Tiểu luận: Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại

Chia sẻ cho các bạn sinh viên ngành luật bài Tiểu luận: Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại. Theo mình biết hiện nay có rất nhiều bạn sinh viên đang có một vấn đề chung là gặp khó khăn trong khi viết bài: luận văn, khóa luận, báo cáo, tiểu luận. Biết được điều đó nên mình đã ở đây để trợ giúp các bạn những bài tiểu luận hay nhất. Hãy liên hệ với mình khi các bạn chưa lên được ý tưởng cho bài làm của mình nhé.

PHẦN 1. GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Bảng Giá Viết Thuê Tiểu Luận Môn

1.Dẫn nhập và giới thiệu đề tài. Tiểu luận: Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại

Trong kinh doanh, giữa các cá nhân, đơn vị kinh doanh luôn phải có sự liên kết với nhau để cùng nhau mang lại lợi nhuận, thông thường cá nhân, đơn vị kinh doanh ký kết với nhau hợp đồng kinh tế nhằm xác định quyền và nghĩa vụ trong kinh doanh, thương mại.

Theo quy định pháp luật thì các bên phải thực hiện đúng và đủ các nghĩa vụ đó. Tuy nhiên, trên thực tế, không phải lúc nào các chủ thể cũng thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình. Do đó, các tranh chấp về việc thực hiện quyền và nghĩa vụ trong hoạt động kinh doanh, thương mại khó có thể tránh khỏi. Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia hợp đồng, cũng như tạo điều kiện hoạt động đồng bộ cho toàn bộ nền kinh tế, các tranh chấp đó cần được giải quyết kịp thời, đúng đắn. Về nguyên tắc khi tranh chấp trong kinh doanh, thương mại xảy ra, để đảm bảo nguyên tắc tự nguyện thỏa thuận trong kinh doanh, pháp luật cho phép các bên gặp nhau tự bàn bạc tìm cách giải quyết. Trong trường hợp các bên không thỏa thuận được với nhau và có yêu cầu thì tranh chấp kinh doanh, thương mại được giải quyết tại Trọng tài hoặc tại Tòa án nhân dân giải quyết theo thủ tục tố tụng quy định trong Bộ luật Tố tụng Dân sự (BLTTDS) được Quốc hội thông qua ngày 15 tháng 6 năm 2004 và có hiệu lực ngày 01 tháng 01 năm 2005. Thông qua bài nghiên cứu với chủ đề “Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh thương mại bằng tố tụng tòa án” nhóm 13 sẽ giúp bạn đọc có cái nhìn rõ hơn về vấn đề này.

2.Giới hạn đề tài.

  • Về đối tượng: các vấn đề liên quan đến Luật Kinh Doanh, Luật tố tụng dân sự năm 2005 và pháp lệnh Tòa án
  • Về thời gian: thời gian nghiên cứu đề tài được thực hiện trong vòng 08 tuần từ ngày 24/10/2011 đến ngày 30/12/2011
  • Mức độ nghiên cứu: đề tài được nghiên cứu ở mức độ lý thuyết ứng dụng. Tiểu luận: Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại

3.Mục tiêu nghiên cứu đề tài.

  • Nắm rõ các đặc điểm của hình thức giải quyết tranh chấp kinh doanh bằng tố tụng tòa án.
  • Biết được trình tự giải quyết vụ án tranh chấp kinh doanh bằng tố tụng tòa án.
  • Phân tích và rút ra được các Ưu và Nhược điểm của hình thức tố tụng tòa án
  • Giúp người đọc và doanh nghiệp hiểu được quy trình thực hiện của tố tụng tòa án để có thể ứng dụng vào thực tiễn khi cần.

4.Phương pháp nghiên cứu đề tài.

Để đạt được những mục tiêu trên thì một số phương pháp đã được áp dụng và được tổng hợp để nghiên cứu đề tài là:

  • Quan sát thực tế, tổng hợp đánh giá và nhận định các vấn đề liên quan;
  • Thu thập tài liệu, thông tin về Luật Kinh Doanh;
  • Thông qua các trang mạng có uy tín.

5.Các bước thực hiện nghiên cứu đề tài. Tiểu luận: Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại

Các bước thực hiện nghiên cứu đề tài bao gồm các bước sau:

  • Bước 1. Nhận đề tài nghiên cứu.
  • Bước 2. Xác định các vấn đề cần nghiên cứu trong đề tài để đạt được mục tiêu đề ra.
  • Bước 3. Tìm hiểu, thu thập thông tin chọn lọc tài liệu và website tham khảo phục vụ cho quá trình nghiên cứu.
  • Bước 4. Quan sát tổng hợp các vấn đề liên quan đề tài.
  • Bước 5. Tham khảo ý kiến của những người có kinh nghiệm.
  • Bước 6. Bổ sung và điều chỉnh các vấn đề cho phù hợp.
  • Bước 7. Viết thuyết minh báo cáo, thuyết trình trước tập thể lớp và Giảng viên hướng dẫn, hoàn thiện đề tài nghiên cứu.
  • Bước 8. Đánh giá, nhận xét của Giảng viên hướng dẫn.

CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ TỐ TỤNG TÒA ÁN

1.1 Khái niệm tố tụng tòa án. Tiểu luận: Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại

Giải quyết tranh chấp kinh doanh bằng Toà án là hình thức giải quyết tranh chấp thông qua hoạt động của cơ quan tài phán Nhà nước, nhân danh quyền lực Nhà nước để đưa ra phán quyết buộc các bên có nghĩa vụ thi hành, kể cả bằng sức mạnh cưỡng chế, hay nói khác đi, các tranh chấp kinh doanh, thương mại được giao cho Tòa án giải quyết theo trình tự gọi là Tố tụng Tòa án.

1.2 Khái quát về thời điểm ra đời của tố tụng tòa án

Trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá vận hành theo cơ chế thị trường với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế có chế độ sở hữu khác nhau, các quan hệ kinh tế ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp. Mục đích tìm kiếm lợi nhuận không những là động lực trực tiếp thúc đẩy quá trình mở rộng các giao lưu kinh tế, mà còn là lý do tồn tại của các chủ thể kinh tế.

Cùng với sự phát triển của các quan hệ kinh tế và dưới sự tác động trực tiếp của quy luật cạnh tranh, tranh chấp kinh tế cũng trở nên phong phú hơn về chủng loại, gay gắt, phức tạp hơn về tính chất và quy mô. Để giải quyết các tranh chấp này khi mà các bên không thể tự thương lượng, hòa giải được thì đòi hỏi phải có sự tham gia của các cơ quan, tổ chức tài phán, pháp luật Việt Nam.

Vào thời điểm trước ngày 01/01/2005, tố tụng tòa án được giải quyết theo qui định riêng dựa vào pháp lệnh giải quyết các vụ án kinh tế có hiệu lực từ 01/07/1994, nhưng từ ngày 01/01/2005 thủ tục giải quyết các vụ án kinh doanh thương mại được qui định chung trong Bộ luật Tố tụng dân sự, vì vậy có một số qui định giống với các tranh chấp dân sự khác như hôn nhân gia đình, lao động, … Bên cạnh đó, cũng có một số qui riêng chỉ áp dụng đối với tranh chấp về kinh doanh, thương mại và các yêu cầu về kinh doanh, thương mại.

1.3 Các yêu cầu của quá trình giải quyết tranh chấp trong kinh doanh Tiểu luận: Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại

Tranh chấp là hệ quả tất yếu xảy ra trong hoạt động kinh doanh và vì vậy giải quyết tranh chấp phát sinh được coi là đòi hỏi tự thân của các quan hệ kinh tế. Theo hiểu biết chung: giải quyết tranh chấp trong kinh doanh chính là việc lựa chọn các hình thức biện pháp thích hợp để giải toả các mâu thuẫn, bất đồng, xung đột lợi ích giữa các bên, tạo lập lại sự cân bằng về mặt lợi ích mà các bên có thể chấp nhận được. Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường phải đáp ứng các yêu cầu:

  • Nhanh chóng, thuận lợi không làm hạn chế, cản trở các hoạt động kinh doanh.
  • Khôi phục và duy trì các quan hệ hợp tác, tín nhiệm giữa các bên trong kinh doanh.
  • Giữ bí mật kinh doanh, uy tín của các bên trên thương trường.
  • Kinh tế nhất, ít tốn kém nhất.

1.4 Những nguyên tắc cơ bản trong giải quyết tranh chấp kinh doanh, thƣơng mại bằng tố tụng tòa án.

Các nguyên tắc cơ bản trong giải quyết vụ án kinh doanh, thương mại là những tư tưởng chỉ đạo, hướng dẫn việc giải quyết vụ án kinh doanh, thương mại và được ghi nhận trong các quy phạm pháp luật vê thủ tục giải quyết các vụ án kinh doanh, thương mại.

Là một bộ phận của tòa án nhân dân, Tòa án kinh tế cũng phải tuân theo các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của cơ quan tòa án nói chung được ghi nhận trong hiến pháp 1992 và Luật Tổ chức tòa án nhân dân. Cụ thể, đó là các nguyên tắc như : khi xét xử, thẩm phán vụ án hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, nguyên tắc xét xử công khai, xét xử tập thể và quyết định theo đa số, Tòa án đảm bảo cho nhân dân được dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình trước tòa… Ngoài ra, là một tòa chuyên trách độc lập, trong hoạt động xét xử các vụ án kinh doanh, thương mại, tòa kinh tế cũng phải tuân thủ những nguyên tắc riêng. Dưới đây, chúng ta cùng xem xét các nguyên tắc này.

1.4.1 Nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của các đương sự Tiểu luận: Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại

Tôn trọng quyền tự do định đoạt của các đương sự bắt nguồn từ nguyên tắc bảo đảm quyền tự do kinh doanh. Nguyên tắc này được ghi nhận tại điều 5 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2005: “1. Đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Toà án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự. Toà án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó. 2. Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, các đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi các yêu cầu của mình hoặc thoả thuận với nhau một cách tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội”.

Đây là nguyên tắc rất căn bản của tố tụng vụ án kinh doanh, thương mại. Trên cơ sở đảm bảo quyền tự do kinh doanh, Nhà nước không can thiệp vào hoạt động kinh doanh của các các nhà kinh doanh nếu họ kinh doanh trong khuôn khổ do pháp luật quy định. Khi xảy ra tranh chấp, Tòa án chỉ tham gia giải quyết nếu đương sự có yêu cầu. Nhà nước không tự mình đưa các tranh chấp của các bên ra Tòa án để giải quyết. Cá nhân, pháp nhân, theo thủ tục do pháp luật quyđịnh, có quyền khởi kiện vụ án kinh doanh, thương mại để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của các đương sự được thể hiện trong suốt các giai đoạn của quá trình tố tụng: họ có thể khởi kiện hoặc không khởi kiện; trong quá trình giải quyết vụ việc, các đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi các yêu cầu của mình hoặc thỏa thuận với nhau một cách tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Việc thực hiện quyền này của đương sự không chỉ dừng lại việc giải quyết theo thủ tục sơ thẩm, thủ tục phúc thẩm mà còn được thực hiện cả trong các giai đoạn của quá trình thi hành bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.

1.4.2 Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật

Quyền bình đẳng trước pháp luật là quyền cơ bản của công dân đã được ghi nhận trong Hiến Pháp 1992. Quyền này đã được cụ thể hoá trong nhiều văn bản pháp luật, trong đó có BLTTDS: “Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, trước Toà án không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp. Mọi cơ quan, tổ chức đều bình đẳng không phụ thuộc vào hình thức tổ chức, hình thức sở hữu và những vấn đề khác. Các đương sự đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự, Toà án có trách nhiệm tạo điều kiện để họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình.” (Điều 8 BLTTDS). Việc cụ thể hoá quyền bình đẳng trước pháp luật trong tố tụng kinh tế có ý nghĩa đặc biệt quan trọng vì nó còn thể hiện sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Tiểu luận: Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại

1.4.3. Nguyên tắc Tòa án không tiến hành điều tra mà chỉ xác minh thu thập chứng cứ

Nguyên tắc này thể hiện bản chất dân sự trong việc giải quyết các tranh chấp trong kinh doanh, thương mại. Khác với giải quyết các vụ án hình sự, giải quyết tranh chấp trong kinh doanh thương mại thì Tòa án không tiến hành điều tra mà đương sự phải cung cấp chứng cứ, Tòa án chỉ xác minh, thu thập chứng cứ trong những trường hợp nhất định (Điều 6 BLTTDS).

Việc quy định đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình, trong trường hợp đương sự không thể tự mình thu thập được chứng cứ và có yêu cầu thì Thẩm phán mới tự mình thu thập chứng cứ hoặc trong các trường hợp khác mà pháp luật có quy định.

Để đảm bảo cho các đương sự khả năng chủ động trong việc tự bảo vệ quyền lợi của mình, kể cả Luật Tố tụng dân sự sửa đổi bổ sung (Số 65/2011/QH12; áp dụng từ 01/01/2012) cũng duy trì và mở rộng quyền và nghĩa vụ của các đương sự. Theo đó đương sự được phép yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lưu trữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp tài liệu, chứng cứ đó cho mình để giao nộp cho Tòa án (Điều 58).

Tại điều 7 – Luật số 65, bổ sung thêm Viện kiểm sát là cơ quan tham gia nguồn tài liệu, chứng cứ được cung cấp để tăng tính khách quan của vụ việc:

“Cá nhân, cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm cung cấp đầy đủ và đúng thời hạn cho đương sự, Tòa án, Viện kiểm sát tài liệu, chứng cứ mà mình đang lưu giữ, quản lý khi có yêu cầu của đương sự, Tòa án, Viện kiểm sát và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc cung cấp tài liệu, chứng cứ đó; trong trường hợp không cung cấp được thì phải thông báo bằng văn bản cho đương sự, Tòa án, Viện kiểm sát biết và nêu rõ lý do của việc không cung cấp được tài liệu, chứng cứ”.

1.4.4  Nguyên tắc hòa giải

Nguyên tắc hòa giải trong tố tụng kinh tế được quy định tại Điều 10 BLTTDS, theo nguyên tắc này: “Toà án có trách nhiệm tiến hành hoà giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật này”.

Bản chất của quan hệ kinh tế được thiết lập trên cơ sở tự nguyện và quyền tự định đoạt của đương sự, do đó việc giải quyết các tranh chấp phát sinh từ các quan hệ này được thực hiện theo những biện pháp nhất định, trong đó hòa giải là một biện pháp quan trọng và là nguyên tắc bắt buộc trong tố tụng dân sự. Hòa giải có ý nghĩa hết sức quan trọng, được thực hiện nhằm mục đích phát huy truyền thống đoàn kết, tương trợ giữa các bên tham gia quan hệ kinh tế, nâng cao kết quả giải quyết các tranh chấp trong kinh doanh, thương mại. Đồng thời làm tốt hòa giải sẽ hạn chế những tốn kém về tiền bạc, thời gian của Nhà nước, công sức của cán bộ Nhà nước cũng như của công dân, hạn chế những khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực tư pháp. BLTTDS cũng quy định cụ thể việc hòa giải được thực hiện ở tất cả các giai đoạn sơ thẩm, phúc thẩm, từ khi chuẩn bị xét xử đến khi bắt đầu xét xử tại phiên tòa, trừ những vụ án không được hòa giải như yêu cầu đòi bồi thường gây thiệt hại đến tài sản Nhà nước, hoặc những vụ án kinh tế phát sinh từ giao dịch trái pháp luật hoặc đạo đức xã hội.

1.4.5 Nguyên tắc giải quyết vụ án nhanh chóng, kịp thời Tiểu luận: Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại

Xuất phát từ nhu cầu kinh doanh, việc giải quyết tranh chấp không những bảo đảm đúng pháp luật mà còn phải nhanh chóng, kịp thời, dứt điểm, tránh dây dưa, kéo dài, đảm bảo khắc phục kịp thời cho bên bị vi phạm. Trong BLTTDS quy định cụ thể thời hạn ở các giai đoạn tố tụng, như thời hạn thụ lý, thời hạn thu thập chứng cứ và đưa vụ việc ra xét xử, thời hạn phát hành quyết định, bản án, thời hạn kháng cáo, khiếu nại và giải quyết theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm… Phần lớn Toà án các cấp đều giải quyết vụ việc trong thời hạn luật định.

1.5.1 Thẩm quyền của tòa án kinh tế

Thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh tế là quyền và nghĩa vụ của Tòa án kinh tế trong lĩnh vực giải quyết tranh châp kinh doanh, thương mại

Khi xảy ra một tranh chấp kinh tế, cần xác định rõ nó thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan nào, việc xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh tế có ý nghĩa quan trọng trong việc thụ lý, chuẩn bị hồ sơ và giải quyết tranh chấp kinh tế cũng như thi hành quyết định, bản án của Tòa án kinh tế.

Thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại được Bộ luật Tố tụng dân sự quy định theo những nội dung sau đây:

Thẩm quyền theo vụ việc.

Thẩm quyền theo vụ việc là việc xác định thẩm quyền giải quyết vụ việc tranh chấp xảy ra thuộc cơ quan nào: Cơ quan quản lý cấp trên, tòa dân sự, hay tòa kinh tế? Bộ luật Tố tụng Dân sự quy định vụ án kinh doanh, thương mại được chia thành hai loại : Những tranh chấp về kinh doanh, thương mại và những yêu cầu về kinh doanh, thương mại

Những tranh chấp về kinh doanh thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

Theo qui định của bộ luật TTDS (điều 29 BLTTDS có hiệu lực áp dụng từ ngày 01/01/2005), các tranh chấp yêu cầu về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền của tòa án giải quyết gồm có:

 Các tranh chấp về kinh doanh thương mại như:

  • Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng kí kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận bao gồm 14 lĩnh vực (khoản 1-Điều 29 BLTTDS):
  • Mua bán hàng hóa
  • Cung ứng dịch vụ
  • Phân phối
  • Đại điện, đại lý,
  • Ký gởi,
  • Thuê, cho thuê, thuê mua.
  • Xây dựng,
  • Tư vấn, kỹ thuật
  • Vận chuyển hàng hóa, hành khách bằng đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa.
  • Vận chuyển hàng hóa hành khách bằng đường hàng không, đường biển.
  • Mua bán cổ phiếu, trái phiếu, và các giấy tờ có giá khác
  • Đầu tư tài chính, ngân hàng
  • Bảo hiểm,
  • Thăm dò, khai thác
  • Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, quyền chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận (Khoản 2- Điều 29 BLTTDS).

BLTTDS đã mở rộng các tranh chấp về kinh doanh thương mại sang cả tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ giữa các cá nhân, tổ chức với nhau đều có mục đích lợi nhuận là một loại tranh chấp kinh doanh, thương mại.

Theo quy định tại Khoản 4- Điều 25 BLTTDS, tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ cũng thuộc loại tranh chấp về dân sự. Do đó, ranh giới để phân biệt tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ thuộc về tranh chấp dân sự hay tranh chấp về kinh doanh, thương mại thì phải dựa vào tiêu chí mục đích lợi nhuận của tranh chấp. Mục 3.4. Phần I của Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP đã xác định: “Đối với các tranh chấp quy định tại khoản 2 Điều 29 của BLTTDS thì không nhất thiết đòi hỏi cá nhân, tổ chức phải có đăng ký kinh doanh mà chỉ đòi hỏi cá nhân, tổ chức đều có mục đích lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh, thương mại; nếu chỉ có một bên có mục đích lợi nhuận, còn bên kia không có mục đích lợi nhuận, thì tranh chấp đó là tranh chấp về dân sự”.

  • Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sát nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty. (Khoản 3- Điều 29 BLTTDS). Trường hợp này có các dạng tranh chấp như sau:
  • Tranh chấp giữa công ty với các thành viên công ty: Đó là những tranh chấp về những vấn đề: phần vốn góp của mỗi thành viên đối với công ty; mệnh giá cổ phiếu và số cổ phiếu phát hành đối với mỗi công ty cổ phần; quyền sở hữu một phần tài sản của công ty tương ứng với phần vốn góp vào công ty; quyền được chia lợi nhuận hoặc nghĩa vụ chịu lỗ tương ứng với phần vốn góp vào công ty, chuyển đổi các khoản nợ hoặc thanh toán các khoản nợ của công ty, thanh lý tài sản và thanh lý hợp đồng mà công ty đã ký khi giải thể công ty; các vấn đề khác liên quan đến thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức công ty.
  • Tranh chấp giữa thành viên công ty với nhau: Đó là tranh chấp về những vấn đề như: trị giá phần vốn góp vào công ty giữa các thành viên của công ty; chuyển nhượng vốn góp vào công ty giữa các thành viên của công ty, giữa thành viên của công ty với người không phải là thành viên công ty; quyền sở hữu tài sản của thành viên; chuyển nhượng cổ phiếu, mệnh giá cổ phiếu,…

Các tranh chấp về kinh doanh thƣơng mại khác mà pháp luật có quy định (Khoản 4- Điều 29 BLTTDS).

Xuất phát từ hoạt động kinh doanh, thương mại ngày càng đa dạng, phong phú, phức tạp trong nền kinh tế thị trường nên nhà làm luật khó có thể liệt đầy đủ mọi tranh chấp về kinh doanh, thương mại. Do đó, đây là quy định mở, mang tính dự liệu, đón đầu của pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực kinh doanh và tranh chấp về kinh doanh, thương mại. Tuy nhiên, hiện nay, những tranh chấp kinh doanh, thương mại khác mà chưa được xác định cụ thể là loại tranh chấp nào và thuộc tòa án cấp nào giải quyết thì pháp luật vẫn chưa đề ra những tiêu chí nhất định. Tiểu luận: Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại

Những yêu cầu về kinh doanh, thương mại thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

Theo quy định tại Điều 30 Bộ luật Tố tụng Dân sự, Toà án có thẩn quyền giải quyết các yêu cầu về kinh doanh thương mại sau đây :

  • Yêu cầu liên quan đến việc Trọng tài thương mại Việt Nam giải quyết các vụ tranh chấp theo quy định của pháp luật về Trọng tài thương mại. Đây là các yêu cầu như :
  • Chỉ định, thay đổi Trọng tài viên.
  • Áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời.
  • Huỷ quyết định trọng tài.
  • Các việc dân sự khác mà pháp luật về Trọng tài thương mại Việt Nam có quy định.
  • Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định kinh doanh, thương mại của Toà án nước ngoài hoặc không công nhận bản án, quyết định kinh doanh, thương mại của Toà án nước ngoài mà không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam.
  • Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định kinh doanh, thương mại của Trọng tài nước ngoài.
  • Các yêu cầu khác về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy định.

Thẩm quyền theo cấp tòa

Thẩm quyền theo cấp Tòa theo điều 33 – BLTTDS là việc phân định thẩm quyền của Tòa án theo cấp của Tòa án, xem xét vụ án đó thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án cấp huyện, cấp tỉnh, hay Tòa án Nhân dân tối cao. Theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự, thẩm quyền theo cấp tòa được phân định như sau:

Tòa án nhân dân cấp huyện:

Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp về kinh doanh, thương mại giữa các cá nhân, tổ chức có đăng kí kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận quy định tại các điểm a, b, c, d, đ, e, g, h và i Khoản 1 – Điều 29 của BLTTDS bao gồm:

  • Mua bán hàng hoá
  • Cung ứng dịch vụ
  • Phân phối
  • Đại diện, đại lý
  • Ký gửi
  • Thuê, cho thuê, thuê mua
  • Xây dựng
  • Tư vấn, kỹ thuật
  • Vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường sắt, đường bộ, đường thuỷ nội địa

Tuy nhiên, nếu các tranh chấp này mà có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải ủy thác tư pháp cho cơ quan Lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài, cho Tòa án nước ngoài không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện.

Như vậy, Tòa án cấp huyện không có thẩm quyền giải quyết những yêu cầu về kinh doanh thương mại.

Tòa án nhân dân cấp tỉnh (Tòa kinh tế):

Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp về kinh doanh, thương mại còn lại được quy định tại Điều 29 – Điều 30, BLTTDS trừ những vụ án thuộc thẩm quyền của TAND cấp huyện hoặc các vụ án có yếu tố nước ngoài.

Tuy nhiên, trong trường hợp cần thiết, Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện như: Tiểu luận: Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại

  • Vụ án có nhiều tình tiết phức tạp.
  • Vụ án có nhiều đương sự ở trên địa bàn thuộc các huyện khác nhau và xa nhau;
  • Tòa án cấp huyện chưa có Thẩm phán để có thể phân công giải quyết vụ án kinh doanh, thương mại, hoặc có Thẩm phán để phân công giải quyết vụ án kinh doanh, thương mại, nhưng thuộc một trong các trường hợp phải thay đổi Thẩm phán mà không có Thẩm phán khác để thay thế.

Cũng theo sự phân cấp, tòa án cấp tỉnh phúc thẩm những vụ án kinh doanh, thương mại mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của tòa án cấp huyện bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng

Đối với những bản án hoặc quyết định của tòa án nhân dân cấp huyện bị kháng nghị thì Ủy ban Thẩm phán của tòa án cấp tỉnh xem xét và giải quyết theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Ủy ban thẩm phán TAND cấp tỉnh gồm có Chánh án, Phó chánh án và một số Thẩm phán (không quá 9 thành viên) của TAND cấp tỉnh có thẩm quyền xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án quyết định có hiệu lực pháp luật của TAND cấp huyện bị kháng nghị.

Tòa án nhân dân tối cao.

  • Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tiến hành phúc thẩm những vụ án mà bản án, quyết định sơ thẩm của tòa kinh tế thuộc tòa án nhân dân cấp tỉnh bị kháng cáo,
  • Tòa kinh tế thuộc tòa án nhân dân tối cao giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án mà bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng kháng nghị.
  • Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao xem xét theo trình tự giám đốc thẩm và tái thẩm những vụ án mà bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của tòa án cấp dưới nhưng bị kháng nghị. Hội đồng thẩm phán TANDTC bao gồm Chánh án, các Phó chánh án, và một số Thẩm phán TANDTC (không quá 17 người).

1.5.2 Thẩm quyền theo lãnh thổ (Điều 35- BLTTDS): Tiểu luận: Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại

Thẩm quyền giải quyết vụ án kinh doanh thương mại của Toà án theo lãnh thổ được xác định là Toà án nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi bị đơn có trụ sở, nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp về kinh doanh, thương mại, 29 của Bộ luật Bộ luật tố tụng dân sự;

Tuy nhiên, luật cũng cho phép các đương sự có quyền tự thỏa thuận với nhau bằng văn bản yêu cầu Tòa án nơi cư trú, làm việc của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cá nhân hoặc nơi có trụ sở của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cơ quan, tổ chức giải quyết những tranh chấp về kinh doanh, thương mại.

BLTTDS đã ghi nhận thêm sự thỏa thuận của các bên trong việc lựa chọn Tòa án của nguyên đơn giải quyết tranh chấp là phù hợp với thực tiễn, khắc phục hạn chế của Pháp lệnh giải quyết các vụ án kinh tế 1994.

Bên cạnh đó, luật cũng quy định Tòa án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết những tranh chấp về bất động sản.

Đối với giải quyết việc kinh doanh, thương mại của Toà án theo lãnh thổ được xác định như sau:

  • Toà án nơi người phải thi hành bản án, quyết định kinh doanh, thương mại của Toà án nước ngoài cư trú, làm việc, nếu người phải thi hành án là cá nhân hoặc nơi người phải thi hành án có trụ sở, nếu người phải thi hành án là cơ quan, tổ chức hoặc nơi có tài sản liên quan đến việc thi hành bản án, quyết định của Toà án nước ngoài có thẩm quyền giải quyết yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định kinh doanh, thương mại của Toà án nước ngoài
  • Toà án nơi người gửi đơn cư trú, làm việc, nếu người gửi đơn là cá nhân hoặc nơi người gửi đơn có trụ sở, nếu người gửi đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết yêu cầu không công nhận bản án, quyết định kinh doanh, thương mại của Toà án nước ngoài không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam.
  • Toà án nơi người phải thi hành quyết định của Trọng tài nước ngoài cư trú, làm việc, nếu người phải thi hành là cá nhân hoặc nơi người phải thi hành có trụ sở, nếu người phải thi hành là cơ quan, tổ chức hoặc nơi có tài sản liên quan đến việc thi hành quyết định của Trọng tài nước ngoài có thẩm quyền giải quyết yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định của Trọng tài nước ngoài. Tiểu luận: Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại
  • Thẩm quyền của Toà án theo lãnh thổ giải quyết các yêu cầu liên quan đến việc Trọng tài thương mại Việt Nam giải quyết các vụ tranh chấp được thực hiện theo quy định của pháp luật về Trọng tài thương mại.

Thẩm quyền theo sự lựa chọn của nguyên đơn hoặc người yêu cầu.

Bên cạnh những quy định về thẩm quyền theo vụ việc, thẩm quyền của Tòa án các cấp và thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ, BLTTDS có những quy định về thẩm quyền theo sự lựa chọn của nguyên đơn để thuận tiện cho nguyên đơn trong việc giải quyết tranh chấp về kinh doanh, thương mại.

Nguyên đơn có quyền lựa chọn Tòa án để yêu cầu giải quyết vụ án trong các trường hợp sau đây:

  • Nếu không biết rõ trụ sở hoặc nơi cư trú của bị đơn, thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi có tài sản, nơi có trụ sở hoặc nơi cư trú cuối cùng của bị đơn giải quyết vụ án;
  • Nếu vụ án phát sinh từ hoạt động của chi nhánh doanh nghiệp, thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi doanh nghiệp có trụ sở hoặc nơi có chi nhánh đó giải quyết vụ án;
  • Nếu vụ án phát sinh từ quan hệ hợp đồng, thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi thực hiện hợp đồng giải quyết vụ án;
  • Nếu các bị đơn có trụ sở hoặc nơi cư trú khác nhau, thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi có trụ sở hoặc nơi cư trú của một trong các bị đơn giải quyết vụ án;
  • Nếu tranh chấp bất động sản mà bất động sản có ở nhiều địa phương khác nhau thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi có một trong các bất động sản giải quyết

Trong trường hợp có tranh chấp về thẩm quyền của Tòa án thì do Tòa án cấp trên trực tiếp giải quyết.

Biện pháp khẩn cấp tạm thời có thể được Tòa án quyết định áp dụng trong bất cứ thời điểm nào để bảo vệ bằng chứng, bảo đảm việc thi hành án. Các biện pháp khẩn cấp tạm thời gồm có:

  • Kê biên tài sản đang tranh chấp.
  • Cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp.
  • Cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp.
  • Cho thu hoạch, cho bán hoa màu hoặc sản phẩm, hàng hoá khác.
  • Phong toả tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước; phong toả tài sản ở nơi gửi giữ.
  • Phong toả tài sản của người có nghĩa vụ.
  • Cấm hoặc buộc đương sự thực hiện hành vi nhất định.
  • Các biện pháp khẩn cấp tạm thời khác mà pháp luật có quy định. Tiểu luận: Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại

Trong quá trình giải quyết vụ án, đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự có quyền yêu cầu Toà án đang giải quyết vụ án đó áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khẩn cấp tạm thời để tạm thời giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ chứng cứ, bảo toàn tình trạng hiện có tránh gây thiệt hại không thể khắc phục được hoặc bảo đảm việc thi hành án. Trong trường hợp do tình thế khẩn cấp, cần phải bảo vệ ngay bằng chứng, ngăn chặn hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra thì cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền nộp đơn yêu cầu Toà án có thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đồng thời với việc nộp đơn khởi kiện cho Toà án đó

Quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời có hiệu lực thi hành ngay. Quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời có thể được thay đổi hủy bỏ theo quyết định của Tòa án khi thấp việc áp dụng là không cần thiết hoặc không có tác dụng. Quyết định cũng có thể bị các đương sự khiếu nại, Viện kiểm sát kiến nghị với Chánh án TAND đang giải quyết vụ án, Chánh án phải xem xét và trả lời trong thời hạn 3 ngày.

CHƯƠNG II: THỦ TỤC TỐ TỤNG TÒA ÁN

2.1 Khởi kiện các vụ án kinh tế Tiểu luận: Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại

Khởi kiện vụ án kinh tế là yêu cầu Tòa án giải quyết những tranh chấp trong kinh doanh, thương mại.

Quyền khởi kiện vụ án kinh tế thuộc về các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật kinh tế. Các chủ thể này hoàn toàn bình đẳng về địa vị pháp lý, có quyền tự định đoạt. Khi xảy ra tranh chấp về quyền và nghĩa vụ giữa họ thì họ có quyền khởi kiện vụ án kinh tế.

BLTTDS quy định: “Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án (sau đây gọi chung là người khởi kiện) tại Toà án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.” (Điều 161). Đối với cá nhân, họ chỉ có quyền khởi kiện khi họ có đủ năng lực chủ thể, trong trường hợp họ bị mất năng lực hành vi, hoặc bị hạn chế năng lực hành vi thì quyền khởi kiện của họ được thực hiện thông qua người đại diện hợp pháp. Cơ quan, tổ chức có quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi bị các chủ thể khác xâm phạm, thời hiệu để khởi kiện là 2 năm kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Đối với các yêu cầu giải quyết kinh doanh thương mại, thị thời hiệu là một năm kể từ ngày phát sinh quyền yêu cầu. Việc khởi kiểm được thể hiện bằng đơn khởi kiện (nộp trực tiếp hoặc gởi qua đường bưu điện) kèm theo các tài liệu, chứng từ để chứng minh và bảo vệ quyền lợi của mình.

Đơn khởi kiện là hình thức biểu đạt yêu cầu của người khởi kiện đến Tòa án nhằm giải quyết tranh chấp trong kinh doanh, thương mại. Đơn khởi kiện phải thể hiện rõ nội dung vụ việc và những yêu cầu của người khởi kiện đối với Tòa án, và là cơ sở quan trọng để Tòa án xem xét, quyết định thụ lý vụ án kinh tế. Cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện phải làm đơn khởi kiện. Về hình thức, đơn khởi kiện phải được người khởi kiện ký tên hoặc điểm chỉ nếu người khởi kiện là cá nhân; nếu là cơ quan, tổ chức khởi kiện thì đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức ký tên và đóng dấu vào phần cuối đơn. Về nội dung, đơn khởi kiện phải có các nội dung sau:

  • Ngày, tháng, năm làm đơn khởi kiện;
  • Tên Toà án nhận đơn khởi kiện;
  • Tên, địa chỉ của người khởi kiện;
  • Tên, địa chỉ của người có quyền và lợi ích được bảo vệ, nếu có;
  • Tên, địa chỉ của người bị kiện;
  • Tên, địa chỉ của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, nếu có;
  • Những vấn đề cụ thể yêu cầu Toà án giải quyết đối với bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;
  • Họ, tên, địa chỉ của người làm chứng, nếu có; Tiểu luận: Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại
  • Tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện là có căn cứ và hợp pháp;
  • Các thông tin khác mà người khởi kiện xét thấy cần thiết cho việc giải quyết vụ án.

Hồ sơ cần thiết để tiến hành khởi kiện:

  • Đơn khởi kiện (theo mẫu)
  • Hợp đồng kinh tế hoặc văn bản, tài liệu giao dịch có giá trị như hợp đồng kinh tế.
  • Biên bản bổ sung, phụ lục, phụ kiện hợp đồng (nếu có).
  • Tài liệu về bảo đảm thực hiện hợp đồng như: cầm cố, thế chấp tài sản (nếu có).
  • Tài liệu về việc thực hiện hợp đồng như giao nhận hàng, các biên bản nghiệm thu, các chứng từ thanh toán, biên bản thanh lý hợp đồng, các biên bản làm việc về công nợ tồn đọng;
  • Tài liệu về tư cách pháp lý của người khởi kiện, của các đương sự và người có liên quan khác như: giấy phép, quyết định thành lập doanh nghiệp, giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; điều lệ hoạt động, quyết định bổ nhiệm hoặc cử người đại diện doanh nghiệp.
  • Các tài liệu giao dịch khác (nếu thấy cần thiết);
  • Bản kê các tài liệu nộp kèm theo đơn kiện (ghi rõ số bản chính, bản sao).

Nếu các tài liệu nêu trên là văn bản, tài liệu tiếng nước ngoài đều phải được dịch sang tiếng Việt Nam do cơ quan, tổ chức có chức năng dịch thuật, kèm theo bản gốc.

2.1.2 Thụ lý vụ án.

Thụ lý vụ án kinh tế là thủ tục pháp lý khẳng định sự chấp nhận của Tòa án đối với việc giải quyết vụ án. Khi nhận đơn, Tòa án phải ghi vào sổ nhận đơn. Trong thời hạn 5 ngày kể từ ngày nhận đơn, Tòa án phải xem xét đơn khởi kiện của người khởi kiện, Tòa án sẽ tiến hành thụ lý vụ án nếu vụ án đó thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án và không thuộc các trường hợp phải trả lại đơn. Tòa án trả lại đơn khởi kiện trong các trường hợp sau đây:

  • Thời hiệu khởi kiện đã hết;
  • Người khởi kiện không có quyền khởi kiện hoặc không có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự;
  • Sự việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án hoặc quyết định đã có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Các bên có liên quan phải nghiêm chỉnh chấp hành quyết định đã có hiệu lực pháp luật của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về việc giải quyết vụ việc. Trong trường hợp này Tòa án sẽ không nhận đơn khởi kiện và không thụ lý vụ án vì như vậy sẽ làm mất đi hiệu lực của quyết định giải quyết của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, và lãng phí thời gian, công sức của cơ quan Nhà nước. Trong trường hợp vụ án mà Toà án bác đơn xin thay đổi mức bồi thường thiệt hại hoặc vụ án đòi tài sản cho thuê, cho mượn, đòi nhà cho thuê, cho mượn mà Toà án chưa chấp nhận yêu cầu do chưa đủ điều kiện khởi kiện thì Tòa án tiếp tục nhận đơn xém xét thụ lý vụ án; Tiểu luận: Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại
  • Chưa có đủ điều kiện khởi kiện. Trường hợp này có thể xảy ra do nhiều nguyên nhân như yêu cầu của người khởi kiện không rõ ràng, không có căn cứ pháp lý; người khởi kiện không có đủ chứng cứ, tài liệu để chứng minh cho việc quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại… Tòa án sẽ tiếp tục nhận đơn khởi kiện khi có đủ điều kiên khởi kiện;
  • Hết thời hạn Tòa án yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện mà người khởi kiện không thực hiện yêu cầu đó. Đây là những trường hợp mà đơn khởi kiện không tuân thủ đúng các quy định của pháp luật về nội dung và hình thức. Khi tòa án đã yêu cầu người khởi kiện sửa đổi, bổ sung đơn mà họ không thực hiện yêu cầu đó đúng thời hạn thì coi như họ đã từ bỏ việc khởi kiện;
  • Vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Trong trường hợp này, Tòa án sẽ hướng dẫn cá nhân, cơ quan, tổ chức đến nộp đơn tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền giải quyết vụ việc đó;
  • Hết thời hạn nộp tạm ứng án phí mà người khởi kiện không đến Tòa án làm thủ tục thụ lý vụ án, trừ trường hợp có lý do chính đáng. Thời hạn nộp tạm ứng án phí cũng là thời gian để người khởi kiện tự xem xét lại việc khởi kiện xem có thật cần thiết hay không. Nếu việc khởi kiện không còn cần thiết nữa, người khởi kiện có thể thể hiện sự từ bỏ việc khởi kiện của mình bằng hành vi không nộp tiền tạm ứng án phí.

Án phí là một khoản tiền mà các đương sự phải trả cho Tòa án khi Tòa án giải quyết vụ tranh chấp trong kinh doanh, thương mại giữa các bên. Số tiền án phí các đương sự phải chịu do Tòa án xác định tùy theo từng vụ án, căn cứ trên mức độ lỗi, lợi ích của các bên từ vụ tranh chấp và theo khung án phí do Chính phủ quy định.

Lệ phí

  • Án phí kinh tế bao gồm án phí kinh tế sơ thẩm và án phí kinh tế phúc thẩm.
  • Mức án phí kinh tế sơ thẩm đối với các vụ án kinh tế không có giá ngạch là 2.000.000 đồng.
  • Mức án phí kinh tế sơ thẩm đối với các vụ án kinh tế có giá ngạch được quy

Khi khởi kiện, nguyên đơn phải nộp tiền tạm ứng án phí, và là một điều kiện để Tòa án thụ lý vụ án để giải quyết. Còn vấn đề nguyên đơn có phải chịu án phí hay không, tỷ lệ là bao nhiêu do Tòa án quy định vào cuối quá trình tố tụng. Người kháng cáo bản án, quyết định sơ thẩm để yêu cầu giải quyết theo trình tự phúc thẩm phải nộp tạm ứng án phí phúc thẩm.

2.1.3 Chuẩn bị xét xử. Tiểu luận: Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại

Thời hạn chuẩn bị xét xử được tính từ ngày Tòa án thụ lý vụ án đến ngày Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Thời hạn chuẩn bị xét xử là khoảng thời gian cần thiết để Tòa án tiến hành lập hồ sơ vụ án, xác minh, thu thập chứng cứ, hòa giải vụ án, và xem xét để đưa vụ án ra xét xử. Đây là công việc bắt buộc trước khi đưa vụ án ra xét xử và cần phải có thời gian nhất định. Đối với những tranh chấp về kinh doanh, thương mại thì thời hạn chuẩn bị xét xử là 02 tháng. Trong trường hợp vụ án có tính chất phức tạp hoặc do trở ngại khách quan thì Chánh án có thể gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử nhưng không quá tháng. Việc quy định thời hạn như vậy nhằm đảm bảo yêu cầu giải quyết vụ án một cách nhanh chóng và kịp thời. Trong thời gian chuẩn bị cho công tác xét xử, Tòa án tiến hành các công việc chủ yếu sau:

Một là, trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày thụ lý vụ án, Toà án phải thông báo bằng văn bản cho bị đơn, cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc giải quyết vụ án, cho Viện kiểm sát cùng cấp về việc Toà án đã thụ lý vụ án.

Hai là, Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ. Theo đó, Tòa án có quyền yêu cầu đương sự cung cấp, bổ sung chứng cứ, hoặc cung cấp những vấn đề cần thiết. Yêu cầu cơ quan Nhà nước, tổ chức hữu quan, cá nhân cung cấp bằng chứng có ý nghĩa cho việc giải quyết vụ án; yêu cầu người làm chứng trình bày về những vấn đề cần thiết; xác minh tại chỗ tình hình vụ án; trưng cầu giám định, yêu cầu cơ quan chuyên môn định giá hoặc lập hội đồng định giá tài sản có tranh chấp. Tiểu luận: Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại

Ba là, Tòa án tiến hành hòa giải để các đương sự có thể thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án. Tòa án tiến hành hòa giải tất cả các vụ án dân sự – đây là một thủ tục bắt buộc phải tiến hành, trừ những vụ án không được hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải được. Trong trường hợp bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt; hoặc đương sự không thể tham gia hòa giải được gì có lý do chính đàng thì Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử mà không cần hòa giải.

Khi tiến hành hòa giải, Thẩm phán phải triệu tập tất cả các đương sự, phổ biến cho tất cả các đương sự biết các quy định của pháp luật có liên quan đến việc giải quyết vụ án để các bên có liên hệ đến quyền và nghĩa vụ của mình, phân tích hậu quả pháp lý của việc hòa giải thành để họ tự nguyện với nhau về việc giải quyết vụ án.

Khi các đương sự thỏa thuận được với nhau về vấn đề giải quyết tranh chấp thì Tòa án lập biên bản hòa giải thành. Hết thời hạn 07 ngày kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành mà không có đương sự nào thay đổi ý kiến về thỏa thuận đó thì thẩm phán chủ trì phiên hòa giải hoặc một thẩm phán được Chánh án Tòa án phân công ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Việc hòa giải thành một vụ án kinh doanh, thương mại không chỉ là giải quyết mâu thuẫn giữa các đương sự mà còn đơn giản hóa thủ tục, tiết kiệm thời gian và công sức cho các đương sự.

Trong trường hợp các đương sự không thể thỏa thuận với nhau được, thì Tòa án lập biên bản hòa giải không thành và ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Kết thúc giai đoạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán được phân công chủ tọa được quyền ra một trong các quyết định sau:

  • Đưa vụ án ra xét xử;
  • Tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án;
  • Đình chỉ việc giải quyết vụ án.

Việc tạm đình chỉ, đình chỉ việc giải quyết vụ án được quy định cụ thể tại Điều 189 và Điều 192/K1 BLTTDS 2004.

2.1.4 Mở phiên tòa sơ thẩm Tiểu luận: Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại

Thời hạn mở phiên tòa là không quá một tháng kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử. (Nếu có lý do chính đáng thì thời hạn xét xử là hai tháng)

Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân. Trong trường hợp đặc biệt thì Hội xét xử sơ thẩm có thể gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm nhân dân. (Quy đinh tại điều 52, BLTTDS 2005). Thành phần xét xử vụ án kinh doanh thương mại do 3 thẩm phán giải quyết.

Tại phiên tòa sơ thẩm: đương sự phải có mặt tại phiên tòa khi Tòa án xét xử vụ án kinh tế. Tuy nhiên trong thực tế có nhiều nguyên nhân khách quan khiến họ không thể có mặt tại phiên tòa. Trong trường hợp họ vắng mặt lần thứ nhất có lý do chính đáng thì Tòa án phải hoãn phiên tòa để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Đương sự được vắng mặt tại phiên tòa khi họ có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt hoặc trong trường hợp có người đại diện hợp pháp của họ tại phiên tòa. Song có những trường hợp đương sự cố tình vắng mặt để trốn tránh nghĩa vụ của mình, nên sự vắng mặt của đương sự lần thứ hai cần được xem xét cụ thể:

  • Nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì bị coi là từ bỏ việc khởi kiện, và Tòa án ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án mà không cần sự đồng ý của bị đơn và của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
  • Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt họ. Trường hợp này bị đơn được coi là cố tình trốn tránh nghĩa vụ đối với nguyên đơn.
  • Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt họ.

Trình tự tiến hành phiên tòa sơ thẩm:

  • Thủ tục chuẩn bị khai mạc phiên tòa,
  • Khai mạc phiên tòa,
  • Thủ tục xét hỏi tại phiên tòa,
  • Tranh luận tại phiên tòa,
  • Hội đồng xét xử nghị án trong phòng nghị án riêng
  • Chủ tọa phiên tòa tuyên án.

Hình 3: Quy trình tố tụng tòa án

  • Đơn khởi kiện

Các tài liệu, chứng cứ chứng minh cho các yêu cầu của mình Tố tụng Tòa Án

2.2 Thủ tục xét xử phúc thẩm Tiểu luận: Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại

2.2.1 Tính chất của xét xử phúc thẩm.

Tính chất của xét xử phúc thẩm: để đảm bảo nguyên tắc hai cấp xét xử khi có đơn kháng cáo của người có quyền kháng cáo, quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp, hoặc Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp đối với bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật thì vụ án phải được đưa ra xét xử theo thủ tục phúc thẩm theo quy định của BLTTDS 2005. Vì vậy, việc xét xử theo thủ tục phúc thẩm là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị. Theo đó, người có quyền kháng cáo có đơn kháng cáo hợp lệ, Viện kiểm sát cùng cấp, hoặc Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp kháng nghị phúc thẩm theo quyết định của BLTTDS 2005, không kể trường hợp kháng cáo, kháng nghị có đủ căn cứ hay không thì vụ án vẫn phải được Tòa án cấp phúc thẩm thụ lý giải quyết theo quyết định của pháp luật.

Những người có quyền kháng cáo, kháng nghị: đương sự, người đại diện của đương sự, cơ quan, tổ chức đã khởi kiện vụ án để yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách có quyền làm đơn kháng cáo, Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp, Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị bản án, quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ việc giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm để yêu cầu Tòa án cấp trên trực tiếp giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm. Người kháng cáo, kháng nghị phải làm đơn bằng văn bản gửi tới Tòa án đã giải quyết sơ thẩm vụ án kinh tế với các nội dung chủ yếu là nội dung bị kháng cáo, kháng nghị; lý do kháng cáo, kháng nghị và yêu cầu của người kháng cáo, kháng nghị. Kèm theo đơn kháng cáo, quyết định kháng nghị là tài liệu, chứng cứ bổ sung, nếu có để chứng minh cho kháng cáo, kháng nghị của mình là có căn cứ và hợp pháp.

Thời hạn kháng cáo:

  • Thời hạn kháng cáo đối với bản án của Toà án cấp sơ thẩm là mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên án; đối với đương sự không có mặt tại phiên toà thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày bản án được giao cho họ hoặc được niêm yết.
  • Thời hạn kháng cáo đối với quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Toà án cấp sơ thẩm là bảy ngày, kể từ ngày người có quyền kháng cáo nhận được quyết định.
  • Trong trường hợp đơn kháng cáo gửi qua bưu điện thì ngày kháng cáo được tính căn cứ vào ngày bưu điện nơi gửi đóng dấu ở phong bì. Tiểu luận: Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại

Thời hạn kháng nghị:

  • Thời hạn kháng nghị đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm của Viện kiểm sát cùng cấp là mười lăm ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là ba mươi ngày, kể từ ngày tuyên án. Trường hợp Kiểm sát viên không tham gia phiên tòa thì thời hạn kháng nghị tính từ ngày Viện kiểm sát cùng cấp nhận được bản án.
  • Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp đối với quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm là bảy ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là mười ngày, kể từ ngày Viện kiểm sát cùng cấp nhận được quyết định.

Phạm vi xét xử phúc thẩm: Tòa án cấp phúc thẩm chỉ có quyền xem xét lại phần của bản án, quyết định sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị hoặc liên quan đến việc xem xét lại nội dung kháng cáo, kháng nghị. Còn những phần không có kháng cáo, kháng nghị, hoặc không có liên quan đến kháng cáo, kháng nghị thì Hội đồng xét xử phúc thẩm không được quyền xem xét và quyết định. Nếu Hội đồng xét xử phúc thẩm xét xử lại và quyết định cả những phần của bản án, quyết định không có kháng cáo, kháng nghị, hoặc không có liên quan đến kháng cáo, kháng nghị là có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, đây là một trong những căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.

Những người tham gia phiên tòa phúc thẩm: người kháng cáo, đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan đến việc giải quyết kháng cáo, kháng nghị và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phải được triệu tập tham gia phiên tòa. Tòa án có thể triệu tập những người tham gia tố tụng khác nếu thấy cần thiết cho việc giải quyết kháng cáo, kháng nghị. Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp phải tham gia phiên toà phúc thẩm trong trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị hoặc đã tham gia phiên toà sơ thẩm.

2.2.2 Thủ tục tiến hành phiên tòa phúc thẩm:

Hội đồng xét xử phúc thẩm bắt đầu xét xử vụ án bằng việc nghe lời trình bày của các đương sự; việc hỏi những người tham gia tố tụng và công bố tài liệu, tranh luận được thực hiện như tại phiên tòa sơ thẩm, và chỉ được tranh luận về những vấn đề thuộc phạm vi xét xử phúc thẩm.

Thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm:

  • Giữ nguyên bản án, quyết định sơ thẩm;
  • Sửa bản án, quyết định sơ thẩm;
  • Huỷ bản án, quyết định sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Toà án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án hoặc tiếp tục việc giải quyết vụ án.
  • Huỷ bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án.

Bản án, quyết định phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án hoặc ra quyết định. Cũng cần chú ý là khi xét các Quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị, Tòa án cấp phúc thẩm không phải mở phiên tòa và cũng không phải triệu tập các đương sự trừ trường hợp cần thiết.Tiểu luận: Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại

2.3 Thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm

Thành phần Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm vụ án dân sự

  • Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm Toà án nhân dân cấp tỉnh là Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh.
  • Khi Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh tiến hành giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì phải có ít nhất hai phần ba tổng số thành viên tham gia.
  • Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm Toà chuyên trách Toà án nhân dân tối cao gồm có ba Thẩm phán.
  • Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm Toà án nhân dân tối cao là Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.

Khi Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao tiến hành giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì phải có ít nhất hai phần ba tổng số thành viên tham gia.

2.3.1 Thủ tục giám đốc thẩm

Tính chất giám đốc thẩm: giám đốc thẩm là việc xem xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án. Hội đồng xét xử phúc thẩm vụ án dân sự gồm ba Thẩm phán. Căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm gồm một trong các căn cứ sau:

  • Kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án;
  • Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng;
  • Có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật. Người có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
  • Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án các cấp, trừ quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.
  • Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân cấp huyện.

Thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm: là 3 năm kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật.

Thẩm quyền giám đốc thẩm

  • Uỷ ban Thẩm phán TAND cấp tỉnh giám đốc thẩm những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân cấp huyện bị kháng nghị.
  • Toà kinh tế của TAND tối cao giám đốc thẩm những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân cấp tỉnh bị kháng nghị.
  • Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao giám đốc thẩm những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của các Toà phúc thẩm, Toà kinh tế, của TAND tối cao bị kháng nghị.
  • Những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật về cùng một vụ án thuộc thẩm quyền của các cấp Toà án khác nhau được quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này thì Toà án có thẩm quyền cấp trên giám đốc thẩm toàn bộ vụ án.

Phạm vi giám đốc thẩm

  • Hội đồng giám đốc thẩm chỉ xem xét lại phần quyết định của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị hoặc có liên quan đến việc xem xét nội dung kháng nghị.
  • Hội đồng giám đốc thẩm có quyền xem xét phần quyết định của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật không bị kháng nghị hoặc không có liên quan đến việc xem xét nội dung kháng nghị, nếu phần quyết định đó xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích của người thứ ba không phải là đương sự trong vụ án.

Thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm:

  • Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật;
  • Giữ nguyên bản án, quyết định đúng pháp luật của Toà án cấp dưới đã bị huỷ hoặc bị sửa;
  • Huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để xét xử sơ thẩm lại hoặc xét xử phúc thẩm lại;
  • Huỷ bản án, quyết định của Toà án đã xét xử vụ án và đình chỉ giải quyết vụ án.

Quyết định giám đốc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày Hội đồng giám đốc thẩm ra quyết định

2.3.2 Thủ tục tái thẩm trong Tố tụng tòa án Tiểu luận: Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại

Tái thẩm là việc xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì có những tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định mà Tòa án, các đương sự không thể biết được khi Tòa án ra bản án, quyết định đó.

Căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm:

  • Mới phát hiện được tình tiết quan trọng của vụ án mà đương sự đã không thể biết được trong quá trình giải quyết vụ án;
  • Có cơ sở chứng minh kết luận của người giám định, lời dịch của người phiên dịch không đúng sự thật hoặc có giả mạo chứng cứ;
  • Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên cố ý làm sai lệch hồ sơ vụ án hoặc cố ý kết luận trái pháp luật;
  • Bản án, quyết định hình sự, hành chính, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động của Toà án hoặc quyết định của cơ quan nhà nước mà Toà án căn cứ vào đó để giải quyết vụ án đã bị huỷ bỏ.

Người có quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm giống như thủ tục giám đốc thẩm.

Thời hạn kháng nghị tái thẩm: là 1 năm kể từ ngày người có thẩm quyền tái thẩm biết được các căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm. Tiểu luận: Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại

Thẩm quyền Hội đồng tái thẩm:

  • Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật;
  • Huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để xét xử sơ thẩm lại theo thủ tục do Bộ luật này quy định;
  • Huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ giải quyết vụ án.

2.4 Thi hành bản án và quyết định có hiệu lực của Tòa án

Thi hành án là giai đoạn cuối cùng của các quá trình tố tụng, kết thúc quá trình bảo vệ quyền lợi của các đương sự. Thi án các bản án, quyết định có hiệu lực của vụ án kinh tế được thực hiện theo thủ tục thi hành án dân sự được quy định tại Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004. Trong giai đoạn này, quyết định của Tòa án được đưa ra thi hành và bảo đảm thực hiện trên thực tế. Đây là giai đoạn có ý nghĩa rất lớn đối với việc giải quyết các vụ án tại Tòa án, nó không những bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án, bảo đảm sự nghiêm minh của pháp luật mà còn góp phần tằng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.

Những bản án, quyết định kinh tế của Toà án được thi hành là những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo Điều 375/BLTTDS 2005 bao gồm:

  • Bản án, quyết định hoặc phần bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm;
  • Bản án, quyết định của Toà án cấp phúc thẩm;
  • Quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Toà án;
  • Bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài đã có quyết định có hiệu lực pháp luật của Toà án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam.

CHƯƠNG III: NHẬN XÉT VÀ KẾT LUẬN

3.1 Ưu điểm và nhƣợc điểm của tố Tụng tòa án Tiểu luận: Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại

Nếu đặt lên “bàn cân” những điểm mạnh, điểm yếu của từng hình thức giải quyết tranh chấp thì mặc dù Trọng tài và Tòa án đều là những phương thức giải quyết tranh chấp của các bên, không cạnh tranh lẫn nhau mà bổ sung cho nhau. Thế nhưng, nếu xét từ góc độ hiệu quả, thì giả quyết tranh chấp kinh doanh bằng tố tụng Tòa án có một số ưu điểm và nhược điểm sau:

3.1.1 Ưu điểm:

  • Phán quyết của toà án được đảm bảo thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước. Có cơ quan thi hành án, cơ quan chuyên trách và có đầy đủ bộ máy, phương tiện để thi hành các bản án đã có hiệu lực pháp luật.
  • Nguyên tắc nhiều cấp xét xử bảo đảm cho quyết định của toà án được chính xác, công bằng, khách quan và đúng với pháp luật.
  • Thẩm quyền giải quyết của toà án được mở rộng đến tất cả các ngành kinh tế.
  • Chi phí cho việc giải quyết tranh chấp kinh tế tại toà án thấp hơn rất nhiều so với việc nhờ đến các tổ chức trọng tài thương mại hay trọng tài quốc tế

3.1.2 Nhược điểm:

Các Tòa án luôn bị quá tải công việc, điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng xét xử và làm cho vụ án bị kéo dài. Ở nước ta, hàng năm các Tòa Kinh tế ở hai thành phố lớn là Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh phải thụ lý trên 10.000 vụ án kinh tế và nhiều vụ việc dân sự. Thêm vào đó là những thủ tục tố tụng hết sức nghiêm ngặt, trong giới luật người ta thường nói với nhau câu: “Công lý bị trì hoãn là công lý bị từ chối”! Nguyên tắc xét xử nhiều cấp khiến cho vụ việc có thể bị kéo dài, xử đi xử lại nhiều lần gây bất lợi cho đương sự, nhất là những tranh chấp kinh tế có giá trị lớn đòi hỏi phải giải quyết nhanh chóng, dứt điểm. Việc giải quyết tranh chấp của toà án phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định mang tính hình thức của pháp luật tố tụng, gây trở ngại cho các bên tranh chấp vì tính chất của động kinh doanh, thương mại đòi hỏi mọi thủ tục phải rất linh hoạt và mềm dẻo

  • Các thẩm phán của Tòa án không phải bao giờ cũng chuyên về các vấn đề kinh doanh, thương mại và đủ các kiến thức để giải quyết các tranh chấp đó một cách chuyên nghiệp, đặc biệt là trong các vấn đề tranh chấp thương mại quốc tế chẳng hạn như các tranh chấp về bằng sáng chế, ngân hàng, tên miền, v.v…
  • Là một thiết chế quyền lực và mặc nhiên hoạt động trong một quốc gia có chủ quyền, Tòa án thường bị chi phối về tính độc lập của nó bởi sự tác động từ nhiều phía.
  • Tính quốc tế của Tòa án không cao. Điều đó thể hiện ở nhiều sự ràng buộc khác nhau liên quan đến nguyên tắc chủ quyền quốc gia: Ngôn ngữ áp dụng phải là ngôn ngữ quốc gia, thủ tục tố tụng nhất thiết phải theo quy định của pháp luật quốc gia mà Tòa án lại là thiết chế của quốc gia đó. Phán quyết của Tòa án không mặc nhiên có sự công nhận quốc tế, điều đó chỉ xảy ra khi có một hiệp định song phương về tương trợ tư pháp giữa hai quốc gia hoặc trong khuôn khổ pháp lý của một cộng đồng các quốc gia, ví dụ như Liên minh châu Âu
  • Tổ chức theo thẩm quyền xét xử, các bản án của Tòa án có thể bị kháng cáo, kháng nghị. Phiên tòa xét xử nhất thiết phải công khai, trừ một số trường hợp do luật định mà các nhà kinh doanh không phải lúc nào cũng thích

3.2 Một số kiến nghị Tiểu luận: Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại

3.2.1 Về nguyên tắc khởi kiện

Cũng như các hoạt động tố tụng khác, trong quá trình giải quyết tranh chấp kinh tế, tòa án kinh tế phải tuân theo các nguyên tắc chung về tố tụng được quy định trong Hiến pháp và Luật Tổ chức tòa án nhân dân. Việc thực hiện những nguyên tắc này nhằm mục đích đảm bảo cho hoạt động điều tra xét xử của tòa án chặt chẽ hơn. Tuy nhiên trong thực tế không phải lúc nào việc áp dụng các nguyên tắc của tố tụng tòa án cũng đảm bảo thực hiện, vì vậy có một số điểm cần phải sửa đổi bổ sung để phù hợp với thực tiễn hơn.

Việc quy định đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình, trong trường hợp đương sự không thể tự mình thu thập được chứng cứ và có yêu cầu thì Thẩm phán mới tự mình thu thập chứng cứ hoặc trong các trường hợp khác mà pháp luật có quy định. Quy định như vậy là phù hợp, song việc áp dụng nguyên tắc này trên thực tế gặp nhiều khó khăn. Trong BLTTDS không quy định biện pháp chế tài mà chỉ quy định chung chung nếu không cung cấp chứng cứ thì bị bất lợi và không có quy định về thời hạn bắt buộc đương sự phải cung cấp chứng cứ nếu không cung cấp thì chứng cứ đó không có giá trị hoặc phải chịu chế tài như: phạt tiền…, vì vậy, thực tế có trường hợp đương sự đang giữ chứng cứ hoặc có khả năng thu thập chứng cứ nhưng lại không thu thập chứng cứ để cung cấp cho Toà án, chỉ đến khi thấy có lợi mới cung cấp, thậm chí có trường hợp để đến giai đoạn xét xử phúc thẩm mới xuất trình chứng cứ các hoặc sau khi bản án có hiệu lực pháp luật mới xuất trình chứng cứ, kèm theo đơn khiếu nại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm dẫn đến Tòa án bị thụ động trong việc xét xử. Do đó, vấn đề này pháp luật cần phải định rõ chế tài cụ thể nếu đương sự cố tình không cung cấp chứng cứ hoặc có hành vi che giấu chứng cứ thì phải bị xử phạt để tránh tình trạng bị động cho Tòa án.

Bên cạnh đó, nguyên tắc hòa giải là một nguyên tắc bắt buộc trong tố tụng tòa án. Hòa giải có ý nghĩa hết sức quan trọng, được thực hiện nhằm mục đích phát huy truyền thống đoàn kết, tương trợ giữa các bên tham gia quan hệ kinh tế, nâng cao kết quả giải quyết các tranh chấp trong kinh doanh, thương mại. Tuy nhiên, việc hòa giải như thế nào thì luật lại không quy định rõ, các thẩm phán không được hướng dẫn, đào tạo có bài bản. Việc hòa giải hoàn toàn dựa vào kinh nghiệm của các Thẩm phán. Nếu việc hòa giải không thành có thể dẫn đến căng thẳng, làm tăng thêm mâu thuẩn và việc thúc đẩy sự thương lượng tự thỏa thuận giữa các đương sự trong các giai đoạn tố tụng tiếp sau sẽ kém hiệu quả. Do vậy, vấn đề đặt ra ở đây là làm sao để thực hiện nguyên tắc này có hiệu quả hơn để phát huy tốt yêu cầu, mục đích đã đề ra.

3.2.2 Về việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời (BPKCTT) Tiểu luận: Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại

Các quy định về thủ tục áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong Bộ luật Tố tụng Dân sự hiện nay đã đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn giải quyết tranh chấp là tính nhanh chóng và sự bảo đảm an toàn pháp lý cho các bên đương sự trong việc bảo vệ quyền lợi của họ. Chế định về các biện pháp khẩn cấp tạm thời đã được xây dựng tại Chương thứ 8 Bộ luật Tố tụng Dân sự Việt Nam (BLTTDS), bao gồm 28 điều luật (từ Điều 99 tới Điều 126) là cơ sở pháp lý quan trọng cho Toà án trong việc quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời để đáp ứng yêu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ chứng cứ, đảm bảo cho việc xét xử và thi hành án. Tuy nhiên, việc vận dụng các quy định về biện pháp khẩn cấp tạm thời trong thực tiễn cũng đặt ra những vấn đề, đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyền cần phải tiếp tục nghiên cứu, hướng dẫn bổ sung.

Thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, căn cứ hủy bỏ các biện pháp khẩn cấp tạm thời

Trong trường hợp sau khi xét xử sơ thẩm, đương sự kháng cáo bản án đồng thời có đơn yêu cầu áp dụng BPKCTT. Giai đoạn này, Tòa án cấp sơ thẩm đang làm các thủ tục liên quan đến kháng cáo theo quy định của pháp luật mà chưa chuyển hồ sơ cho Tòa án cấp phúc thẩm. Tòa án cấp nào có thẩm quyền ra quyết định áp dụng BPKCTT nếu yêu cầu của đương sự là có căn cứ, đúng pháp luật và thuộc trường hợp cần phải được áp dụng BPKCTT? Ngược lại, nếu yêu cầu của đương sự không đúng pháp luật và không thuộc trường hợp cần phải áp dụng BPKCTT thì Tòa án nào sẽ không chấp nhận yêu cầu áp dụng BPKCTT? Tòa án cấp nào có thẩm quyền ban hành văn bản trả lời đương sự? Đây là những vấn đề BLTTDS chưa có quy định cụ thể.

Vì vậy, để xác định rõ vấn đề thẩm quyền của Tòa án cấp nào trong việc xem xét yêu cầu áp dụng BPKCTT, Bộ luật TTDS cần thiết bổ sung những quy định rõ rang hơn. Trong thời hạn 48 giờ kể từ thời điểm nhận được đơn yêu cầu, Thẩm phán phải xem xét và ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; nếu không chấp nhận yêu cầu thì Thẩm phán phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho người yêu cầu biết ”.

Tuy vậy, việc quy định thời hạn 48 giờ để Thẩm phán xem xét quyết định có áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hay không trong nhiều trường hợp có lẽ là quá dài. Đặc biệt là đối với các yêu cầu về việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp như kê biên tài sản đang tranh chấp, cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp, phong toả tài khoản. Sự chậm trễ trong việc ra quyết định áp dụng các biện pháp này dù chỉ là một khoảng thời gian hết sức ngắn cũng đủ để người bị yêu cầu áp dụng các biện pháp này tẩu tán tài sản, thay đổi hiện trạng tài sản hoặc rút tiền từ tài khoản nhằm trốn tránh việc thi hành nghĩa vụ. Trong khi đó, Điều 101 BLTTDS cũng không quy định về trách nhiệm của người có thẩm quyền áp dụng các biện pháp này đối với những thiệt hại mà nguyên đơn phải gánh chịu do việc áp dụng chậm trễ các biện pháp khẩn cấp tạm thời. Vì vậy, các cơ quan chức năng cần có những hướng dẫn cụ thể theo hướng trong những trường hợp thực sự khẩn cấp Thẩm phán có thể ngay lập tức quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nói trên.

Để đáp ứng được những đòi hỏi của thực tiễn, về lâu dài trên cơ sở các quy định này các nhà lập pháp Việt Nam có thể phát triển, bổ sung theo hướng cho phép Thẩm phán trong trường hợp khẩn cấp có thể quyết định áp dụng ngay lập tức các biện pháp khẩn cấp nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của đương sự trước khi khởi kiện vụ án. Tiểu luận: Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại

Về biện pháp bảo đảm

Để đảm bảo lợi ích hợp pháp của người bị áp dụng BPKCTT và ngăn ngừa sự lạm dụng từ phía người yêu cầu, Bộ luật TTDS đã quy định về biện pháp bảo đảm. Theo khoản 1 Điều 120 thì người yêu cầu Tòa án áp dụng một trong các BPKCTT như kê biên; cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp; cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp; phong toả tài sản, tài khoản của người có nghĩa vụ, sẽ phải gửi một khoản tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá “do Tòa án ấn định tương đương với nghĩa vụ tài sản mà người có nghĩa vụ phải thực hiện” vào tài khoản phong tỏa tại ngân hàng. Cụ thể hơn, theo hướng dẫn tại Nghị quyết 02 thì “nghĩa vụ tài sản” là nghĩa vụ phải bồi thường thiệt hại thực tế có thể xảy ra cho người bị áp dụng BPKCTT hoặc cho người thứ ba.

Tuy nhiên, việc xác định mức tổn thất hoặc thiệt hại có thể phát sinh như thế nào là rất khó đối với Tòa án cũng như với người yêu cầu, mặc dù Nghị quyết số 02 cũng đã hướng dẫn cách dự kiến và tạm tính thiệt hại thực tế có thể xảy ra. Đã có nhiều trường hợp, việc dự kiến và tạm tính thiệt hại phát sinh không chính xác, không tương xứng với hậu quả xảy ra. Theo quy định của Bộ luật TTDS thì người yêu cầu áp dụng hay Tòa án áp dụng BPKCTT không đúng mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, vậy trong trường hợp tài sản bảo đảm không đủ để bù đắp những thiệt hại đã xảy ra do việc áp dụng BPKCTT không đúng thì có phải bồi thường thiệt hại không và ai phải bồi thường cũng là vấn đề cần được quy định rõ trong Bộ luật TTDS. Đồng thời, khi có tranh chấp xảy ra thì yêu cầu bồi thường thiệt hại này được xem xét trong cùng một vụ án hay giải quyết thành một vụ án riêng cũng là vấn đề cần phải xác định. Chúng tôi cho rằng, yêu cầu bồi thường thiệt hại do áp dụng không đúng BPKCTT không thể giải quyết trong cùng vụ án đang giải quyết.

Về việc nộp các khoản tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá và những vấn đề đặt ra trong thực tiễn áp dụng

Theo khoản 1 Điều 120 BLTTDS thì “ Ngưòi yêu cầu Toà án áp dụng một trong các biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại các khoản 6, 7, 8, 10 và 11 Điều 102 của Bộ luật này phải gửi một khoản tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá do Toà án ấn định tương đương với nghĩa vụ tài sản mà người có nghĩa vụ phải thực hiện để bảo vệ lợi ích của người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời và ngăn ngừa sự lạm dụng quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời từ phía người có quyền yêu cầu”. Thực tiễn vận dụng các quy định nêu trên của BLTTDS đã đặt ra những vấn đề sau đây:

Hiện nay, theo hướng dẫn tại mục 5.3 Nghị quyết số 02/2005/NQ-HĐTP ngày 27-4-2005 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao thì Thẩm phán chỉ ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời sau khi người yêu cầu xuất trình chứng cứ đã thực hiện biện pháp bảo đảm. Như vậy, việc vận dụng các quy định về buộc thực hiện biện pháp bảo đảm này trong thực tiễn trong nhiều trường hợp không bảo đảm được quyền lợi chính đáng của nguyên đơn. Mặt khác, bị đơn có thể lợi dụng các quy định của pháp luật để tẩu tán tài sản, đặc biệt là đối với các vụ án mà nguyên đơn là người nTiểu luận: Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mạighèo không có tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá để gửi vào tài khoản phong toả tại ngân hàng nơi có trụ sở của Toà án.

Về trách nhiệm bồi thường của Tòa án

Bộ luật tố tụng dân sự quy định các trường hợp Tòa án có trách nhiệm bồi thường khi áp dụng không đúng BPKCTT gây thiệt hại cho người bị áp dụng BPKCTT hoặc cho người thứ ba (Khoản 2 Điều 101) nhưng lại chưa có quy định trách nhiệm bồi thường của Tòa án trong trường hợp không ra quyết định hoặc chậm ra quyết định áp dụng BPKCTT. Vì vậy, trong thực tiễn, nếu đương sự yêu cầu và có căn cứ áp dụng BPKCTT nhưng Tòa án không ra hoặc chậm ra quyết định áp dụng BPKCTT gây thiệt hại cho đương sự thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại này như thế nào? Quyền, lợi ích của đương sự yêu cầu có được bảo vệ không? Những nội dung này cần được bổ sung trong Bộ luật TTDS về trách nhiệm bồi thường của Tòa án trong việc không ra quyết định hoặc chậm ra quyết định áp dụng BPKCTT, gây thiệt hại cho người bị áp dụng BPKCTT hoặc cho người thứ ba.

3.2.3 Quyền kháng cáo kháng nghị

Theo pháp luật tố tụng dân sự hiện hành, một vụ án được xét xử qua cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm, bên cạnh đó còn có thủ tục đặc biệt là giám đốc thẩm và tái thẩm. Như vậy, theo nguyên tắc, một vụ án nếu phải xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm thì nhiều nhất cũng chỉ cần đến ba phiên tòa. Nhưng thực tế lại khác. Có những vụ án phải xét xử tới 9 – 10 phiên tòa, nhưng vẫn chưa kết thúc được và cũng có thể không biết bao giờ mới kết thúc. Thực tế này phát sinh từ nhiều nguyên do, trong đó có việc chính trong các quy định của pháp luật đã tiềm ẩn những nguy cơ làm cho một vụ án có thể bị kéo dài và phải xét xử làm nhiều lần. Do vậy, pháp luật cần có những quy định rõ ràng chặt chẽ hơn để tránh tình trạng kháng cáo kháng nghị kéo dài như hiện nay.

Hướng dẫn chi tiết hơn

Pháp luật nên có hướng dẫn chi tiết hơn các vấn đề liên quan đến trình tự, thủ tục, thẩm quyền ra văn bản, quyết định để người thực thi cứ thế mà làm. Chẳng hạn, cần quy định rõ đơn khiếu nại giám đốc thẩm thì nơi nào tiếp nhận, nhận trực tiếp, nhận qua đường bưu điện; nơi nào xem xét bước đầu, thời hạn báo cáo, đề xuất, trình cấp có thẩm quyền quyết định; kháng nghị hay không kháng nghị thì thông báo cho đương sự ra sao; thời hạn ra văn bản trả lời, ra quyết định kháng nghị; cách thức tống đạt quyết định kháng nghị; thời hạn tối đa từ ngày ký đến ngày. Cần bổ sung quy định với những trường hợp không chấp nhận đơn khiếu nại, không kháng nghị giám đốc thẩm thì TAND Tối cao, VKSND Tối cao phải trả lời, giải thích rõ lý do cho đương sự biết. Làm được điều đó, sẽ giảm rất nhiều các trường hợp khiếu nại tiếp, khiếu nại dai dẳng dù đơn đã bị bác một cách thuyết phục. Tiểu luận: Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại

Thời hiệu kháng nghị ngắn hơn

Đối với kháng nghị giám đốc thẩm thời hạn kháng nghị là ba năm như hiện nay là quá dài, nên giảm bớt thời gian kháng nghị lại. Nếu rút ngắn thời hạn kháng nghị sẽ hạn chế được tình trạng bản án đã thi hành xong lại có kháng nghị giám đốc thẩm, dẫn đến hủy án, lật án, kéo theo nhiều hệ quả rắc rối như đã nêu trong bài trước. Thông thường, sau phiên tòa phúc thẩm, đương sự thua kiện bức xúc thì họ sẽ khiếu nại giám đốc thẩm ngay.

Có chế tài với người làm sai

Pháp luật cũng nên có có quy định về việc này để đảm bảo “người làm sai phải chịu trách nhiệm về cái sai của mình”. Chế tài càng cụ thể thì người có thẩm quyền càng phải nâng cao trách nhiệm, cẩn trọng xem xét kỹ, tránh được những trường hợp kháng nghị thiếu căn cứ thuyết phục.

Có cơ chế giám sát chặt chẽ

“Thực trạng giải quyết khiếu nại xin giám đốc thẩm, có trường hợp chính đáng nhưng cứ phải chờ đợi trong vô vọng, như mò kim đáy bể, có trường hợp lại được chấp nhận quá dễ dàng. Nếu tình trạng “dè sẻn” kháng nghị còn kéo dài, các sai sót của những bản án đã có hiệu lực pháp luật không được sửa sai, khắc phục kịp thời, công lý, công bằng sẽ không được bảo đảm, để làm cho người dân ít nhiều mất lòng tin vào pháp luật, vào phán quyết của tòa án. Ngoài ra, nếu không có biện pháp khắc phục, không hạn chế, giảm bớt đến mức có thể những kháng nghị tùy tiện, không có căn cứ thuyết phục… sẽ gây nghi ngờ về những tiêu cực, nhất là đối với các bộ phận nghiệp vụ liên quan trong quá trình xem xét, ra quyết định.

Các hoạt động kinh tế luôn có vị trí vai trò đặc biệt quan trọng, nó quyết định sự tồn tại cũng như phát triển của xã hội. Trong hoạt động kinh doanh thường khó tránh khỏi các tranh chấp do nhiều nguyên nhân khác nhau, do vậy, giải quyết các tranh chấp kinh tế cũng là yêu cầu tất yếu. Một trong các phương pháp để bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của các bên, đảm bảo các quan hệ kinh doanh được ổn định, lành mạnh và phát triển là phương thức khởi kiện đến tòa án theo thủ tục tố tụng.

Thông qua bài tiểu luận này, nhóm 13 muốn khái quát cho bạn đọc hiểu rõ hơn tầm quan trọng của thủ tục tố tụng trong việc giải quyết các vụ việc kinh doanh, thương mại, cũng như nắm được trình tự của các thủ tục tố tụng, trình tự giải quyết vụ án, quyền và nghĩa vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng. Điều đó sẽ giúp cho quý bạn đọc có thể hiểu rõ và ứng dụng trong thực tế.

CHƯƠNG IV. TÌNH HUỐNG PHÁP LUẬT:

Nội dung vụ tranh chấp hợp đồng chuyển giao công nghệ chế biến trứng vịt bắc thảo giữa ông Đòan Minh Phúc và Doanh nghiệp tư nhân Ba Huân

4.1 Nội dung tóm tắt của tranh chấp: Tiểu luận: Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại

Căn cứ vào hợp đồng chuyển giao công nghệ ngày 22/3/2007 giữa ông Đòan Minh Phúc và DNTN Ba Huân do bà Phạm Thị Huân làm chủ (bà Phạm Thị Kim Anh đại diện ký hợp đồng) và lời khai nhận của các bên đương sự tại phiên tòa thì ông Đòan Minh Phúc có chuyển giao công nghệ chế biến trứng vịt bắc thảo cho DNTN Ba Huân với giá thỏa thuận là 40.000.000 đồng, ông Phúc đã nhận ứng trước 5.000.000 đồng. Lẽ ra, sau khi được chuyển giao công nghệ, nếu có khiếu nại về chất lượng sản phẩm thử nghiệm (nghĩa là khiếu nại về hiệu quả của công nghệ) thì DNTN Ba Huân phải có trách nhiệm lưu giữ kết quả thử nghiệm để nhờ cơ quan chuyên môn giám định hoặc khởi kiện ra Tòa án để Tòa án trưng cầu giám định nhưng DNTN Ba Huân lại đơn phương tiêu hủy tòan bộ kết quả thử nghiệm mà không có lý do chính đáng.

Do đó, khiếu nại của DNTN Ba Huân cho rằng kết quả thử nghiệm không đạt là không có cơ sở để được chấp nhận.

4.2 Nội dung bản án:

Trong các ngày 11 và 16 tháng 10 năm 2007, tại phòng xử án của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, đã xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 337/2007/TLST-KDTM ngày 25 tháng 5 năm 2007 về tranh chấp hợp đồng chuyển giao công nghệ theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1806/2007/QĐST-KDTM ngày 03 tháng 10 năm 2007 giữa các đương sự:

Nguyên đơn trình bày :

Ngày 22/3/2007, ông Đòan Minh Phúc có ký hợp đồng chuyển giao công nghệ chế biến hột vịt bắc thảo cho Doanh nghiệp tư nhân Ba Huân với giá trị chuyển giao là 40.000.000 đồng. Các bên đã tiến hành thử nghiệm đạt yêu cầu nhưng DNTN Ba Huân không chịu thanh tóan số tiền còn lại là 35.000.000 đồng (ông Phúc đã nhận ứng trước 5.000.000 đồng). Do đó, ông Phúc khởi kiện yêu cầu DNTN Ba Huân phải thanh tóan tiếp số tiền còn lại của hợp đồng là 35.000.000 đồng.

Bị đơn trình bày :

Xác nhận có ký kết và thực hiện hợp đồng chuyển giao công nghệ chế biến hột vịt bắc thảo với ông Đòan Minh Phúc với trị giá 40.000.000 đồng, ông Phúc đã ứng trước 5.000.000 đồng và cũng đã tiến hành thử nghiệm. Tuy nhiên, DNTN Ba Huân không đồng ý thanh tóan tiếp số tiền còn lại của hợp đồng là 35.000.000 đồng vì kết quả thử nghiệm không đạt yêu cầu và ông Phúc cũng không đồng ý thử nghiệm lại theo đề nghị của DNTN Ba Huân. Tiểu luận: Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại

Tòa án đã tiến hành hòa giải nhưng không thành, các bên đương sự vẫn giữ nguyên ý kiến.

Tại phiên tòa hôm nay :

  • Nguyên đơn : Yêu cầu Chủ DNTN Ba Huân phải thanh tóan số tiền còn nợ của hợp đồng chuyển giao công nghệ ngày 22/3/2007 là 35.000.000 đồng.
  • Bị đơn : Không đồng ý thanh tóan tiếp cho nguyên đơn số tiền còn lại của hợp đồng là 35.000.000 đồng vì kết quả thử nghiệm không đạt yêu cầu

Ý kiến của Luật sƣ bảo vệ quyền lợi cho bị đơn :

  • Các bên đã cùng kiểm tra kết quả thử nghiệm, kết quả không đạt (so với thành phẩm của một cơ sở khác).
  • Lẽ ra, DNTN Ba Huân có quyền đòi lại số tiền đã ứng trước (5.000.000 đồng) nhưng vì thiện chí, DNTN Ba Huân không yêu cầu ông Phúc phải trả lại.
  • Hợp đồng chuyển giao công nghệ giữa hai bên có thể bị vô hiệu vì ông Phúc có thể đã sử dụng công nghệ thuộc quyền sở hữu của người khác mà không được phép. Nếu hợp đồng bị vô hiệu thì ông Phúc cũng không có quyền đòi thanh tóan số tiền còn lại của hợp đồng.
  • Đề nghị Hội đồng xét xử bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

XÉT THẤY

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định :

1. Về thẩm quyền giải quyết vụ án :

Đây là tranh chấp về kinh doanh, thương mại (chuyển giao công nghệ) giữa các cá nhân đều có mục đích lợi nhuận, bị đơn có địa chỉ kinh doanh và cư trú tại TPHCM. Vì vậy, căn cứ vào khoản 2, Điều 29, khỏan 1 Điều 34, khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự; vụ tranh chấp này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân TP.HCM theo thủ tục tố tụng dân sự.

2.Về thời hiệu khởi kiện :

Ngày 22/3/2007, các bên ký hợp đồng. Đầu tháng 5/2007, phát sinh tranh chấp.

Ngày 04/5/2007, nguyên đơn đã nộp đơn khởi kiện đến Tòa án.

Căn cứ vào điểm a, khoản 3, Điều 159 Bộ luật tố tụng dân sự, nguyên đơn đã làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án trong thời hạn quy định (2 năm kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn bị xâm phạm), do đó, cần được chấp nhận thụ lý để giải quyết.

3.Về nội dung tranh chấp : Tiểu luận: Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại

Xét yêu cầu của nguyên đơn đòi Chủ DNTN Ba Huân phải thanh toán số tiền còn nợ của hợp đồng chuyển giao công nghệ ngày 22/3/2007 là 35.000.000 đồng:

Căn cứ vào hợp đồng chuyển giao công nghệ ngày 22/3/2007 giữa ông Đòan Minh Phúc và DNTN Ba Huân do bà Phạm Thị Huân làm chủ (bà Phạm Thị Kim Anh đại diện ký hợp đồng) và lời khai nhận của các bên đương sự tại phiên tòa thì ông Đòan Minh Phúc có chuyển giao công nghệ chế biến trứng vịt bắc thảo cho DNTN Ba Huân với giá thỏa thuận là 40.000.000 đồng, ông Phúc đã nhận ứng trước 5.000.000 đồng. Các bên cũng đã thống nhất xác nhận:

Từ ngày 18 đến ngày 28 tháng 3 năm 2007, ông Phúc đã tiến hành chuyển giao công nghệ cho DNTN Ba Huân bằng việc chế biến thử nghiệm 10 ổ trứng vịt bắc thảo với sự chứng kiến của đại diện DNTN Ba Huân. Việc thử nghiệm đã hòan tất và các bên đã tiến hành kiểm tra kết quả thử nghiệm. Tuy nhiên, tại thời điểm này, bắt đầu phát sinh tranh chấp vì hai bên không thống nhất ý kiến đánh giá kết quả thử nghiệm: ông Phúc cho rằng kết quả đã đạt yêu cầu (5/10), còn DNTN Ba Huân cho rằng không đạt (chỉ đạt 2/5). Ông Phúc yêu cầu niêm phong chờ giải quyết nhưng DNTN Ba Huân không đồng ý và đã tự đem tiêu hủy tòan bộ sản phẩm thử nghiệm (10 ổ trứng vịt) mà không có sự đồng ý và cũng không có sự chứng kiến của ông Phúc hoặc đại diện chính quyền địa phương hoặc cơ quan chức năng. Lẽ ra, sau khi được chuyển giao công nghệ, nếu có khiếu nại về chất lượng sản phẩm thử nghiệm (nghĩa là khiếu nại về hiệu quả của công nghệ) thì DNTN Ba Huân phải có trách nhiệm lưu giữ kết quả thử nghiệm để nhờ cơ quan chuyên môn giám định hoặc khởi kiện ra Tòa án để Tòa án trưng cầu giám định nhưng DNTN Ba Huân lại đơn phương tiêu hủy tòan bộ kết quả thử nghiệm mà không có lý do chính đáng (DNTN Ba Huân cho rằng do lo sợ dịch cúm gia cầm và ô nhiễm môi trường là không có cơ sở vì trứng nguyên liệu do chính DNTN Ba Huân cung cấp, phải bảo đảm không nhiễm vi rút trước khi đưa vào thử nghiệm, và việc ô nhiễm môi trường phải có cơ quan y tế xác nhận mới có cơ sở). Trong quá trình chuẩn bị xét xử vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay, các bên đương sự không yêu cầu Tòa án trưng cầu giám định công nghệ đã được chuyển giao theo hợp đồng. Tiểu luận: Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại

Do đó, khiếu nại của DNTN Ba Huân cho rằng kết quả thử nghiệm không đạt là không có cơ sở để được chấp nhận. Yêu cầu của ông Đòan Minh Phúc phù hợp với quy định của pháp luật tại các điều 292 và 297 Luật thương mại năm 2005; Điều 412 Bộ luật dân sự năm 2005, nên có cơ sở để được chấp nhận

4.Về án phí:

Căn cứ vào khoản 1 Điều 131 Bộ luật tố tụng dân sự và các điều 15, 18 và 19

Nghị định số 70/CP ngày 12/6/1997 của Chính phủ về án phí, lệ phí Tòa án:

  • Chủ DNTN Ba Huân phải chịu án phí sơ thẩm trên số tiền phải trả cho ông Đòan Minh Phúc.
  • Ông Đòan Minh Phúc không phải chịu án phí nên được nhận lại toàn bộ số tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Vì các lẽ trên, tòa án quyết định:

Áp dụng các điều 292 và 297 Luật thương mại năm 2005; Điều 412 Bộ luật dân sự năm 2005; Điều 79 Bộ luật tố tụng dân sự;

  • Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bà Phạm Thị Huân – Chủ DNTN Ba Huân, phải thanh tóan cho ông Đòan Minh Phúc số tiền còn nợ của hợp đồng chuyển giao công nghệ ngày 22/3/2007 giữa hai bên là 000.000 đ (ba mươi lăm triệu đồng).
  • Về án phí:
  • Phạm Thị Huân phải chịu án phí sơ thẩm là 750.000 đồng (một triệu bảy trăm năm chục ngàn đồng).
  • Ông Đòan Minh Phúc không phải chịu án phí nên được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 000 đồng (theo Biên lai thu tiền số 002029 ngày 23 tháng 5 năm 2007 của Thi hành án dân sự TPHCM).
  • Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của ông Đòan Minh Phúc, nếu bà Phạm Thị Huân không chịu thanh toán số tiền nói trên thì còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước qui định tương ứng với thời gian chưa thi hành án.
  • Quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Tiểu luận: Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Contact Me on Zalo
0906865464