rắn khi đưa ra nghị quyết lên án việc thử nghiệm hạt nhân của DPRK. Thông qua Nghị quyết, HĐBA đã gửi thông điệp rõ ràng và mạnh mẽ đến DPRK, đồng thời đồng ý với những biện pháp ràng buộc mà cả DPRK và các nước thành viên đều có nghĩa vụ phải tuân theo để tìm ra giải pháp cho vấn đề hạt nhân của DPRK. Nhật yêu cầu DPRK đình chỉ ngay các hoạt động liên quan đến vũ khí hạt nhân, đồng thời quay trở lại bàn đàm phán 6 bên một cách vô điều kiện.

Mỹ :

Theo Mỹ, hành động của DPRK là sự đe dọa trực tiếp đối với hòa bình và an ninh thế giới, đồng thời vi phạm nhiều thỏa thuận quốc tế mà nước này đã ký kết. Đại diện của Mỹ nhấn mạnh rằng Nghị quyết 1695 là nghị quyết đầu tiên kể từ sau Nghị quyết năm 1993 phản ánh tính nghiêm trọng của vụ việc, cũng như thể hiện sự thống nhất và cương quyết của HĐBA. Mỹ còn bày tỏ hy vọng DPRK sẽ nhận ra rằng theo đuổi chương trình vũ khí sát thương hàng loạt và những hành động đe dọa không phải là cách để bảo vệ an ninh quốc gia. Hơn nữa, Mỹ cho rằng HĐBA và các nước thành viên cần chuẩn bị những phương án khác đề phòng trường hợp DPRK không tuân theo những yêu cầu của Nghị quyết 1695 này.

Trung Quốc :

Phía TQ ra lời kêu gọi các bên liên quan hết sức kiềm chế và TQ sẵn sàng chống lại bất cứ hành động nào làm gia tăng căng thẳng. TQ hi vọng rằng Nghị quyết này sẽ giúp các bên liên quan hành động bình tĩnh và tiếp tục những nỗ lực ngoại giao nhằm tiến tới phi hạt nhân hóa bán đảo Triều Tiên cũng như bình thường hóa quan hệ giữa các nước. Duy trì hòa bình và ổn định trên bán đảo Triều Tiên là để đảm bảo lợi ích chung của cộng đồng quốc tế và các nước Đông Bắc Á, và đó cũng là bước khởi đầu cơ bản của TQ trong việc giải quyết vấn đề bán đảo Triều Tiên.

LB Nga :

Nga rất hoan nghênh sự phản ứng kịp thời của HĐBA khi thông qua Nghị quyết với sự thỏa hiệp giữa các thành viên. Điều đó cho thấy khả năng phản ứng hiệu quả của HĐBA. Nghị quyết là một thỏa hiệp và là thông điệp quan trọng dành cho DPRK rằng nước này cần kiềm chế, đình chỉ các hoạt động thử nghiệm hạt nhân và quay lại bàn đàm phán 6 bên. Đồng thời Nga bày tỏ mối lo ngại đối với hành động của DPRK phóng thử tên lửa mà không thông báo trước. Tuy nhiên, Nga nhấn mạnh rằng HĐBA cần phải cân nhắc và khẳng định những hành động của mình. Tiểu luận:Liên Hợp Quốc và các khía cạnh pháp lý

Hàn Quốc :

HQ lấy làm tiếc trước hành động không thể chấp nhận được của DPRK, làm tổn hại đến hòa bình và an ninh Đông Bắc Á. Bên cạnh đó, HQ đánh giá cao những nỗ lực của HĐBA thể hiện ở sự nhất trí thông qua Nghị quyết này. Đối với DPRK, HQ yêu cầu nước này kiềm chế các hành động khiêu khích khác, quay trở lại đàm phán 6 bên và tuân theo những nỗ lực quốc tế trong việc không phổ biến vũ khí hạt nhân.

b.Phản ứng của DPRK

DPRK hoàn toàn phản đối Nghị quyết này. Ông Pak Gil Yon cho rằng HĐBA đã không công bằng khi lên án việc phóng thử tên lửa của DPRK, xét theo thẩm quyền của HĐBA cũng như của luật quốc tế. Bên cạnh đó DPRK còn lên án việc một số quốc gia đã lạm dụng HĐBA vì mục đích chính trị và để gây áp lực đối với DPRK.

Ông còn cho rằng việc phóng thử tên lửa là một phần của hoạt động quân sự nhằm tăng cường khả năng phòng ngự của lực lượng quân đội nước DPRK, và là quyền hợp pháp thuộc chủ quyền của DPRK. Trong tương lai, DPRK hứa hẹn sẽ tiếp tục những vụ thử tên lửa tiếp theo để tăng cường khả năng phòng ngự của mình. DPRK còn nhấn mạnh rằng sẽ có những phản ứng mạnh đối với bất kì nước nào phản đối và tạo áp lực về vấn đề này đối với DPRK.

4.Đánh giá

  • Nghị quyết được 15 thành viên nhất trí thông qua và gửi đến DPRK một thông điệp cứng rắn như một lời cảnh cáo về những hành động gây nguy hiểm đến hòa bình, an ninh khu vực cũng như thế giới.
  • Thông qua nghị quyết này, HĐBA đã thực hiện tốt vai trò gìn giữ hòa bình, an ninh thế giới của mình thể hiện ở việc ban hành nghị quyết kịp thời, ngay sau khi DPRK phóng thử tên lửa.
  • Tuy nhiên, nghị quyết này chỉ đưa ra những lời cảnh báo suông cho DPRK mà không có một biện pháp mang tính ràng buộc pháp lý nào cả, vì Nga và TQ cho rằng các biện pháp theo chương 7 của Hiến chương LHQ có thể sẽ làm cho tình hình trở nên phức tạp hơn, do đó nên sử dụng các biện pháp ngoại giao trong trường hợp này. Tiểu luận:Liên Hợp Quốc và các khía cạnh pháp lý

D. NGHỊ QUYẾT 1718

1. Hoàn cảnh ra đời Nghị quyết 1718

Sau khi Nghị quyết 1695 được HĐBA ban hành ngày 15/07/06 với nỗ lực hạn chế và ngăn chặn các hành động tiếp theo của DPRK trong vấn đề hạt nhân, DPRK vẫn tiếp tục đẩy mạnh hoạt động của mình.

Ngày 03/10/06, DPRK thông báo sẽ tiến hành một cuộc thử nghiệm vũ khí hạt nhân nữa, đồng thời cáo buộc chính sách thù địch của Mỹ đối với nước này. Đáp lại lời cáo buộc đó, Mỹ đã lên tiếng đe dọa DPRK và cho rằng hành động thử nghiệm vũ khí hạt nhân là một hành động đầy khiêu khích.

Ngày 6/10/06, HĐBA nhất trí cảnh cáo DPRK về vấn đề này.

Tuy nhiên, vào ngày 9/10/06, DPRK thông báo về việc thử nghiệm thành công vũ khí hạt nhân ngầm.

Do đó, ngày 14/10/06, HĐBA lại ban hành Nghị quyết 1718 áp đặt cấm vận đối với DPRK và thành lập một Ủy ban Cấm vận (Sanctions Committee).

2. Nội dung Nghị quyết 1718 Cơ sở pháp lý

  • Căn cứ vào Nghị quyết 825 (1993), Nghị quyết 1540 (2004), và đặc biệt là Nghị quyết 1695 (2006), cũng như thông cáo của Chủ tịch Hội đồng Bảo an ngày 6 tháng 10 năm 2006 (S/PRST/2006/41).
  • Mối quan ngại to lớn đối với tuyên bố của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên (DPRK) rằng nước này đã tiến hành vụ thử hạt nhân vào ngày 9 tháng 10 năm 2006, và cho những nỗ lực quốc tế nhằm tăng cường chế định toàn cầu cấm phổ biến vũ khí hạt nhân, và đối với mối nguy hiểm mà vụ thử này sẽ gây ra cho hòa bình và ổn định trong khu vực và xa hơn nữa.
  • Tuyên bố chung ngày 19 tháng 9 năm 2005 giữa Trung Quốc, DPRK, Nhật Bản,
  • Theo Chương VII của Hiến chương và đưa ra các biện pháp theo Điều 41.

3.Nội dung chính của Nghị quyết Tiểu luận:Liên Hợp Quốc và các khía cạnh pháp lý

Đối với DPRK

  • Lên án vụ thử hạt nhân như DPRK tuyên bố vào 9 tháng 10 năm 2006 đã bất chấp trắng trợn các nghị quyết liên quan, đặc biệt là nghị quyết 1695 (2006), cũng như thông cáo của Chủ tịch Hội đồng Bảo an ngày 6 tháng 10 năm 2006 (S/PRST/2006/41), nói rằng vụ thử nghiệm sẽ bị lên án rộng rãi bởi cộng đồng quốc tế và sẽ tạo nên một mối đe dọa rõ ràng cho hòa bình và an ninh quốc tế.
  • Yêu cầu rằng DPRK không tiến hành bất kỳ vụ thử hạt nhân hay phóng tên lửa mang đầu đạt nhân nào nữa.
  • Yêu cầu rằng DPRK ngay lập tức thu lại tuyên bố rút khỏi Hiệp ước NPT của mình.
  • Yêu cầu rằng DPRK trở lại NPT và các biện pháp bảo đảm của IAEA, và nhấn mạnh điều cần thiết rằng mọi Quốc gia thành viên của NPT phải tiếp tục tuân thủ nghĩa vụ theo Hiệp ước của họ.
  • Quyết định rằng DPRK sẽ tạm ngừng mọi hành động liên quan tới chương trình tên lửa mang đầu đạn và trong bối cảnh này, thiết lập lại các cam kết từng có đối với trì hoãn phóng tên lửa.
  • Quyết định rằng DPRK sẽ từ bỏ tất cả vũ khí hạt nhân và chương trình hạt nhân hiện tại một cách hoàn toàn, được giám sát và không thể đảo ngược; và sẽ tuân thủ nghiêm ngặt với các nghĩa vụ đối với các bên theo NPT, và điều khoản của thỏa thuận giám sát IAEA, và sẽ cung cấp cho IAEA các biện pháp minh bạch ngoài các điều khoản trên, kể cả việc tiếp cận tới cá nhân, các tài liệu, thiết bị và phương tiện mà IAEA yêu cầu hoặc thấy cần thiết.
  • Quyết định rằng DPRK sẽ từ bỏ tất cả mọi vũ khí hủy diệt hàng loạt và chương trình tên lửa mang đầu đạn khác một cách hoàn toàn, được giảm sát và không thể đảo ngược. Đối với các quốc gia khác

Quyết định rằng:

  • mọi Quốc gia Thành viên (UN) sẽ ngăn cản việc cung cấp, bán hoặc chuyển nhượng trực tiếp hay gián tiếp cho DPRK, thông qua lãnh thổ hay công dân của mình, hoặc sử dụng tàu biển hay tàu bay mang cờ nước mình, và dù có nguồn gốc từ lãnh thổ của mình hay không, đối với:
  • bất kỳ xe tăng chiến đấu, phương tiện chiến đấu vũ trang, hệ thống phòng không cỡ lớn, máy bay chiến đấu, trực thăng tấn công, tàu chiến, tên lửa hoặc hệ thống tên lửa như được định nghĩa tại UNRCA (United Nations Register on Conventional Arms), hoặc văn bản liên quan bao gồm cả thiết bị dự phòng hoặc các hạng mục như Hội đồng hay Ủy ban (thành lập theo mục 12 đưới đây) xác định.
  • tất cả các hạng mục, vật dụng, thiết bị, hàng hóa và công nghệ được liệt kê trong văn bản S/2006/814 và S/2006/815, trừ khi trong vòng 14 ngày từ

khi thông qua Nghị quyết này, Ủy ban có sửa đổi hay hoàn thành danh sách trong văn bản S/2006/816, cũng như các hạng mục, vật dụng, thiết bị, hàng hóa và công nghệ theo xác định của Hội đồng hay Ủy ban mà có thể sử dụng cho chương trình liên quan đến hạt nhân, tên lửa đầu đạn hay vũ khí hủy diệt hàng loạt. Tiểu luận:Liên Hợp Quốc và các khía cạnh pháp lý

  • hàng hóa cao cấp.
  • DPRK sẽ ngừng việc xuất khẩu mọi hạng mục liệt kê tại khoản (a.i) và (a.ii) ở trên, và mọi Quốc gia Thành viên sẽ cấm việc mua bán các hạng mục đó từ DPRK của công dân mình; hay sử dụng tàu biển hay tàu bay mang cờ nước mình và dù xuất phát từ DPRK hay không; mọi Quốc gia thành viên sẽ ngăn chặn bất kỳ sự chuyển giao nào cho DPRK từ công dân của mình hay từ lãnh thổ của mình, hay từ DPRK bởi công dân của họ hay từ lãnh thổ của họ, việc huấn luyện kĩ thuật, cố vấn hay các dịch vụ hoặc trợ giúp liên quan đến việc cung cấp, chế tạo, bảo dưỡng hoặc sử dụng các hạng mục theo khoản (a.i) và (a.ii) ở trên.
  • Hoan nghênh và khuyến khích hơn nữa các nỗ lực từ tất cả các quốc gia liên quan nhằm tăng cường những nỗ lực ngoại giao, kiềm chế mọi hành động có thể làm căng thẳng trầm trọng hơn và tạo điều kiện thuận lợi cho việc nối lại đàm phán sáu bên, với mục đích nhanh chóng triển khai Thông cáo chung đưa ra bởi 6 quốc gia (Trung Quốc, DPRK, Nhật Bản, Hàn Quốc, Nga và Mỹ) nhằm có được cam kết thiết lập một khu vực không có vũ khí hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên và gìn giữ hòa bình và ổn định trên bán đảo và khu vực Đông Bắc Á.
  • Kêu gọi DPRK ngay lập tức trở lại vòng đàm phán sáu bên vô điều kiện và tiếp tục triển khai nhanh chóng Thông cáo chung đưa ra bởi Trung Quốc, CHDCND Triều Tiên, Nhật Bản, Hàn Quốc, Nga và Mỹ.

4. Phản ứng của các quốc gia

a.Phản ứng từ các quốc gia khác

Mỹ:

Việc DPRK thử vũ khí hạt nhân đã gây ra một trong những mối đe dọa to lớn nhất với nền hòa bình và an ninh quốc tế mà Hội đồng Bảo an đã từng phải đối mặt. Nghị quyết vừa thông qua đã gửi một thông điệp mạnh mẽ và rõ ràng tới DPRK và các quốc gia có ý đồ phổ biến vũ khí hạt nhân khác rằng, nếu họ còn tiếp tục lựa chọn triển khai vũ khí hủy diệt hàng loạt, họ sẽ phải đối mặt với những hậu quả thực sự nghiêm trọng. Mỹ cũng vi mừng về việc mọi thành viên hội đồng bảo an đã thực sự liên kết đồng tình với nhau đưa ra nghị quyết này, và tin tưởng rằng mọi nguy cơ đối với hòa bình và an ninh thế giới có thể được giải quyết thông qua sự liên kết đó. Bên cạnh đó, Mỹ cũng khẳng định cam kết của mình đối với vấn đề an ninh, cụ thể là tăng cường hợp tác với các nước đồng minh nhằm ngăn chặn DPRK nhập khẩu và xuất khẩu công nghệ tên lửa hạt nhân.

Trung Quốc:

Trung Quốc ủng hộ việc Hội đồng Bảo an đưa ra một quyết định chắc chắn và hợp lý về vấn đề DPRK. Trung Quốc bỏ phiếu ủng hộ cho nghị quyết này chính với niềm tin rằng nghị quyết đã khẳng định vị trí to lớn của Hội đồng Bảo an trong cộng đồng quốc tế, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho việc đạt được giải pháp hòa bình cuối cùng cho vấn đề DPRK thông qua đối thoại. Trung Quốc đồng thời cũng gửi thông điệp đến DPRK rằng, việc cấm vận này không phải là chấm dứt mọi quan hệ giữa 2 nước, ngay khi DPRK cam kết thực hiện những yêu cầu của cộng đồng quốc tế, nước này sẽ dỡ bỏ lệnh cấm vận ngay lập tức. Việc đàm phán sáu bên cũng vẫn sẽ được Trung Quốc nỗ lực duy trì bởi đó có thể coi là giải pháp thực tế nhất để giải quyết vấn đề này. Tiểu luận:Liên Hợp Quốc và các khía cạnh pháp lý

Nga:

Tất cả chúng ta đang phải đối mặt với một tình thế vô cùng đặc biệt, vì vậy cũng cần phải đưa ra những giải pháp đặc biệt. Nghị quyết 1718 là một giải pháp thực sự cần thiết nhưng chỉ có thể phát huy hiệu quả của nó một cách toàn diện, với điều kiện có sự nỗ lực đồng bộ của tất cả các quốc gia thông qua các biện pháp chính trị và Ngoại giao. Nga cũng hy vọng rằng DPRK sẽ hiểu một cách đầy đủ quan điểm chung của cộng đồng quốc tế và có những hành động thiết thực nhằm thiết lập một khu vực không có vũ khí hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên.

Nhật:

Nhật Bản hoan nghênh nghị quyết này như một trong những quyết định quan trọng nhất của Hội đồng Bảo an trong thời gian gần đây. Điều đáng nói nhất là quyết định này đã được thông qua bởi sự nhất trí bỏ phiếu của tất cả các thành viên. Hành động của DPRK là không thể chấp nhận được và nó không chỉ đáng bị lên án, cảnh cáo mà còn đáng phải chịu những hành động cần thiết theo chương VII của hiến chương vì đã gây ra mối đe dọa to lớn cho hòa bình và an ninh thế giới. Nhật Bản đồng thời hy vọng rằng DPRK sẽ thiện chí thi hành nghị quyết này cùng với các nghị quyết trước đây của Hội đồng Bảo an. Nhật Bản sẵn sàng nối lại đàm phán đồng thời dỡ bỏ cấm vận nếu DPRK có những giải pháp ngoại giao thiện chí cho những vấn đề giữa hai quốc gia.

Hàn Quốc:

Vụ thử hạt nhân của DPRK đã gây ra sự bất ổn và đe dọa to lớn tới an ninh trên bán đảo Triều Tiên. Hành động này đã vi phạm thỏa thuận Thông cáo chung của các quốc gia hồi tháng 9/2005, đi ngược lại với nghị quyết của Hội đồng Bảo an tháng 7/2006, đồng thời hoàn toàn trái với Tuyên bố chung của hai quốc gia kí năm 1991. Hàn Quốc hy vọng DPRK sẽ sớm trở lại bàn đàm phán 6 bên đồng thời ngưng ngay chương trình hạt nhân của nước này.

b.Phản ứng của DPRK:

Nước này hoàn toàn phủ nhận nghị quyết 1718 của Hội đồng Bảo an. Nghị quyết này thực sự là một hành động cưỡng ép đối với DPRK, nhất là khi Hội đồng Bảo an không hề xem xét tới đe dọa đến từ chương trình vũ khí hạt nhân của Hoa Kỳ đối với nước này. Hội đồng Bảo an đã cư xử thiếu công bằng khi nhìn nhận chương trình hạt nhân của quốc gia này là đe dọa đối với hòa bình an ninh, trong khi trên thực tế thì việc thử vũ khí hạt nhân đã được tiến hành trong một điều kiện hoàn toàn đảm bảo và chỉ nhằm mục đích tăng cường khả năng phòng vệ quốc gia. DPRK khẳng định rằng họ thật sự muốn thiết lập một khu vực không có vũ khí hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên, nhưng mọi nỗ lực và kiên nhẫn của quốc gia này đã bị Hoa Kỳ đáp trả bằng cấm vận và trừng phạt, và nó buộc phải chứng tỏ rằng nó có vũ khí hạt nhân chỉ để bảo vệ quốc gia khỏi nguy cơ chiến tranh từ phía Hoa Kỳ. Và nếu như Hoa Kỳ không tiếp tục những hành động khiêu khích, quốc gia này sẵn sàng đàm phán thương lượng về vấn đề hạt nhân này. Nói cách khác, DPRK sẵn sàng cho cả việc thương lượng cũng như đối đầu, và nó phụ thuộc chủ yếu vào thái độ của Hoa Kỳ đối với nước này.

4.Đánh giá Tiểu luận:Liên Hợp Quốc và các khía cạnh pháp lý

  • nghị quyết này, HĐBA đã áp đặt các biện pháp trừng phạt đối với DPRK. So với nghị quyết 1695, nghị quyết 1718 đã áp dụng các biện pháp mạnh hơn, mang tính ràng buộc pháp lý theo chương 7 Hiến chương LHQ, chứ không còn là những lời cảnh báo như trước nữa. Điều này cho thấy các thành viên đã thật sự cần phải có một biện pháp nghiêm khắc đối với DPRK. Những biện pháp mà HĐBA đưa ra để trừng phạt DPRK hoàn toàn là những biện pháp phi quân sự, phù hợp với mục tiêu giải quyết mọi vấn đề bằng phương pháp hòa bình của LHQ.

ĐÁNH GIÁ CHUNG

Trên thực tế, vấn đề hạt nhân ở CHDCND Triều Tiên và Iran tới thời điểm này vẫn đang diễn biến hết sức phức tạp và vẫn là một mối quan ngại to lớn trong cộng đồng quốc tế. Hàng loạt nghị quyết của Hội đồng Bảo an đã được đưa ra (Iran: 5 nghị quyết, Bắc Triều Tiên: 4 nghị quyết) nhưng vẫn chưa giải quyết triệt để được vấn đề.

Câu hỏi đặt ra là: Tính hiệu quả của các Nghị quyết của Hội đồng Bảo an đến đâu? Nếu nói rằng HĐBA là cơ quan có nhiệm vụ đảm bảo hòa bình và an ninh thế giới thì cơ quan này đã hoàn thành nhiệm vụ của mình chưa? Vai trò của Hội đồng Bảo an và các nghị quyết hay hoạt động của nó có vai trò thế nào trong đời sống quốc tế hiện nay? Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế (nếu có) là gì?

Có thể đưa ra một nhận định chung rằng, các nghị quyết của HĐBA thường được đưa ra khá kịp thời, phần lớn các biện pháp sử dụng đều hợp lý, nhưng do đặc thù mang tính chính trị hóa cao độ (vì luôn chịu ảnh hưởng lớn từ các thành viên P5) nên các nghị quyết đưa ra vẫn gặp phải những phản ứng trái chiều của cộng đồng thế giới, thậm chí đôi lúc còn phản tác dụng, gây nên những phản ứng thái quá từ phía các nước (Iran, Bắc Triều Tiên) và làm tình hình trầm trọng thêm. Bên cạnh đó, do tính cưỡng chế của các biện pháp trong những nghị quyết này còn hạn chế nên chưa thực sự phát huy được hiệu quả trong việc giải quyết triệt để vấn đề này.

Một nhận định khác có thể đưa ra là, trong cả hai vấn đề Iran và CHDCND Triều Tiên, HĐBA chỉ sử dụng các biện pháp đưa ra ở điều 41 chương VII Hiến chương Liên Hợp Quốc chứ chưa sử dụng đến các biện pháp ở điều 42. Bên cạnh đó, các biện pháp này chỉ được sử dụng khi Hội đồng Bảo an đã nhận thấy có nguy cơ trực tiếp đe dọa đến hòa bình và an ninh thế giới (hay nói cách khác, khi vấn đề hạt nhân ở hai nước này đã thực sự có những diễn biến nghiêm trọng) và hầu hết được sự nhất trí của tất cả các thành viên của HĐBA. Có thể nói, trong một chừng mực nào đó, những các nghị quyết trên của HĐBA đã phát huy vai trò tích cực của mình trong việc kiềm chế những hành vi hung hăng từ phía Iran và Bắc Triều Tiên. Tiểu luận:Liên Hợp Quốc và các khía cạnh pháp lý

Tóm lại, mặc dù vẫn còn một số hạn chế nhất định, nhưng Hội đồng Bảo an vẫn chứng tỏ được vai trò của mình trong việc gìn giữ hòa bình và an ninh thế giới.

Ngoài ra, trong quá trình phân tích tìm hiểu vấn đề trên, một số câu hỏi có thể đặt ra:

  • Vì sao trong tình huống của 2 nước này HDBA lại quyết định dùng các biện pháp ở điều 41 thay vì điều 42?
  • Các biện pháp ở điều 41 có nhẹ hơn điều 42 ko?
  • Khi nào các biện pháp ở chương VII được áp dụng? Điều kiện áp dụng là gì?
  • Có trình tự áp dụng nào đối với các biện pháp ở điều 41 và 42 ko?
  • Có thể áp dụng cùng lúc các biện pháp ở điều 41 và 42 ko?
  • Khi nào các biện pháp tạm thời (quy định ở điều 40) được áp dụng? Ví dụ cụ thể về biện pháp tạm thời là như thế nào?
  • Làm sao để xác định có đe dọa “threat” đối với hòa bình và an ninh thế giới?
  • Việc hội đồng bảo an có quyền áp dụng những biện pháp như trên xuất phát từ nguyên tắc nào của luật quốc tế? Liệu có phải HĐBA có quyền hạn quá lớn hay không?
  • Có yếu tố chính trị trong các quyết định của HĐBA hay không?
  • Vấn đề cải tổ Hội đồng Bảo an có nên được đặt ra hay không?

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Contact Me on Zalo
0906865464