Luận văn: Thực trạng quản lý kiểm tra đánh giá học tập học sinh

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Thực trạng quản lý kiểm tra đánh giá học tập học sinh hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm khóa luận thì với đề tài Luận văn: Thực trạng công tác quản lý hoạt động Kiểm tra đánh giá học tập của HS hiện nay ở trường Trung học phổ thông Nguyễn Du – Thanh Oai. dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.

2.1.Khái quát về giáo dục trường Trung học phổ thông Nguyễn Du – Thanh Oai.

2.1.1. Lược sử nhà trường

Trường Trung học phổ thông Nguyễn Du – Thanh Oai thành lập ngày 15 tháng 8 năm 1985 theo Quyết định số .. của Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Sơn Bình (nay thuộc Thành phố Hà Nội). Trường nằm ở trên trục đường Quốc lộ 21B, tại địa bàn xã Dân Hòa, huyện Thanh Oai, Thành phố Hà Nội, đến nay đã trải qua 30 năm xây dựng và trưởng thành.

Từ khi thành lập đến năm 1988, tên trường là Phổ thông trung học Kỹ thuật Nguyễn Du.

  • Từ 1988 đến 1999 gọi là trường PTTH Nguyễn Du.
  • Từ 1999 đến 2008 gọi là trường Trung học phổ thông Nguyễn Du.
  • Từ 2008 đến nay (sau khi điều chỉnh địa giới hành chính Thủ đô) gọi là trường Trung học phổ thông Nguyễn Du – Thanh Oai.

Nhiệm vụ: Đào tạo HS bậc trung học phổ thông chủ yếu cho con em 6 xã phía Nam huyện Thanh Oai và một số xã giáp ranh của huyện Ứng Hòa và huyện Chương Mỹ. Luận văn: Thực trạng quản lý kiểm tra đánh giá học tập học sinh.

Sứ mệnh của nhà trường: Xây dựng được môi trường học tập, rèn luyện thân thiện, nền nếp, kỷ cương, chất lượng, nhân văn, để mỗi cán bộ, GV, nhân viên và HS đều có cơ hội phát triển tối đa mọi tiềm năng, tư duy sáng tạo của mình.

Tầm nhìn: Phấn đấu xây dựng trường Trung học phổ thông Nguyễn Du – Thanh Oai trở thành một trung tâm Giáo dục và đào tạo, trung tâm văn hóa chất lượng cao trong khu vực, nơi HS lựa chọn để học tập và rèn luyện; nơi GV, HS luôn có khát vọng vươn lên.

Việc ra đời một ngôi trường PTTH trên khu vực 6 xã phía nam Thanh Oai là để đáp ứng nguyện vọng và nhu cầu học tập của con em nhân dân địa phương, tạo cơ hội thuận lợi để nâng cao dân trí ở một vùng quê còn nhiều khó khăn về kinh tế – xã hội. Gần 1/3 thế kỷ xây dựng và trưởng thành, vượt qua muôn vàn gian khó về nhiều mặt, trường Trung học phổ thông Nguyễn Du – Thanh Oai hôm luôn bám sát nhiệm vụ chiến lược: “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài” cho quê hương đất nước. Từ mái trường này, hơn 20.000 lượt HS đã tốt nghiệp ra trường, trong đó, nhiều người đang giữ cương vị lãnh đạo chủ chốt ở các địa phương, nhiều HS trở thành sỹ quan lực lượng vũ trang…

Bằng nỗ lực, tâm huyết và trách nhiệm của Ban giám hiệu và đội ngũ GV, cùng với sự chăm lo của các lực lượng Xã hội, chất lượng Giáo dục đại trà và mũi nhọn của trường gặt hái nhiều kết quả tốt đẹp. Cùng với sự lớn mạnh của nhà trường, các tổ chức chính trị, đoàn thể quần chúng hoạt động hiệu quả và luôn được ĐG cao. Đảng bộ với 37 Đảng viên nhiều năm được công nhận là “Trong sạch, vững mạnh”. Công đoàn đạt danh hiệu vững mạnh xuất sắc được nhận Bằng khen của Công đoàn Giáo dục Việt Nam. Đoàn TNCS Hồ Chí Minh nhà trường liên tục đạt danh hiệu vững mạnh xuất sắc, được tặng Bằng khen của Trung ương Đoàn.

Với những thành quả mà thầy trò trường Trung học phổ thông Nguyễn Du – Thanh Oai đạt được đã cho thấy sức vươn lên của một mái trường. Hiện nay nhà trường đang quyết tâm không ngừng nâng cao chất lượng để xứng đáng là một một địa chỉ Giáo dục tin cậy, tạo sức hút cho HS và niềm tin lớn cho nhân dân trong khu vực.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ: 

===>>> Bảng Giá Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Quản Lý Giáo Dục

2.1.2. Đặc điểm nhà trường

2.1.2.1. Về tổ chức bộ máy

Tổ chức bộ máy nhà trường: Khối CB, GV, nhân viên nhà trường: Tổng số có 89 người trong đó có 4 CBQL (1 Hiệu trưởng, 3 Phó hiệu trưởng), 80 GV, 9 nhân viên hành chính. Luận văn: Thực trạng quản lý kiểm tra đánh giá học tập học sinh.

Về cơ cấu tổ chức: khối CB GV được chia làm 7 đơn vị tổ, gồm: 06 tổ chuyên môn và 01 tổ hành chính.

Tổ chức cơ sở Đảng nhà trường: Đảng bộ nhà trường gồm có 37 đảng viên, trong đó có hai chi bộ trực thuộc. Tổ chức Công đoàn nhà trường gồm 89 công đoàn viên chia theo 7 tổ công đoàn. Tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh gồm 37 chi đoàn trong đó 36 chi đoàn HS, 1 chi đoàn GV.

Tóm lại, cơ cấu tổ chức bộ máy nhà trường gọn nhẹ, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ lý luận chính trị đều đạt chuẩn và trên chuẩn, tuổi đời nhìn chung đã được trẻ hóa về đội ngũ. Tổ chức cơ sở Đảng vốn là đơn vị trong sạch, vững mạnh, các đoàn thể Công đoàn, Đoàn thanh niên nhiều năm liền đều là đơn vị vững mạnh.

2.1.2.2. Đội ngũ GV, HS

  • Số lượng, chất lượng, cơ cấu

Phân tích thành phần, giới tính và trình độ đội ngũ cụ thể như sau:

Bảng 2.1: Số lượng, chất lượng, cơ cấu đội ngũ GV

  • Đặc điểm đặc thù

Là trường Trung học phổ thông mới thành lập được 30 năm (thành lập sau các trường Trung học phổ thông công lập trong huyện), nằm ở vùng dân cư đa số là làm nghề nông nghiệp, dân trí còn thấp. Số lượng GV tuy đảm bảo về số lượng nhưng chất lượng còn chưa đồng đều, tuổi đời bình quân khá trẻ (37,6) và cư trú rải rác ở địa bàn và các vùng lân cận điều đó ảnh hưởng nhiều đến nề nếp lên lớp của GV, mặt khác với sức trẻ của đội ngũ cũng mang lại những thuận lợi nhất định trong việc tiếp thu cập nhật kiến thức mới, đặc biệt là ngoại ngữ và tin học.

Đội ngũ là một tập thể đoàn kết, có tinh thần trách nhiệm, ban lãnh đạo có sức khỏe và kinh nghiệm công tác, có uy tín với đồng nghiệp và đều là nam giới tuổi đời bình quân 46.

2.1.2.3. Cơ sở vật chất Luận văn: Thực trạng quản lý kiểm tra đánh giá học tập học sinh.

Tổng diện tích nhà trường: 10.000 m2. Số phòng học: 30 phòng. Số phòng học bộ môn: 05 phòng (gồm 02 phòng Tin học với 25 máy tính, 01 phòng Vật lý, 01 phòng Hóa học, 01 phòng Sinh học). Tuy nhiên các phòng này đều là những phòng học được cải tạo nâng cấp nên chưa đảm bảo quy cách theo quy chuẩn. Số phòng thư viện: 01 phòng. Khu hiệu bộ: 01. Số lượng bàn ghế, quạt, điện chiếu sáng được đáp ứng tương đối đủ so với yêu cầu. Vật tư, thiết bị, sách giáo khoa, sách tham khảo được mua sắm tương đối đầy đủ, phục vụ cho công tác giảng dạy và học tập.

Chưa có nhà tập thể thao, sân chơi, bãi tập còn thiếu thốn. Chưa có vườn thực nghiệm, dụng cụ thí nghiệm, hóa chất trang cấp không thường xuyên, chất lượng chưa đáp được cho các hoạt động thực hành với tính chính xác cao

2.2. Thực trạng hoạt động Kiểm tra đánh giá ở trường Trung học phổ thông Nguyễn Du – Thanh Oai, Thành phố Hà Nội.

Mục tiêu khảo sát: Chỉ ra được thực trạng hoạt động Kiểm tra đánh giá học tập ở trường Trung học phổ thông Nguyễn Du – Thanh Oai, Thành phố Hà Nội và thực trạng việc quản lý hoạt động ấy.

Nội dung khảo sát:

  • ĐG thực trạng nhận thức về hoạt động Kiểm tra đánh giá học tập của HS; thực trạng về hình thức, phương pháp, quy trình Kiểm tra đánh giá trong nhà trường.
  • ĐG các biện pháp quản lý của HT đối với hoạt động Kiểm tra đánh giá nhằm thúc đẩy quá trình đổi mới và nâng cao chất lượng dạy học.

Phương pháp khảo sát: Tác giả đã sử dụng phương pháp điều tra Xã hội thông qua việc phát phiếu hỏi và phỏng vấn sâu đối với các khách thể sau:

  • Nhóm I gồm: 25 CBQL, chuyên viên các phòng ban chức năng của Sở Giáo dục & ĐT Hà Nội, Hiệu trưởng, các Phó hiệu trưởng, tổ trưởng, nhóm trưởng chuyên môn của trường Trung học phổ thông Nguyễn Du – Thanh Oai
  • Nhóm II gồm: 80 GV thuộc trường Trung học phổ thông Nguyễn Du – Thanh Oai và một số GV mới nghỉ hưu, mới chuyển trường.
  • Nhóm III gồm : 180 HS đại diện cho 36 lớp (mỗi lớp chọn ngẫu nhiên 5 HS).
  • Ngoài ra còn trao đổi, phỏng vấn trực tiếp nhiều thày cô giáo lão thành và những bậc CMHS có kinh nghiệm và tâm huyết với ngành Giáo dục & ĐT.

2.2.1. Về nhận thức Luận văn: Thực trạng quản lý kiểm tra đánh giá học tập học sinh.

Hoạt động Kiểm tra đánh giá học tập của HS có vai trò vô cùng quan trọng trọng việc nâng cao chất lượng dạy học (là khâu không thể thiếu của quá trình dạy học). Hưởng ứng và thực hiện các phong trào, các cuộc vận động trong toàn ngành như: Chống tiêu cực và khắc phục bệnh thành tích trong Giáo dục; xây dựng trường học thân thiện và HS tích cực; Đổi mới quản lý và nâng cao chất lượng Giáo dục. Trong những năm qua dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Sở Giáo dục&ĐT Hà Nội, nhà trường đã tích cực làm tốt công tác phổ biến, bồi dưỡng về ý thức chấp hành quy chế chuyên môn, quy chế thi, Kiểm tra đánh giá tới toàn thể CB, GV và HS. Nhờ đó mà ý thức trách nhiệm trọng hoạt động dạy và học nói chung và hoạt động Kiểm tra đánh giá nói riêng có nhiều chuyển biến tích cực, đặc biệt là trong nhận thức về vai trò, ý nghĩa trong hoạt động Kiểm tra đánh giá. Điều này được mô tả qua bảng 2.3.

Qua số liệu cho thấy tất cả các CBQL (gồm chuyên viên Sở, Hiệu trưởng, Phó Hiệu trưởng, tổ trưởng, nhóm trưởng) đều ĐG cao vai trò quan trọng của hoạt động Kiểm tra đánh giá học tập của HS trong quá trình dạy và học. Đối với đội ngũ GV thì phần lớn đều nhận thức được vai trò của hoạt động Kiểm tra đánh giá, chỉ một số ít coi nhẹ nội dung này. Mặc dù tầm quan trọng của hoạt động Kiểm tra đánh giá học tập của HS được CB, GV nhận thức và ĐG cao song trong quá trình triển khai, tổ chức thực hiện hoạt động này vẫn gặp phải không ít khó khăn về chủ quan cũng như khách quan dẫn tới hiệu quả ở một số khâu còn hạn chế.

Mặt khác, cùng về một vấn đề, nhưng những nhóm chủ thể khác nhau cũng có những nhận thức khác nhau.

Đối với cấp quản lý: Đều xác định được vai trò của hoạt động Kiểm tra đánh giá và coi đây là một công cụ quan trọng để tác động vào quá trình dạy – học, cải thiện chất lượng đầu ra, góp phần đem lại thành công trên con đường xây dựng “thương hiệu” thông qua chỉ số thi đỗ tốt nghiệp và đại học hằng năm. Áp lực từ thành tích thi cử khiến Ban Giám hiệu phải chỉ đạo công tác dạy- học và Kiểm tra đánh giá theo hướng thực dụng ứng thí, dạy nhồi kiến thức, Kiểm tra bằng việc đo đếm kiến thức và ĐG mức độ tái hiện những kiến thức đã được “nhồi” trước đó.

Qua trao đổi, phỏng vấn sâu các CBQL trong và ngoài nhà trường, tác giả cũng nhận thấy sự lúng túng trong việc chỉ đạo hoạt động Kiểm tra đánh giá của các nhà trường trước những thay đổi về thi cử hiện nay. Chẳng hạn chủ trương lấy điểm Trung bình các môn học lớp 12 vào việc tham gia xét tốt nghiệp Trung học phổ thông đã đã khiến các nhà quản lý phải băn khoăn khi lựa chọn phương hướng chỉ đạo khâu Kiểm tra đánh giá đối với HS lớp 12. Hoặc là tiếp tục quan điểm làm thật nghiêm túc, chặt chẽ khiến HS cảm thấy áp lực cần cố gắng học tập, hoặc điều chỉnh (hạ) thang bậc chuẩn Kiểm tra đánh giá, thậm chí nâng điểm vô tội vạ để tạo điều kiện cho HS có được lợi thế nhất định khi tham gia xét tốt nghiệp Trung học phổ thông. Một khi phải lo như thế thì việc tổ chức Kiểm tra đánh giá thường xuyên khó có thể tiến hành một cách nghiêm túc, khách quan và khoa học.

Đối với GV: Tuy coi Kiểm tra đánh giá là việc quan trọng nhưng đa phần chỉ là sự đo đếm mức kiến thức mà HS thu được sau khi kết thúc một giai đoạn học tập. Không ít GV coi đó là một công việc bị bắt buộc phải thực hiện một cách miễn cưỡng, làm cho đủ gọi là có. Vì vậy GV tự ý ra đề, tự ý Kiểm tra, tự chấm bài cho điểm không theo quy trình và barem, đánh giá HS không theo chuẩn quy định. Luận văn: Thực trạng quản lý kiểm tra đánh giá học tập học sinh.

Trong thực tế hiện nay việc Kiểm tra môn học còn thiên về Kiểm tra học thuộc lòng, Kiểm tra trí nhớ một cách máy móc, đơn điệu, vụn vặt. Người ra đề ít hoặc không chú đến các mức độ của đề ra nhằm mục đích cụ thể: Kiểm tra trí nhớ (mức độ biết, tái hiện), hay kiếm tra trình độ hiểu, trình độ vận dụng kiến thức của HS… Đó là hệ quả của lối dạy học cũ, Kiểm tra đánh giá thiên về tái hiện kiến thức, xem nhẹ kỹ năng. Kết quả là HS ít động não, phân tích suy luận vào một lĩnh vực mà không thấy được lĩnh vực liên quan, nguyên nhân hoặc kết quả của nó.

2.2.2. Thực trạng việc xác định mục tiêu dạy học

Mục tiêu môn học là chuẩn về kiến thức, kỹ năng, thái độ mà HS sẽ nhận được sau mỗi bài học, mỗi chương, mỗi học kỳ hay sau khi hoàn thành chương trình học tập. Mục tiêu môn học phải được cụ thể hóa trong bài giảng của GV, trước mỗi bài học GV cần cho HS biết được mục tiêu bài học đó, giúp HS chủ động trong việc lĩnh hội tri thức.

Song có lẽ không phải GV nào cũng nắm được mục tiêu môn học trước mỗi bài học, mục đích Kiểm tra đánh giá, có thể do GV trẻ mới vào nghề, thiếu kinh nghiệm. Điều đó thể hiện trong việc soạn giảng của họ, mức độ trong Kiểm tra đánh giá của những GV đó đối với HS mới chỉ dừng lại ở việc yêu cầu HS tái hiện lại những kiến thức các em vừa được học, mà không phát huy tính tích cực sáng tạo của HS sau mỗi bài học. Cũng vì lí do này mà nhiều HS không nắm rõ mục tiêu môn học, thiếu chủ động, sáng tạo trong việc lĩnh hội kiến thức, ảnh hưởng nhiều đến chất lượng các bài Kiểm tra, chất lượng Giáo dục giảm sút.

Đây có thể là khâu yếu trong phần lớn GV hiện nay ở các trường Trung học phổ thông nói chung và trong địa bàn khảo sát nói riêng. Hầu hết việc xác định mục tiêu dạy học trong mỗi tiết, bài, chương hay cả quá trình nhìn chung đều rất quá sơ sài, chung chung, chủ yếu mô tả những ý tưởng, giải pháp của thầy qua đó “giúp” HS đạt được một mức độ kiến thức, kỹ năng, thái độ nhất định nào đó. Việc xác định mục tiêu dạy học trừu tượng như thế không chỉ dẫn đến việc dạy học trở nên kém hiệu quả mà còn khiến việc xác định hình thức, phương pháp, nội dung Kiểm tra đánh giá cũng trở nên tùy tiện. Tóm lại mục tiêu dạy học như thường thấy không thể dùng làm chuẩn để Kiểm tra đánh giá học tập môn học.

2.2.3. Thực trạng các hình thức, phương pháp Kiểm tra đánh giá học tập của HS Luận văn: Thực trạng quản lý kiểm tra đánh giá học tập học sinh.

Công tác Kiểm tra, ĐG học tập của HS các trường Trung học phổ thông hiện nay được thực hiện theo Thông tư số 58/2011/TT-BGDĐT ngày 12 tháng 12 năm 2011 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo. Chính vì xác định rõ tầm quan trọng của công tác Kiểm tra đánh giá học tập của HS, hằng năm Ban giám hiệu nhà trường đều có kế hoạch chỉ đạo để thống nhất thời gian, chuẩn kiến thức kỹ năng và định hướng các hình thức Kiểm tra (kiểm tra Trắc nghiệm khách quan nhiều lựa chọn, Trắc nghiệm tự luận,…) triển khai trên tất cả các lớp và ở hầu hết các môn học.

Tuy nhiên việc áp dụng các hình thức và phương pháp Kiểm tra đánh giá nhiều khi còn chưa phù hợp, thể hiện qua kết quả khảo sát trong biểu đồ 2.1 dưới đây:

Biểu đồ 2.1: Đánh giá của CBQL, GV về mức độ phù hợp hình thức, phương pháp Kiểm tra đánh giá (%)

Số liệu ở biểu đồ 2.1 cho thấy 0% CBQL, 5% GV được trưng cầu ý kiến cho rằng hình thức, phương pháp Kiểm tra đánh giá hiện nay là rất phù hợp, tỷ lệ tương tự mức phù hợp là 72% và 80%, chưa phù hợp là 28% và 15%. Tỷ lệ này cho thấy nhìn nhận của CBQL và GV về hình thức, phương pháp Kiểm tra đánh giá trong nhà trường hiện nay là có sự khác biệt tương đối. Nguyên do chính là các CBQL nhìn chung đều đã được tham gia các chương trình đào tạo, bồi dưỡng cập nhật kiến thức về đổi mới Kiểm tra đánh giá nên thường đặt ra yêu cầu, đòi hỏi và kỳ vọng cao hơn ở đội ngũ GV trong công tác này. Ngược lại trong đội ngũ GV còn có sự nhìn nhận chưa thống nhất, đa số đều cảm thấy hài lòng về hình thức, phương pháp Kiểm tra đánh giá hiện tại, chỉ có 15% ĐG chưa phù hợp.

Trong thực tế, đa số hoạt động Kiểm tra đánh giá mới chỉ tập trung vào việc GV đánh giá HS, ít tạo điều kiện cho HS tự ĐG mình và ĐG lẫn nhau. Nhiều GV ra đề Kiểm tra với mục đích làm sao để chấm dễ, chấm nhanh nên kết quả ĐG chưa khách quan. Một bộ phận GV chưa nắm vững yêu cầu đổi mới Kiểm tra đánh giá, việc Kiểm tra đánh giá chủ yếu được tiến hành tự phát theo kinh nghiệm của từng GV, một bộ phận không nhỏ chưa bám sát mục tiêu môn học, chuẩn kiến thức, kỹ năng của chương trình.

Kết quả ĐG không phản ánh đúng với năng lực học tập của từng HS, không thấy được sự vươn lên của từng đối tượng HS thậm chí có khi ĐG lầm (cảm tính). Thực trạng trên dẫn đến hệ lụy là HS còn rất thụ động trong việc học tập, khả năng sáng tạo và năng lực vận dụng tri thức đã học để giải quyết các tình huống thực tiển trong cuộc sống, không động viên được HS vươn lên trong học tập. Điều này cũng có nghĩa là Giáo dục chưa đáp ứng đầy đủ mục tiêu đặt ra : “ … giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo…” (Luật giáo dục- điều 27 ). Luận văn: Thực trạng quản lý kiểm tra đánh giá học tập học sinh.

2.2.4. Thực trạng các khâu soạn đề Kiểm tra đánh giá

Sau khi xác định mục đích, lựa chọn hình thức, phương pháp Kiểm tra đánh giá thì bước tiếp theo là soạn đề Kiểm tra, đề Kiểm tra có vai trò vô cùng quan trọng, bởi đề Kiểm tra chính là công cụ, là thước đo để ĐG mức độ đạt được mục tiêu của HS. Để có thể soạn đề Kiểm tra cần phải trải qua các khâu: phân tích nội dung, xác định tiêu chuẩn, tiêu chí Kiểm tra, thiết lập dàn bài Kiểm tra (ma trận kiến thức, kĩ năng), lựa chọn câu hỏi, viết câu hỏi Kiểm tra, phân tích câu hỏi. Nhận thức tầm quan trọng của đề Kiểm tra nên trong những năm qua nhà trường đã triển khai một số buổi sinh hoạt chuyên đề phổ biến kỹ thuật xây dựng ma trận đề, ngân hàng câu hỏi Kiểm tra đến việc tổ chức thẩm định ngân hàng câu hỏi. Trong những năm học gần đây cũng đã xây dựng được ngân hàng câu hỏi Kiểm tra cho một số môn như Toán, Lý Hóa, các môn còn lại chưa hoàn thiện ngân hàng câu hỏi Kiểm tra, một số môn khác mặc dù cũng đã có nhưng chưa xây dựng chính xác ma trận đề Kiểm tra, hay số câu hỏi còn ít, chưa đa dạng, thiếu khoa học nên nhà trường chưa thể triển khai được. Đề thi Kiểm tra chưa thật phù hợp với nội dung Kiểm tra và mục tiêu môn học. Nội dung ĐG có khi hơi “cao” hơn so với trình độ HS, dẫn đến HS bị nản; Nhưng đôi khi lại có GV ra đề quá dễ và đơn giản, không kích thích sự tìm tòi, sáng tạo, hứng thú của HS.

Các tiêu chí ĐG: đôi lúc đề thi Kiểm tra chưa ĐG một cách toàn diện kiến thức, kỹ năng, năng lực, thái độ, hành vi của HS; chưa đảm bảo độ tin cậy, chính xác, khách quan, công bằng; chưa đảm bảo yêu cầu phân hóa và hiệu quả chưa cao.

Bảng 2.4: Đánh giá của CBQL, GV về ngân hàng câu hỏi kiểm tra

Số liệu bảng 2.4 cho thấy chỉ có 4% CBQL, 5% GV cho rằng ngân hàng câu hỏi Kiểm tra đủ và đồng bộ; có tới 96% CBQL, 95% GV đánh giá thiếu, chưa đồng bộ và đủ, chưa đồng bộ. Kết quả này phản ánh thực trạng ngân hàng câu hỏi Kiểm tra được xây dựng ở các trường còn nghèo nàn, chất lượng thấp, chưa đồng bộ ở mọi môn, khối, dạng thức. Điều này sẽ gây rất nhiều khó khăn cho việc ra đề Kiểm tra, đề Kiểm tra thiếu tính khách quan và khó tránh khỏi sai sót.

Bảng 2.5: Đánh giá của CBQL, GV về công tác ra đề kiểm tra

Theo số liệu bảng 2.5, về mặt thời gian làm bài và tính chính xác, khoa học trong kiến thức về cơ bản đều được ĐG khá cao, trong đó các bài Kiểm tra đều được bố trí thời gian theo quy định tương ứng, đề đảm bảo tính chính xác, ít sai sót về mặt kiến thức. Điều này cho thấy ở 2 tiêu chí này thì thực trạng về đề Kiểm tra đã đáp ứng được yêu cầu, chỉ có một tỷ lệ rất nhỏ đề Kiểm tra chưa đáp ứng được yêu cầu về thời gian, còn có những sai sót về mặt kiến thức. Tuy nhiên, hạn chế lớn nhất lại nằm ở việc đảm bảo đạt mục tiêu dạy học và tính bảo mật của đề Kiểm tra. Hơn một nửa số CBQL và GV cho rằng đề Kiểm tra chưa đảm bảo bí mật, ĐG này khẳng định công tác quản lý quy trình Kiểm tra đánh giá là chưa tốt, mà quản lý đề Kiểm tra là một khâu trong đó. Bên cạnh đó, số liệu này cũng cho thấy một số CB, GV chưa thực sự nêu cao tinh thần trách nhiệm trong dạy – học, hiệu quả dạy – học thấp dẫn tới tâm lý lo ngại kết quả Kiểm tra không cao, ảnh hưởng tới thành tích cá nhân nên bằng cách này hay cách khác GV có những tác động vào việc bảo mật đề Kiểm tra.

Việc Kiểm tra thường giao thẳng cho GV tự ra đề Kiểm tra sẽ không có chất lượng cao (họ không chịu nghiên cứu – tìm hiểu yêu cầu dung lượng kiến thức cần Kiểm tra, mục đích của một bài Kiểm tra không phù hợp với yêu cầu của chương trình mà HS được học) không phù hợp với các đối tượng HS trong từng lớp. Đề Kiểm tra thực hiện lớp này mang sang Kiểm tra ở lớp dạy khác ở tiết học khác và một ngày khác, như vậy vô tình đã làm lộ đề, HS lớp khác Kiểm tra sau đã biết được đề Kiểm tra vì vậy kết quả bài làm của các lớp khác nhau (cùng một đối tương HS nhưng các lớp Kiểm tra sau kết quả điểm khá giỏi cao hơn lớp Kiểm tra trước). Luận văn: Thực trạng quản lý kiểm tra đánh giá học tập học sinh.

GV dạy cùng môn, cùng một chương trình, cùng khối lớp, cùng một đối tượng HS nhưng ra đề Kiểm tra có nội dung khác nhau. Có GV ra đề dung lượng kiến thức nặng nề và ngược lại có GV ra đề kiến thức nhẹ nhàng, thậm chí có GV ra đề trệch với kiến thức đã dạy, HS đã học. Một bộ phận GV chưa đổi mới việc ra đề. Đề ra chủ yếu tái hiện kiến thức chưa chú trọng đến khả năng vận dụng kiến thức, kỹ năng vào giải quyết các tình huống thực tiễn, phát huy tính độc lập sáng tạo của HS (HS chỉ học thuộc lòng bài học là làm bài tốt). GV các môn Lý, Hóa, Sinh, Ngoại ngữ ít sử dụng đề Trắc nghiệm khách quan mặc dù là môn sẽ thi tốt nghiệp và thi đại học bằng hình thức Trắc nghiệm khách quan. Có hơn 90 % GV không biết sử dụng các phần mềm để soạn và trộn đề trắc nghiệm, đa số chọn giải pháp lên mạng internet để “tải” xuống dùng lại hoặc số ít nhờ người khác làm hộ rất phụ thuộc, phiền toái và không bảo mật.

2.2.5. Thực trạng hoạt động Kiểm tra đánh giá thường xuyên

Trong Giáo dục bậc trung học thì Kiểm tra thường xuyên (gồm Kiểm tra miệng và Kiểm tra 15 phút) có vai trò quan trọng trong mỗi bài học. Thông thường thì mỗi tiết học GV thường dành khoảng 5 phút đầu giờ để Kiểm tra bài cũ của HS, giúp HS nhớ lại kiến thức cũ và giúp GV đưa ra vấn đề cần giải quyết để vào bài mới. Mặc dù, Kiểm tra thường xuyên có tầm quan trọng như thế, nhưng đôi khi nó lại không được thực hiện, hoặc có nhưng thiếu hiệu quả nhất là ở những môn học có định mức chương trình ít tiết. Nguyên nhân dẫn đến điều đó đa phần là do áp lực hoàn thành chương trình vốn đang nặng nề quá tải khiến GV sợ thiếu thời gian và sẵn sàng bỏ qua khâu này. Ngoài ra có thể là do quy định của Bộ Giáo dục&ĐT về số điểm hệ số 1 còn ít, dẫn đến GV hay bỏ qua Kiểm tra miệng mà chuyển thành bài Kiểm tra 15 phút. Xuất phát từ điều đó đã làm ảnh hưởng đến tinh thần và ý thức học tập của HS, HS dần mất đi ý thức chuẩn bị bài và ôn lại bài cũ trước khi đến lớp, khi các em cho rằng chỉ có một điểm Kiểm tra miệng nên đã Kiểm tra rồi thì chủ quan không cần học bài cũ nữa. Mặt khác, có một số GV chưa nhận thức đúng về ý nghĩa của việc Kiểm tra miệng, họ Kiểm tra miệng chỉ là để đủ số lượng, đúng tiến độ Kiểm tra, với những HS đã được Kiểm tra miệng thì GV không cần Kiểm tra lại nữa. Đôi khi, câu hỏi Kiểm tra còn đơn giản, không phát huy được trí lực của HS.

2.3. Thực trạng quản lý hoạt động Kiểm tra đánh giá học sinh trường Trung học phổ thông Nguyễn Du – Thanh Oai

2.3.1. Thực trạng việc xây dựng kế hoạch Kiểm tra đánh giá

Xây dựng kế hoạch Kiểm tra đánh giá cho các môn học là giúp cho CBQL, GV trong nhà trường có được bản kế hoạch tổng thể và chi tiết cho hoạt động Kiểm tra đánh giá toàn năm học làm cho hoạt động này được chủ động, thuận lợi và đạt hiệu quả cao. Tuy nhiên, trong những năm qua công tác này của trường Trung học phổ thông Nguyễn Du – Thanh Oai còn tồn tại một số bất cập. Luận văn: Thực trạng quản lý kiểm tra đánh giá học tập học sinh.

Thời gian xây dựng và phổ biến kế hoạch đôi khi chưa kịp thời, có khi còn chờ thông qua toàn thể CB, GV trong Hội nghị cán bộ – viên chức (thường được tổ chức vào cuối tháng 9 đến đầu tháng 10 hằng năm) rồi mới chính thức thực hiện.

Nội dung kế hoạch còn sơ sài, chủ yếu xác định thời gian, lộ trình vào điểm cho các bài Kiểm tra định kì của các môn chứ chưa xác định cụ thể hình thức, phương pháp, nội dung, dạng thức… Kế hoạch chấm trả bài cho HS còn chưa phù hợp, có khi quá gấp do thời gian thi muộn so với thời gian phải báo cáo kết quả lên sở Giáo dục và Đào tạo. Điều này dẫn đến chất lượng chấm bài của GV đôi lúc chưa đảm bảo, thiếu đi sự chính xác, dẫn đến hiện tượng HS phải kiến nghị phúc tra lại bài thi, Kiểm tra. Cũng có khi việc chấm bài của GV cho HS nếu hiệu trưởng không quản lý chặt chẽ sẽ dẫn đến tình trạng thiếu công bằng, thiếu trung thực không chính xác dẫn đến chất lượng “ảo”. Vì vậy việc quản lý chấm bài Kiểm tra của GV cần phải có sự quan tâm sâu sát với thực tế của người hiệu trưởng, trong vấn đề này để đảm bảo cho sự công bằng, chính xác trong Kiểm tra đánh giá chất lượng HS Trung học phổ thông. Hoạt động Kiểm tra đánh giá do CBQL các nhà trường lập kế hoạch và quản lý, nhưng việc thực hiện Kiểm tra lại do các nhóm chuyên môn kết hợp thực hiện. Tuy nhiên, việc xây dựng mục tiêu, tiêu chí ĐG chưa cụ thể, thống nhất giữa các môn. Đối với công tác Kiểm tra đánh giá thì tiêu chí ĐG có vai trò đặc biệt quan trọng. Đó là chuẩn để so sánh, đối chiếu, xác định đúng mức độ kết quả của đối tượng cần ĐG. Nhiều GV tự ra tiêu chí ĐG riêng cho cá nhân mình đặc biệt trong các bài Kiểm tra miệng và 15 phút. Do đó, công tác Kiểm tra đánh giá chưa ĐG đúng kết quả học tập của HS, chưa thực sự giúp GV và HS điều chỉnh được hoạt động dạy, học của mình. Trong những năm gần đây, nhà trường đã cố gắng rất nhiều trong việc khắc phục các nhược điểm của khâu Kiểm tra đánh giá học tập của HS. Các văn bản, nội quy, kế hoạch Kiểm tra đánh giá đã được thông báo đến HS và GV toàn trường. Tuy nhiên, việc thực hiện sai trong cách chấm, chữa bài, trả bài Kiểm tra cho HS vẫn diễn ra. Vì vậy, để công tác Kiểm tra đánh giá thực hiện hiệu quả các chức năng của nó, thì cần phải xây dựng được bản kế hoạch Kiểm tra đánh giá một cách khoa học.

2.3.2. Thực trạng việc thành lập bộ phận chuyên trách về Kiểm tra đánh giá

KTĐG trong nhà trường Trung học phổ thông là một hoạt động vừa mang tính thường xuyên lại vừa mang tính định kỳ kiểu “mùa vụ”. Đặc biệt là trong bối cảnh đổi mới Giáo dục hiện nay đòi hỏi phải đổi mới mạnh mẽ và sâu sắc về các mặt của Kiểm tra đánh giá: mục tiêu, phương pháp, nội dung, hình thức, phương tiện, chuẩn ĐG…

Để đáp ứng được yêu cầu đó thì trong mỗi nhà trường cần phải tổ chức ra một bộ phận chuyên trách về Kiểm tra đánh giá. Tuy nhiên từ trước đến nay, nhà trường chưa thành lập được bộ phận chuyên trách về công tác Kiểm tra đánh giá học tập của HS, mọi vấn đề chỉ đạo đều do một Phó hiệu trưởng phụ trách công tác dạy học chỉ đạo thông qua các tổ trưởng chuyên môn để GV và HS thực hiện. Từ thực trạng này dẫn đến nhiều khó khăn, hạn chế từ khâu xác định mục tiêu, tiêu chí giữa các tổ nhóm chuyên môn chưa được thống nhất, đến khâu tìm ra phương pháp, công cụ ĐG sao cho phù hợp. Đề thi Kiểm tra chưa được kiểm định và phản biện kỹ về tính khoa học nên chất lượng chưa thật cao, GV lúng túng khi phải soạn những đề Trắc nghiệm khách quan. Hoạt động Kiểm tra đánh giá đôi lúc thiếu đi việc thanh tra, Kiểm tra sát sao nên có những GV còn chưa thực hiện nghiêm túc quy trình của nhà trường đề ra. Mặt khác, đội ngũ CBQL của nhà trường và các tổ chuyên môn chưa có chuyên môn sâu về Quản lý giáo dục và quản lý Kiểm tra đánh giá. Luận văn: Thực trạng quản lý kiểm tra đánh giá học tập học sinh.

Việc thiếu bộ phận chuyên trách về Kiểm tra đánh giá cũng dẫn đến những khó khăn trong việc ứng dụng Công nghệ thông tin để lập ngân hàng câu hỏi, soạn đề Trắc nghiệm khách quan, chấm bài Trắc nghiệm khách quan, lưu trữ, thống kê và phân tích kết quả.

2.3.3. Thực trạng việc quản lý quy trình tổ chức hoạt động Kiểm tra đánh giá

Để đảm bảo chất lượng của Kiểm tra đánh giá học tập của HS thì quy trình Kiểm tra đánh giá phải đáp ứng được các nguyên tắc về tính quy chuẩn, tính khách quan, tính toàn diện, tính hệ thống, tính xác nhận và phát triển. Ngoài ra phải đảm bảo các yêu cầu của Kiểm tra đánh giá như: có mục tiêu, kế hoạch Kiểm tra đánh giá cụ thể, có quy trình Kiểm tra đánh giá phù hợp, tổ chức chỉ đạo thực hiện Kiểm tra đánh giá. Sau khi học tập và nghiên cứu, tác giả nhận thấy trong quy trình Kiểm tra đánh giá của nhà trường còn tồn tại một số bất cập. Cụ thể như sau:

Với bước xác định mục đích ĐG, nhà trường chưa xác định rõ được mục đích của Kiểm tra đánh giá là: Cho ai? Để làm gì? Chưa động viên khuyến khích được người học, chưa tạo được động lực thực sự để HS không ngừng tiến bộ.

Khâu xác định nội dung cần ĐG và bậc nhận thức tương ứng với từng nội dung đó chưa hợp lý với một số bộ môn, tỉ lệ các bậc nhận thức chưa phù hợp, chưa đáp ứng được mục đích ĐG.

Việc viết ma trận đề Kiểm tra, một số GV chưa nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của việc này nên còn làm một cách qua loa, đại khái, với mỗi đơn vị nội dung chưa xác định rõ được câu hỏi phù hợp với từng bậc nhận thức. Sau khi ra đề Kiểm tra hoặc thi học kỳ thì thường là ban giám hiệu cho sao in và tiến hành Kiểm tra, thiếu đi khâu phân tích, phản biện đề, người phụ trách chưa làm lại bài với tư cách là HS. Dẫn đến chưa phát hiện kịp thời những sai sót có thể xảy ra về độ khó và độ dài của đề Kiểm tra.

Sau mỗi bài Kiểm tra, ban giám hiệu đã giao bài Kiểm tra cho GV nhập điểm vào máy tính trước khi trả về cho GV vào điểm, trả bài và nhận xét. Khâu trả bài và nhận xét là khâu quan trọng của quy trình Kiểm tra đánh giá học tập của HS, nhưng nhiều GV lại xem nhẹ khâu này, có khi họ không chữa bài, hoặc có chữa thì lại không có những lời nhận xét chân tình, gợi ý, giúp đỡ để HS không bị phạm sai lầm, cố gắng có được kết quả cao hơn trong những bài Kiểm tra sau đó.

2.3.4. Thực trạng việc thanh tra, kiểm tra hoạt động Kiểm tra đánh giá Luận văn: Thực trạng quản lý kiểm tra đánh giá học tập học sinh.

Thanh tra, Kiểm tra là chức năng cuối cùng nhưng rất quan trọng của hoạt động quản lý. Thiếu khâu này thì mọi hoạt động quản lý đều không có hiệu quả, nhờ khâu này mà nhà quản lý nhìn nhận lại các công việc mà mình đã làm có đạt được mục đích đề ra hay không, có theo đúng kế hoạch hay không. Trong những năm qua, công tác Kiểm tra đánh giá của nhà trường còn chưa đạt hiệu quả, chưa xác định rõ mục đích của việc thanh tra, Kiểm tra hoạt động Kiểm tra đánh giá học tập của HS để làm gì và cho ai? Chính vì lý do đó, mà cán bộ quản lí của các trường chưa nhìn nhận ra những thiếu sót của công tác Kiểm tra đánh giá học tập của HS, chưa điều chỉnh được hoạt động này sao cho hiệu quả hơn. Công tác ra đề ở một số môn đôi lúc còn thiếu đi tính hiệu quả, do không được phân tích, thanh tra, Kiểm tra để kịp điều chỉnh cho hợp lý trước khi tiến hành cho thi, Kiểm tra. Việc thực hiện kế hoạch của GV đôi khi còn tuỳ tiện, thiếu nghiêm túc. Việc Kiểm tra thường xuyên, đặc biệt bài 15 phút đôi lúc ở một số GV còn thiếu hợp lý. Trong các kỳ thi, Kiểm tra vẫn còn hiện tượng GV thiếu tinh thần trách nhiệm coi thi, chấm thi chưa nghiêm túc nhưng ban giám hiệu không kịp thời phát hiện và chấn chỉnh do họ không bị giám sát hay Kiểm tra của ai, ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả chung của trường.

2.3.5. Thực trạng việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động Kiểm tra đánh giá

Vấn đề ứng dụng Công nghệ thông tin vào dạy học, Quản lý giáo dục và Kiểm tra đánh giá đã được nhắc đến từ lâu, Sở Giáo dục&ĐT Hà Nội cũng đã trang bị cho các trường một số trang thiết bị hỗ trợ việc đổi mới Kiểm tra đánh giá như máy tính, máy in siêu tốc, máy scaner, phần mềm hỗ trợ xây dựng đề Trắc nghiệm khách quan (testpro), phần mềm hỗ trợ chấm bài trắc nghiệm (Testsheet Reader). Tuy nhiên do lãnh đạo nhà trường chưa thật sự quan tâm, đồng thời sự non yếu về về trình độ Công nghệ thông tin của GV và nhân viên nên quá trình khai thác, ứng dụng gặp nhiều khó khăn, thậm chí các công cụ ứng dụng bị “đắp chiếu” vì không biết khai thác. Việc thiết kế và sử dụng các bài để thi, Kiểm tra trực tiếp trên máy tính chưa được thực hiện bao giờ, hạ tầng mạng internet và hệ thống máy tính của trường hiện tại cũng chưa hoàn chỉnh và đồng bộ.

2.4. Đánh giá chung, nguyên nhân Luận văn: Thực trạng quản lý kiểm tra đánh giá học tập học sinh.

2.4.1. Đánh giá chung 

Điểm mạnh về quản lý hoạt động Kiểm tra đánh giá học tập của HS

  • Đại đa số CBQL các tổ chuyên môn, GV và HS nhận thức được vai trò của công tác Kiểm tra đánh giá đối với quá trình dạy và học.
  • Công tác Kiểm tra đánh giá có sự chỉ đạo tương đối thống nhất từ ban giám hiệu đến các tổ, nhóm chuyên môn và GV trong trường.
  • Có ngân hàng câu hỏi Kiểm tra của một số bộ môn, hàng năm có bổ sung và chỉnh sửa cho phù hợp với yêu cầu của bộ môn và của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
  • Đã có sự ứng dụng Công nghệ thông tin vào công tác quản lý hoạt động Kiểm tra đánh giá.

Hạn chế về quản lý hoạt động Kiểm tra đánh giá học tập của HS

Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, còn một số hạn chế trong công tác quản lý hoạt động Kiểm tra đánh giá học tập của HS cần khắc phục đó là:

  • Việc ra đề Kiểm tra vẫn còn có sự sai sót, đề và hướng dẫn chấm chưa đồng nhất dẫn đến việc chấm không thống nhất với nhau.
  • Kế hoạch Kiểm tra đánh giá học tập của HS trong trường còn thiếu và chưa khoa học, việc thực hiện kế hoạch chưa nghiêm túc.
  • Hoạt động Kiểm tra đánh giá học tập của HS trong trường còn chưa tuân thủ chặt chẽ nguyên tắc và yêu cầu của Kiểm tra đánh giá, như:
  • KTĐG chưa xác định rõ mục đích ĐG, chưa có mục tiêu và tiêu chí thống nhất.
  • Hình thức và phương pháp Kiểm tra đánh giá chưa phù hợp, thiếu hiệu quả.
  • Còn tồn tại một số hiện tượng tiêu cực trong Kiểm tra đánh giá.
  • Quản lý hoạt động Kiểm tra đánh giá học tập của HS trong trường thiếu tính khoa học: + Thiếu bộ phận chuyên trách về hoạt động Kiểm tra đánh giá.
  • Chưa tuân thủ nghiêm túc quy trình Kiểm tra đánh giá.
  • Một số CBQL các tổ chuyên môn chưa có chuyên môn về Quản lý giáo dục. – GV chưa Kiểm tra đánh giá học tập của HS hiệu quả:
  • GV chưa hiểu sâu sắc về các phương pháp Kiểm tra đánh giá, chưa nắm được kỹ thuật soạn câu hỏi Kiểm tra.
  • Chưa biết kết hợp các hình thức Kiểm tra đánh giá học tập của
  • Chưa biết cách sử dụng Kiểm tra đánh giá để tạo động lực, khuyến khích động viên
  • HS chưa hiểu được mục đích, vai trò của Kiểm tra đánh giá kết quả học tập:
  • Nhiều HS chưa hiểu rõ vai trò của Kiểm tra đánh giá và lợi ích của hoạt động này mang lại là gì.
  • Một số HS chưa nghiêm túc khi Kiểm tra đánh giá.
  • HS chưa biết dựa vào kết quả Kiểm tra đánh giá để điều chỉnh quá trình học tập của mình.

Tóm lại, với những vấn đề trên đã và đang tồn tại song hành, vấn đề này đặt ra bài toán cho các nhà Quản lý giáo dục là làm thế nào để Kiểm tra đánh giá đi vào nề nếp, quy củ, tác động tích cực đến quá trình dạy học, đáp ứng được đòi hỏi của Xã hội trong giai đoạn hiện nay. Luận văn: Thực trạng quản lý kiểm tra đánh giá học tập học sinh.

2.4.2. Nguyên nhân

Các nguyên nhân chính tác động đến công tác Kiểm tra đánh giá học tập của HS chủ yếu là:

  • CBQL một số tổ chuyên môn chưa nhận thức đầy đủ về ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác Kiểm tra đánh giá học tập của HS.
  • Một số GV chưa nắm chắc quy chế, chưa nêu cao trách nhiệm, còn giản đơn trong việc thực hiện quy trình, quy định.
  • Một số CBQL, GV và HS chưa có ý thức thực hiện nghiêm túc quy chế.

Khi coi thi vẫn còn hiện tượng GV coi thi lơi lỏng thiếu sự theo dõi, Kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ các hành vi sai phạm của HS, không nhắc nhở kịp thời hoặc không kiên quyết xử lý đối với HS vi phạm quy chế.

  • Chất lượng đề Kiểm tra và công tác bảo mật chưa tốt.
  • Quy trình tổ chức Kiểm tra chưa hợp lý.
  • Sự phối kết hợp các hình thức, phương pháp Kiểm tra đánh giá, việc ra đề thi, Kiểm tra chưa phù hợp còn nhiều hạn chế bất cập. Đề thi còn nặng về yêu cầu HS tái hiện kiến thức chưa mang tính tổng hợp cao, chưa buộc HS phải có sự suy luận, sáng tạo trong cách giải quyết vấn đề, chưa mang tính phân loại HS.
  • Sự phối hợp giữa các bộ phận trong nhà trường chưa đồng bộ và thiếu khoa học.
  • Thiếu sự đôn đốc nhắc nhở của các cấp quản lý.
  • Thiếu điều kiện về cơ sở vật chất phục vụ Kiểm tra; Cơ chế, chính sách đãi ngộ đối với hoạt động Kiểm tra đánh giá chưa phù hợp.
  • Công tác thanh tra, Kiểm tra hoạt động Kiểm tra đánh giá còn chưa được chú trọng, thiếu sự nhắc nhở, điều chỉnh kịp thời của các cấp lãnh đạo trong trường.
  • Kỹ năng quản lý Kiểm tra đánh giá còn nhiều hạn chế. Một số GV do năng lực còn hạn chế, trình độ nắm bắt nội dung kiến thức các bộ môn chưa toàn diện dẫn đến việc chấm điểm, ĐG kết quả học tập của HS chưa thật chuẩn xác. Do đó trong quá trình chấm thi, Kiểm tra còn chủ quan, thiếu sự chuẩn bị về đáp án, biểu điểm.
  • Tâm lý khoa cử, trọng bằng cấp của Xã hội dẫn đến việc cho điểm ĐG kết quả còn nương nhẹ, đôi khi còn nặng về tình cảm hoặc về hoàn cảnh gia đình của HS dẫn đến “nâng điểm” cho HS.

Bảng 2.6: Khảo sát nguyên nhân và mức độ ảnh hưởng tác động tới hoạt động Kiểm tra đánh giá học tập của HS

Có thể nói, các nguyên nhân được rút ra trên đây chỉ là những nguyên nhân cơ bản, các nguyên nhân đó có mối quan hệ chặt chẽ với nhau dẫn đến việc ĐG thiếu khách quan, công bằng và chính xác kết quả học tập của HS. Từ các nguyên nhân đó đã làm sáng tỏ thực trạng chất lượng kết quả học tập của HS. Việc quản lý và tổ chức thực hiện hoạt động Kiểm tra đánh giá học tập của HS đã có kết quả song giữa lực học của HS và kết quả điểm số chưa chuẩn xác như mong muốn. Chất lượng các bài Kiểm tra: miệng, 15 phút, 45 phút và Kiểm tra học kỳ chưa cao, chất lượng chuyên môn của nhà trường tăng lên không đáng kể, hoạt động sư phạm chưa được đẩy mạnh. Tất cả những hạn chế đó đã ảnh hưởng đến chất lượng Giáo dục của nhà trường, do vậy cần đẩy mạnh hơn nữa việc đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động Kiểm tra đánh giá học tập của HS bằng cách đưa ra các biện pháp đồng bộ nhằm nâng cao chất lượng Giáo dục của nhà trường trong những năm tới.

Tiểu kết chương 2 Luận văn: Thực trạng quản lý kiểm tra đánh giá học tập học sinh.

Hoạt động Kiểm tra đánh giá học tập của HS ở trường Trung học phổ thông Nguyễn Du – Thanh Oai trong những năm vừa qua đã được Sở Giáo dục&ĐT cùng BGH quan tâm và đạt được những kết quả đáng kể. Tuy nhiên trong quá trình quản lý, chỉ đạo và thực hiện vẫn còn một số hạn chế ở một số khâu trong quy trình Kiểm tra đánh giá; quá trình quản lý tổ chức hoạt động Kiểm tra đánh giá học tập của HS và quản lý công tác chấm, trả bài bài Kiểm tra. Có rất nhiều nguyên nhân, tuy nhiên những nguyên nhân xuất phát từ yếu tố đội ngũ nhà giáo là chủ đạo, tiếp đến là những giới hạn bởi kỹ thuật Kiểm tra đánh giá và cách thức quản lý hoạt động này. Từ kết quả nghiên cứu trên đây, để nâng cao hơn nữa chất lượng Giáo dục nói chung, chất lượng hoạt động Kiểm tra đánh giá nói riêng luận văn xin đề xuất một số biện pháp đổi mới công tác quản lý đối với trường Trung học phổ thông Nguyễn Du – Thanh Oai trong giai đoạn tới. Luận văn: Thực trạng quản lý kiểm tra đánh giá học tập học sinh.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ: 

===>>> Luận văn: Biện pháp quản lý kiểm tra đánh giá học tập học sinh

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Contact Me on Zalo
0906865464