Luận văn: Thực trạng phát triển nguồn nhân lực du lịch Lâm Đồng

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Thực trạng phát triển nguồn nhân lực du lịch Lâm Đồng hay nhất năm 2024 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thạc sĩ thì với đề tài Luận văn: Thực trạng phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực đào tạo, dạy nghề du lịch trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.

2.1. Tổng quan về tỉnh Lâm Đồng và du lịch Lâm Đồng

2.1.1. Điều kiện tự nhiên 

Vị trí địa lý: Lâm Đồng là tỉnh miền núi phía Nam Tây Nguyên có độ cao trung bình từ 800 – 1.000 m so với mặt nước biển với diện tích tự nhiên 9.772,19 km2; Phía Đông giáp các tỉnh Khánh Hoà và Ninh Thuận; Phía Tây Nam giáp tỉnh Đồng Nai; Phía Nam – Đông nam giáp tỉnh Bình Thuận; Phía Bắc giáp tỉnh Đắc Lắc. Lâm Đồng nằm giữa ba vùng lãnh thổ có nhiều tiềm năng phát triển kinh tế, du lịch là: Tây Nguyên – Duyên hải Nam Trung Bộ – Đông Nam Bộ

Khí hậu: Lâm Đồng nằm trong khu vực chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa biến thiên theo độ cao, trong năm có 2 mùa rõ rệt; mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 năm trước đến tháng 4 năm sau. Nhiệt độ trung bình năm của tỉnh dao động từ 18 – 25 0c, thời tiết ôn hòa và mát mẻ quanh năm, thường ít có những biến động lớn trong chu kỳ năm. Lượng mưa trung bình 1.750 – 3.150 mm/năm, độ ẩm tương đối trung bình cả năm 85 – 87%, số giờ nắng trung bình cả năm 1.890 – 2.500 giờ, thuận lợi cho phát triển du lịch nghỉ dưỡng.

Thủy văn: Lâm Đồng là tỉnh nằm trong hệ thống sông Đồng Nai, có nguồn nước rất phong phú, mạng lưới suối khá dày đặc, tiềm năng thuỷ điện rất lớn, với 73 hồ chứa nước, 92 đập dâng. Sông suối phân bố khá đồng đều, mật độ trung bình 0,6km/km2. Phần lớn sông suối chảy từ hướng Đông Bắc xuống Tây Nam. Do đặc điểm địa hình đồi núi và chia cắt mà hầu hết các sông suối ở đây đều có lưu vực khá nhỏ và có nhiều ghềnh thác ở thượng nguồn. Ba sông chính ở Lâm Đồng là: Sông Đa Dâng (Đạ Đờng), Sông La Ngà, Sông Đa Nhim. Luận văn: Thực trạng phát triển nguồn nhân lực du lịch Lâm Đồng.

Địa hình: Địa hình cao nguyên tương đối phức tạp, chủ yếu là bình sơn nguyên, núi cao đồng thời cũng có những thung lũng nhỏ bằng phẳng đã tạo nên những yếu tố tự nhiên khác nhau về khí hậu, thổ nhưỡng, thực động vật… và những cảnh quan kỳ thú cho Lâm Đồng. Đặc điểm nổi bật của địa hình tỉnh Lâm Đồng là sự phân bậc khá rõ ràng từ bắc xuống nam: Phía bắc tỉnh là vùng núi cao, vùng cao nguyên LangBian với những đỉnh cao từ 1.300 m đến hơn 2.000 m như Bi Đúp (2.287 m), LangBian (2.167 m). Phía đông và tây có dạng địa hình núi thấp (độ cao 500 – 1.000 m). Phía nam là vùng chuyển tiếp giữa cao nguyên Di Linh – Bảo Lộc và bán bình nguyên.

  • Hệ động thực vật:

Động vật: Lâm Đồng là nơi cư trú của nhiều loài thú quý hiếm như: tê giác một sừng, nai, hổ, bò tót… Các bộ thú quan trọng như bộ Linh trưởng, bộ móng guốc ngón chẵn, bộ cánh da, bộ ăn sâu bọ cũng đều xuất hiện phổ biến tại Lâm Đồng.

Thực vật: Tổng diện tích rừng của Lâm Đồng là 607.280 ha, trong đó rừng tự nhiên là 557.857 ha, rừng trồng là 49.423 ha. Nơi đây tập trung khá nhiều loài thực vật quý hiếm như: thông hai lá dẹt, thông năm lá, pơmu, thông đỏ, họ Dầu, họ Mộc Lan, họ Na…Ngoài ra, Lâm Đồng còn là nơi tập trung của các loài cây họ Phong Lan quý hiếm như: Hoàng Thảo, Hài, Lan Gấm…

Dân tộc, dân cư: Tỉnh Lâm Đồng có 12 huyện, thành phố, đó là các huyện: Đạ Hoai, Đạ Tẻh, Đam Rông, Lạc Dương, Đơn Dương, Lâm Hà, Bảo Lâm, Di Linh, Cát Tiên, Đức Trọng, thành phố Bảo Lộc và thành phố Đà Lạt, với 145 đơn vị hành chính cấp xã (18 phường, 109 xã, 11 thị trấn), trong đó có 35 xã thuộc vùng kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn. Hiện nay Lâm Đồng có khoảng 1.145.687 người (bằng 10,12 dân số cả nước) với 205.000 hộ, mật độ dân số 117người/km2. Lâm Đồng là một tỉnh đa dân tộc gồm 40 dân tộc với 270.186 người dân tộc thiểu số, trong đó có các dân tộc chủ yếu: người Kinh là dân tộc chiếm đa số khoảng 77% và các dân tộc bản địa K’Ho, Mạ, M’Nông, Chu Ru, Rắc Lây, X’Tiêng. Ngoài ra có các dân tộc Miền Bắc di cư lập nghiệp: Tày, Nùng, Thái, Mường, Thổ và người Hoa.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ: 

===>>> Bảng Giá Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Du Lịch

2.1.2. Tình hình kinh tế – xã hội

Trong 5 năm qua, kinh tế – xã hội của tỉnh Lâm Đồng luôn ổn định và phát triển, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm đạt 14%, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt hơn 32.300 tỷ đồng, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 1,2 tỷ USD.

Kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội được chú trọng đầu tư, an sinh xã hội được đảm bảo. Hiện thu nhập bình quân đầu người đã đạt gần 20 triệu đồng/năm, tỷ lệ hộ nghèo còn dưới 5%. Các lĩnh vực về y tế, giáo dục, ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất đã có bước phát triển khá. An ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội luôn được giữ vững.

Điều kiện kinh tế-xã hội của tỉnh cơ bản đã đáp ứng được việc phát triển giáo dục của tỉnh. Tuy nhiên Lâm Đồng vẫn còn là tỉnh nghèo, còn nhận sự hỗ trợ từ ngân sách Trung ương, vì vậy việc đầu tư cho giáo dục, dạy nghề cũng có phần hạn chế, nhất là ở các vùng dân tộc. Luận văn: Thực trạng phát triển nguồn nhân lực du lịch Lâm Đồng.

2.1.3. Tài nguyên du lịch nhân văn của Lâm Đồng

Di sản văn hóa: Ngày 25/11/2005, Không gian văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên của Việt Nam đã được UNESCO chính thức công nhận là kiệt tác văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại. Sau Nhã nhạc Cung đình Huế, Cồng chiêng Tây Nguyên là di sản văn hóa phi vật thể thứ hai của Việt Nam được tôn vinh là di sản của thế giới. Hiện nay tại các bản dân tộc Mạ, Chu Ru ở Lâm Đồng còn khoảng 2.700 bộ cồng chiêng với những nét riêng so với cồng chiêng Tây Nguyên được coi là tài nguyên du lịch quý giá của Lâm Đồng.

Di tích lịch sử, văn hóa và khảo cổ: Lâm Đồng có nhiều khu di tích lịch sử, văn hóa và khảo cổ của Tây Nguyên như: Khu Thánh địa Bà La Môn Cát Tiên, Khu mộ cổ của dân tộc Mạ.

Công trình tôn giáo, kiến trúc nghệ thuật: nét độc đáo của Lâm Đồng nói chung và Đà Lạt nói riêng là hệ thống kiến trúc cảnh quan như nhà thờ, chùa chiền, khu biệt thự cổ, thiền viện, dinh thự…Ngày nay Đà Lạt có hơn 2500 biệt thự, đặc biệt là không biệt thự nào giống biệt thự nào. Mỗi biệt thự đều mang trong mình một dáng vẻ riêng, một kiến trúc riêng.

Lễ hội văn hóa dân gian: Lâm Đồng là tỉnh có thành phần dân cư dân tộc khá đa dạng với trên 40 dân tộc. Tính đa dạng về sắc tộc và thành phần dân cư đã mang lại cho tỉnh Lâm Đồng vốn tài sản lễ hội truyền thống rất phong phú, trước hết phải kể đến lễ hội truyền thống các dân tộc bản địa Lâm Đồng: Lễ hội hoa, lễ hội trà, lễ hội Mơnhumhama của người Churu, lễ hội đâm trâu của người Bana, lể cúng cơm mới,…

Nghề thủ công truyền thống: Lâm Đồng cũng có nhiều nghề thủ công truyền thống có giá trị phục vụ du lịch như: nghề dệt vải thổ cẩm từ sợi bông của người Mạ ở Đạ Đờn – Đơn Dương, người Lạch ở Lạc Dương; nghề đan len ở Đà Lạt; nghề làm gốm bằng tay ở một số làng người dân tộc Churu ở Đơn Dương; nghề chạm khắc gỗ; nghề thêu XQ; nghề trồng hoa…Tất cả đều tạo nên những sản phẩm lưu niệm độc đáo giúp thu hút khách du lịch đến Lâm Đồng.

Tài nguyên nhân văn khác: Lâm Đồng còn có nhiều ngôi chùa, đình, di tích lịch sử cách mạng, bản mang đậm nét văn hóa của các dân tộc…có giá trị phục vụ du lịch.

2.1.4. Tình hình phát triển du lịch Tỉnh Lâm Đồng Luận văn: Thực trạng phát triển nguồn nhân lực du lịch Lâm Đồng.

Trong những năm qua, du lịch Lâm Đồng đã có nhiều chuyển biến tích cực, tăng cả về số lượng và chất lượng.

Về hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch: Hệ thống giao thông đường bộ của tỉnh có mối liên hệ thuận tiện với các tỉnh trong khu vực; Mạng lưới giao thông phát triển khá tốt, tỉnh đã đầu tư xây dựng mới và nâng cấp trên 826 km đường quốc lộ, tỉnh lộ (trong đó có 19,2 km đường cao tốc).

Giao thông đường hàng không cũng là một thế mạnh của tỉnh. Các hệ thống cấp nước, cấp điện, thông tin liên lạc… cũng đang được đầu tư, nâng cấp xây dựng mới nhiều

Về khách du lịch: Giai đoạn 2009 – 2013, lượng khách du lịch đến Lâm Đồng tăng đáng kể, từ 2.500.000 lượt năm 2009 (130.000 lượt khách quốc tế), đến năm 2013 ước đạt 4.200.000 lượt (3.971.500 lượt khách quốc tế), tốc độ tăng trưởng bình quân 11%/năm. Thời gian lưu trú bình quân tăng từ 2,4 ngày năm 2009 lên 2,45 ngày năm 2013.

Về thu nhập xã hội từ du lịch: Thu nhập từ ngành Du lịch của tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2009 – 2013 đã có sự tăng trưởng đáng kể; Năm 2009 doanh thu xã hội từ du lịch đạt 3.400 tỷ đồng, đến năm 2013 đạt 7.555 tỷ đồng. Doanh thu thuần từ hoạt động du lịch (lưu trú, ăn uống trong cơ sở lưu trú, vé tham quan khu điểm du lịch) chiếm tỉ lệ khoảng 40% doanh thu xã hội từ hoạt động du lịch. Chi tiêu bình quân đạt trên 1.700.000đ/ khách.

  • Về cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch

Cơ sở lưu trú: Tính đến nay, trên địa bàn toàn tỉnh có 812 cơ sở lưu trú du lịch, với tổng số 12.823 phòng. Trong đó, có 254 khách sạn cao cấp từ 1-5 sao với 6.914 phòng (bao gồm 24 khách sạn cao cấp từ 3-5 sao với 1.962 phòng). Riêng thành phố Đà Lạt có 637 cơ sở lưu trú du lịch, với tổng số 10.717 phòng (chiếm 80% số cơ sở và 85% số phòng toàn tỉnh).

Lữ hành vận chuyển: Toàn tỉnh hiện có 35 doanh nghiệp kinh doanh lữ hành – vận chuyển du lịch (tăng 05 doanh nghiệp so với năm 2012, đều là DN lữ hành nội địa), trong đó có 06 đơn vị kinh doanh lữ hành quốc tế, 29 đơn vị kinh doanh lữ hành nội địa và vận chuyển du lịch. Luận văn: Thực trạng phát triển nguồn nhân lực du lịch Lâm Đồng.

Khu, điểm du lịch: Giai đoạn 2009 – 2013 có nhiều khu, điểm du lịch được đầu tư nâng cấp, toàn tỉnh hiện có 32 khu, điểm du lịch hoạt động kinh doanh phục vụ khách và hơn 60 điểm tham quan miễn phí khác (các danh thắng tự nhiên, các công trình kiến trúc cổ, cơ sở tôn giáo, làng nghề…). Một số khu, điểm trong những năm gần đây đã quan tâm đầu tư, nâng cấp mở rộng dự án, phát triển sản phẩm theo chiều sâu, tạo sức hấp dẫn thu hút khách.

Về nguồn nhân lực ngành Du lịch: Lao động ngành Du lịch của tỉnh Lâm Đồng thời gian qua tăng nhanh về số lượng và từng bước được chuẩn hóa về chuyên môn nghiệp vụ. Đến nay đã thu hút được 9.000 lao động trực tiếp hoạt động tại các doanh nghiệp kinh doanh du lịch, trong đó có khoảng 65% lao động đã qua đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ từ bậc sơ cấp trở lên.

Về đầu tư phát triển du lịch: Từ năm 2009 đến nay, toàn tỉnh đã thu hút được 230 dự án đầu tư trên lĩnh vực du lịch với tổng vốn đăng ký đầu tư khoảng 70.586,306 tỷ đồng, trong đó có 85 dự án được chủ trương đầu tư đang tiến hành lập báo cáo đầu tư và 145 dự án đã được thoả thuận đầu tư, cấp giấy chứng nhận đầu tư. Đa số các dự án tập trung đầu tư vào loại hình du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng và hội nghị – hội thảo.

Trung ương và tỉnh đã quan tâm đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông, đặc biệt là các dự án quốc lộ 20, đường tỉnh lộ 723, 721, 725, đường cao tốc Liên Khương – Prenn, đường đô thị và vành đai, nâng cấp nhà ga sân bay Liên Khương; mở  thêm các đường bay Đà Lạt- Hà Nội, Đà Lạt- Đà Nẵng… đã góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh, trong đó có ngành du lịch.

Về xúc tiến, quảng bá du lịch: Công tác xúc tiến quảng bá được chú trọng đổi mới dưới nhiều hình thức đa dạng, phù hợp với thị trường và nhu cầu của doanh nghiệp du lịch: phát hành ấn phẩm, đĩa VCD về du lịch, thương mại và đầu tư trên địa bàn tỉnh, quảng bá du lịch trên các phương tiện thông tin đại chúng: báo, đài PTTT Lâm Đồng và các địa phương, VTV, HTV, tổ chức và tham gia nhiều hội chợ du lịch, phối hợp Vietnam Airline xây dựng kế hoạch quảng bá du lịch Lâm Đồng trên các chuyến bay quốc tế và tạp chí Heritage, tổ chức các đoàn khảo sát, hội nghị lữ hành, xúc tiến quảng bá điểm đến,… Triển khai nhiều chương trình liên kết phát triển du lịch với các tỉnh Bình Thuận, Tp.Hồ Chí Minh, Khánh Hòa, Đà Nẵng, Cần Thơ, Kiên Giang…

Về quản lý nhà nước về du lịch: Công tác quản lý nhà nước trên lĩnh vực du lịch được đẩy mạnh. Thường xuyên chỉ đạo, đôn đốc các doanh nghiệp du lịch trên địa bàn triển khai đầu tư nâng cấp, bổ sung sản phẩm, dịch vụ, nâng cao chất lượng phục vụ, đội ngũ nhân lực, quan tâm đến vệ sinh môi trường, phòng chống cháy nổ, đảm bảo thực hiện tốt công tác vệ sinh an toàn thực phẩm; xây dựng các chương trình khuyến mãi, đảm bảo môi trường kinh doanh lành mạnh. Tăng cường kiểm tra, kiểm soát và hướng dẫn hoạt động của các doanh nghiệp du lịch. Phối hợp với các cơ quan, trường đào tạo du lịch tổ chức các khóa tập huấn, đào tạo, bồi dưỡng về nghiệp vụ du lịch cho các đơn vị kinh doanh dịch vụ du lịch trên địa bàn; tổ chức lớp cập nhật, bồi dưỡng kiến thức về du lịch cho đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước cấp huyện, xã và đội ngũ lao động trong ngành.

2.1.5. Tình hình giáo dục – đào tạo tỉnh Lâm Đồng Luận văn: Thực trạng phát triển nguồn nhân lực du lịch Lâm Đồng.

Trong những năm gần đây, ngành GD&ĐT của tỉnh đã có những chuyển biến đáng kể. Mạng lưới cơ sở đào tạo được duy trì và phát triển với hình thức đa dạng, rộng khắp trên toàn tỉnh. Quy mô giáo dục không ngừng tăng lên phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội của địa phương. Đội ngũ giáo viên tiếp tục được tăng cường theo hướng chuẩn hóa. Cơ sở vật chất kỹ thuật tuy còn nhiều khó khăn nhưng cũng đã được củng cố và nâng cấp. Hiện nay, Lâm Đồng đã có một hệ thống giáo dục tương đối hoàn chỉnh, thống nhất và đa dạng, được hình thành các cấp học và trình độ từ mầm non đến đại học.

Mạng lưới các trường trung cấp, trường cao đẳng đang từng bước được tổ chức, sắp xếp và nâng cấp, quy mô và cơ sở vật chất được tăng cường. Các trường đã thực hiện điều chỉnh chương trình cho phù hợp với chương trình khung của Bộ GDĐT, Bộ LĐTBXH theo hướng tăng cường giờ thực hành, giảm giờ lý thuyết. Đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy sát với thực tiễn tình hình kinh tế – xã hội của địa phương. Hệ thống giáo dục đang từng bước được xã hội hóa đa dạng về loại hình, phương thức và huy động nguồn lực cho phát triển giáo dục. Nền giáo dục ở Lâm Đồng cơ bản đáp ứng được mục tiêu nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân lực và đào tạo nhân tài góp phần đắc lực để phát triển kinh tế – xã hội và thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá tỉnh Lâm Đồng.

2.2. Khái quát về các cơ sở đào tạo, dạy nghề du lịch tại Lâm Đồng

Về số lượng: Hiện nay, toàn tỉnh Lâm Đồng có 06 cơ sở đào tạo, dạy nghề du lịch từ bậc công nhân lành nghề đến đại học, hàng năm cung cấp hơn 500 cử nhân và khoảng 1.500 lao động trung – sơ cấp. Trong đó, có 02 trường thuộc Bộ GDĐT là: Đại học Đà Lạt và Đại học Yersin; 01 trường thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Bộ LĐTBXH là Cao đẳng nghề Du lịch Đà Lạt; 02 trường thuộc Sở GDĐT là Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt và Cao đẳng Kinh tế – Kỹ thuật Lâm Đồng; 01 trường thuộc UBND tỉnh là Cao đẳng nghề Đà Lạt. Các cơ sở trên hầu như đều có Khoa du lịch để đào tạo, dạy các nghề về du lịch; Riêng Trường Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt chỉ dạy một môn học liên quan về du lịch là môn Văn hóa du lịch thuộc Khoa Xã hội của Nhà trường. Riêng Trường Cao đẳng nghề Du lịch Đà Lạt là cơ sở đào tạo các nghề du lịch cho tỉnh Lâm Đồng nói riêng và cho khu vực Tây Nguyên nói chung.

  • Các ngành nghề đào tạo: Luận văn: Thực trạng phát triển nguồn nhân lực du lịch Lâm Đồng.

 Trình độ Đại học gồm các nghề: Quản trị Khách sạn-Nhà hàng, Quản trị Lữ hành

Trình độ Cao đẳng gồm các nghề: Cao đẳng nghề Đà Lạt: Quản trị Khách sạn, Quản trị Nhà hàng; Cao đẳng nghề du lịch Đà Lạt: Quản trị Khách sạn, Hướng dẫn lữ hành, Kỹ thuật chế biến món ăn, Quản trị Nhà hàng; Quản trị lữ hành

Trình độ Trung cấp gồm các nghề: Cao đẳng nghề Đà Lạt: Nghiệp vụ Nhà hàng, nghiệp vụ Lễ tân; Cao đẳng Kinh tế-Kỹ thuật Lâm Đồng: Nhà hàng- khách sạn, Hướng dẫn Lữ hành, Ẩm thực; Cao đẳng nghề du lịch Đà Lạt: Nghiệp vụ Nhà hàng, nghiệp vụ Lễ tân, Kỹ thuật chế biến món ăn.

Trình độ Sơ cấp gồm các nghề: Cao đẳng nghề du lịch Đà Lạt: Quản lý Khách sạn-Nhà hàng vừa và nhỏ, Nghiệp vụ Hướng dẫn viên du lịch, Nghiệp vụ Nhà hàng, nghiệp vụ Lễ tân, nghiệp vụ Buồng, nghiệp vụ An ninh khách sạn, Kỹ thuật chế biến món ăn, Kỹ thuật Pha chế đồ uống, Quản trị tiền sảnh, Anh văn chuyên ngành cho các nghiệp vụ.

Về cơ sở vật chất kỹ thuật: Việc đầu tư cơ sở vật chất trường, lớp, nơi thực hành và trang thiết bị giảng dạy, tuy còn khó khăn về kinh phí, nhưng đã có tiến bộ. Các cơ sở đào tạo, dạy nghề du lịch đã được hoặc đang xây dựng mới, nâng cấp; cơ sở vật chất – kỹ thuật được tăng cường, từng bước đổi mới, hiện đại hoá. Nhiều cơ sở được xây dựng, mở rộng khá khang trang, nhất là các trường dạy nghề với hệ thống xưởng thực hành theo tiêu chuẩn 3 sao của trường Cao đẳng nghề Đà Lạt. Bên cạnh đó thì trường Cao đẳng nghề du lịch Đà Lạt được đầu tư bởi Dự án đào tạo phát triển nhân lực ngành Du lịch do EU tài trợ, cơ sở vật chất kỹ thuật các phòng thực hành của trường được tài trợ các trang thiết bị hiện đại, đạt tiêu chuẩn EU. Nhà trường cũng đang xây dựng trường và dự kiến đến năm 2015 sẽ hoàn thành và đi vào hoạt động.

Về chương trình đào tạo: Chương trình đào tạo hệ đại học thực hiện theo chương trình khung của Bộ Giáo dục và Đào tạo; Chương trình đào tạo hệ cao đẳng, trung cấp nghề và sơ cấp nghề theo chương trình khung do Bộ Lao động Thương binh và Xã hội ban hành. Riêng Trường Cao đẳng nghề du lịch Đà Lạt đã đưa chương trình đào tạo gần hơn nữa với 13 tiêu chuẩn nghề của dự án EU vào công tác đào tạo và đưa Trung tâm thẩm định nghề theo tiêu chuẩn nghề du lich Việt Nam VTOS của liên minh châu Âu tài trợ nguồn nhân lực du lịch Việt Nam vào hoạt động.

Về tuyển sinh: Chỉ riêng hệ đại học là phải thi tuyển đầu vào, còn các hệ cao đẳng, trung cấp thì chỉ xét tuyển dựa trên điểm tốt nghiệp và kết quả học tập phổ thông trung học. Trong những năm qua, chỉ tiêu tuyển sinh của các cơ sở đào tạo, dạy nghề du lịch giảm so với năm trước, một phần do nhiều cơ sở đào tạo hơn tham gia đào tạo du lịch nhưng cũng một phần do các cơ sở đào tạo, dạy nghề du lịch tập trung hơn về chất lượng đào tạo, cử giáo viên đi đào tạo, nâng cao trình độ để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Thêm vào đó, cơ cấu giữa các hệ đào tạo có sự thay đổi, tuyển sinh đào tạo hệ cao đẳng tăng lên trong khi đó chỉ tiêu trung cấp đang dần giảm đi. Công tác tuyển sinh của hệ cao đẳng có khá nhiều thuận lợi: Chủ trương tạo cơ hội học nghề thông qua hình thức xét tuyển, không tạo áp lực thi cử cho học sinh cũng là một yếu tố tích cực cho tuyển sinh học nghề du lịch; Bên cạnh những thuận lợi kể trên, các cơ sở đào tạo, dạy nghề du lịch cũng gặp rất nhiều khó khăn trong công tác tuyển sinh. Đào tạo nghề đặc biệt là hệ cao đẳng nghề và trung cấp nghề đang ở giai đoạn đầu, cần có thời gian để xã hội chấp nhận và tin tưởng. Do đó công tác tuyển sinh tương đối gặp khó khăn; Nhiều cơ sở đào tạo du lịch phát triển, tuy tăng về quy mô đào tạo, nhưng chất lượng dạy nghề không đảm bảo, quản lý hoạt động dạy nghề của các cơ sở này là rất khó, cạnh tranh không lành mạnh; Trong số các cơ sở đào tạo, dạy nghề du lịch thì Trường Cao đẳng nghề Du lịch Đà Lạt gặp khó khăn nhất về công tác tuyển sinh vì cơ sở vật chất của Trường đang trong quá trình xây dựng, hiện cơ sở đào tạo còn chật chội, thiếu thốn, phải thuê địa điểm, đội ngũ cán bộ giáo viên trẻ chưa có nhiều kinh nghiệm nên ít nhiều cũng ảnh hưởng trực tiếp tới công tác tuyển sinh.

2.3. Thực trạng công tác phát triển nguồn nhân lực đào tạo, dạy nghề du lịch tại Lâm Đồng Luận văn: Thực trạng phát triển nguồn nhân lực du lịch Lâm Đồng.

Để tìm hiểu thực trạng công tác phát triển đội ngũ giáo viên, giảng viên của các cơ sở, đào tạo dạy nghề du lịch tỉnh Lâm Đồng, học viên tiến hành khảo sát bằng phiếu hỏi trên 2 nhóm đối tượng: Cán bộ quản lý từ cấp Khoa, phó, trưởng phòng trở lên; đội ngũ Giáo viên cơ hữu. Bên cạnh đó, chúng tôi còn tiến hành phỏng vấn các cán bộ, Giáo viên; tham khảo ý kiến một số chuyên gia làm công tác quản lý của các Trường. Trên cơ sở kết quả, thông tin thu thập được, chúng tôi đã tiến hành phân tích đánh giá thực trạng

2.3.1.  Thực trạng về phát triển số lượng

Tính đến thời điểm hiện nay, đội ngũ giảng viên, giáo viên và cán bộ quản lý đào tạo, dạy nghề du lịch tăng về số lượng và từng bước được chuẩn hóa. Hiện nay cả 06 trường có 85 cán bộ, giáo viên, giảng viên du lịch; trong đó giáo viên, giảng viên du lịch là 57 người chiếm 67,1%, cán bộ quản lý là 28 người chiếm 32,9%.

Bảng 2.1. Thống kê số lượng Đội ngũ giáo viên, giảng viên dạy du lịch ở các trường

Số lượng giảng viên, giáo viên nêu trên là các giảng viên, giáo viên cơ hữu. Ngoài ra, các trường còn mời các giảng viên thỉnh giảng là các chuyên gia du lịch từ các cơ quan quản lý nhà nước, các đơn vị sự nghiệp và các doanh nghiệp du lịch, khách sạn trên địa bàn tham gia giảng dạy.

Bảng 2.2. Thống kê số lượng Đội ngũ giáo viên, giảng viên dạy du lịch ở các trường năm  2009 và năm 2013

Qua bảng 2.2, có thể thấy được trong 05 năm từ 2009 đến 2013, số lượng Giáo viên ở các trường đều tăng, ít nhất là 01 Giáo viên và nhiều nhất là 04 Giáo viên, từ nhiều nguồn khác nhau: điều động, thuyên chuyển công tác, tuyển dụng mới tại địa phương và ở địa phương khác…Điều đó chứng tỏ quy mô phát triển và quy mô tuyển sinh của các trường đều tăng, phù hợp với kế hoạch đào tạo hiện tại và kế hoạch phát triển trung hạn, dài hạn của các trường.

Tuy nhiên khi tiến hành khảo sát 85 Cán bộ quản lý và giáo viên, giảng viên về tình hình số lượng giáo viên, giảng viên dạy du lịch hiện nay của tỉnh Lâm Đồng, kết quả có 59,46% ý kiến đánh giá là thiếu, 21,62% ý kiến cho rằng số lượng giáo viên vừa đủ, và 18,92% ý kiến nhận xét là vừa thừa, vừa thiếu. Điều đó được thể hiện qua biểu đồ 3.1

Biểu đồ 3.1. Đánh giá về số lượng giáo viên,  giảng viên dạy du lịch

Thực tế, số lượng giáo viên, giảng viên dạy du lịch hiện nay của tỉnh Lâm Đồng chưa phù hợp với quy mô đào tạo hiện nay. Nguyên nhân do sự phát triển nhanh chóng về du lịch của địa phương, kéo theo nhu cầu cần được đào tạo, bồi dưỡng cũng không ngừng tăng lên; ngoài ra còn do số lượng học sinh, sinh viên của các ngành nghề không đồng đều, có ngành nghề học sinh, sinh viên đông, có những ngành, học sinh, sinh viên rất ít.

2.3.2. Thực trạng về hợp lý hoá cơ cấu Luận văn: Thực trạng phát triển nguồn nhân lực du lịch Lâm Đồng.

Cơ cấu về giới tính:

Bảng 2.3. Thống kê giới tính của Đội ngũ giáo viên, giảng viên

Kết quả khảo sát cho thấy tỉ lệ giáo viên giữa nam và nữ chênh lệch khá cao. Tỉ lệ giáo viên nữ chiếm 71,93%, giáo viên nam chiếm 28,07%. Cơ cấu giới tính của Đội ngũ giáo viên, giảng viên như thế là chưa hợp lý. Điều này ảnh hưởng đến công tác giảng dạy của nhà trường và nhu cầu học tập ở trình độ cao hơn vì giáo viên nữ có hạn chế, bị chi phối nhiều công việc của gia đình. Vì vậy, công tác phát triển Đội ngũ giáo viên, giảng viên của các trường cần quan tâm đến điều kiện khả năng của giới tính để tìm ra những giải pháp đào tạo bồi dưỡng ở trình độ chuyên môn và chức danh phù hợp.

Cơ cấu độ tuổi:

Bảng 2.4. Thống kê tuổi đời và thâm niên giảng dạy của Đội ngũ giáo viên, giảng viên  

Từ số liệu thống kê trên cho thấy Đội ngũ giáo viên, giảng viên các trường chủ yếu là giáo viên trẻ, giáo viên dưới 30 tuổi, chiếm tỉ lệ: 40,35% và giáo viên từ 30 đến 40 tuổi chiếm 45,61%.

Về thâm niên công tác, có thể nói tuổi nghề của Đội ngũ giáo viên, giảng viên dạy du lịch của các trường còn thấp, có đến 61,40% giáo viên có tuổi nghề dưới 5 năm, còn lại là 29,82% giáo viên có tuổi nghề từ 5-10 năm và trên 10 năm chỉ có 8,77%.

Ưu thế của đội ngũ trẻ là năng động, sáng tạo, dễ tiếp thu khoa học công nghệ, phương pháp giảng dạy mới. Đội ngũ trẻ có chí tiến thủ, có khả năng sớm đạt được học vị, học hàm cao trong tương lai. Do đó, nhà trường cần có cơ chế phù hợp để phát huy tiềm năng của đội ngũ này trong việc học tập nâng cao trình độ. Tuy nhiên, nhược điểm của đội ngũ trẻ là thiếu kinh nghiệm và bản lĩnh nghề nghiệp. Luận văn: Thực trạng phát triển nguồn nhân lực du lịch Lâm Đồng.

Tình hình trên cho thấy, đội ngũ Giáo viên dạy du lịch của các trường tập trung chủ yếu là lưc lượng trẻ, do vậy, nếu không đào tạo kịp thời để trở thành giáo viên chủ chốt sẽ bị thiếu hụt trong thời gian tới.

2.3.3. Thực trạng về nâng cao chất lượng

2.3.3.1. Phẩm chất

Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng cộng sản Việt Nam luôn xác định: “Cán bộ phải là người có phẩm chất chính trị tốt, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, hết lòng phấn đấu vì lợi ích của nhân dân; có bản lĩnh chính trị vững vàng, không dao động trước những khó khăn, thử thách; có năng lực hoàn thành nhiệm vụ được giao; có nhân cách và lối sống mẫu mực trong sáng; có ý thức tổ chức kỷ luật cao, tôn trọng tập thể gắn bó với nhân dân”.

Chính vì vậy, các Trường đã quan tâm sâu sát và trực tiếp lãnh đạo công tác chính trị, tư tưởng cho đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên, đồng thời, tạo điều kiện cho các tổ chức quần chúng hoạt động và phát triển, quan tâm đến việc phát triển Đảng viên mới là các cán bộ, giáo viên trẻ.

Qua khảo sát thực tế có 56,76% có ý kiến nhận xét Đội ngũ giáo viên, giảng viên có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt, 29,73% có ý kiến nhận xét là khá và 13,51% có ý kiến nhận xét là trung bình. Điều đó được thể hiện qua biểu đồ 3.2

Biểu đồ 3.2. Đánh giá về phẩm chất giáo viên,  giảng viên dạy du lịch

Về phẩm chất đạo đức, chưa có giáo viên, giảng viên nào vi phạm chuẩn mực đạo đức và nhân cách nhà giáo. Đội ngũ giáo viên, giảng viên luôn nhận được lòng yêu thương và quý trọng của Học sinh, sinh viên và gia đình.

2.3.3.2. Trình độ chuyên môn

Chất lượng Đội ngũ giáo viên, giảng viên có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng giáo dục nói chung và chất lượng giảng dạy trong nhà trường nói riêng. Phát triển ĐNGVGV đủ về số lượng, mạnh về chất lượng và đồng bộ về cơ cấu để nhà trường thực hiện tốt nhiệm vụ GD&ĐT được giao là một trong những nội dung quan trọng trong công tác phát triển của nhà trường.

Trong 5 năm vừa qua, trình độ chuyên môn của Đội ngũ giáo viên, giảng viên ở các tường đều không ngừng được cải thiện và nâng cao. Đối với những Giáo viên tuyển dụng mới thì đầu vào phải ít nhất là thạc sĩ, còn đối với những Giáo viên đang giảng dạy tại trường thì được nhà trường tạo điều kiện cho đi đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình độ từ cử nhân lên thạc sĩ, hay từ thạc sĩ học lên nghiên cứu sinh… Luận văn: Thực trạng phát triển nguồn nhân lực du lịch Lâm Đồng.

Đối với trường Cao đẳng nghề du lịch Đà Lạt, thông qua các dự án do Luxembourg và EU tài trợ, nhiều giảng viên, giáo viên du lịch đã được đào tạo nghiệp vụ tại Luxembourg, Singapore, Malaysia, Áo, Úc, New Zealand, đang phát huy tốt kiến thức đã học. Nhiều giảng viên đã và đang được học tập, nghiên cứu du lịch tại các nước có du lịch phát triển. Trong tổng số Giáo viên cơ hữu của trường có 14 Giáo viên là đào tạo viên. Đây là cơ sở và nền tảng quan trọng giúp giảng viên có kỹ năng tay nghề được công nhận. Trường đã được Công nhận là Trung tâm Thẩm định tiêu chuẩn nghề Du lịch Việt Nam (VTCB) với 7 nghề.  

Bảng 2.5. Thống kê trình độ chuyên môn, ngoại ngữ, tin học của ĐNGVGV

Từ số liệu điều tra bảng 2.2 cho thấy, 100% Giáo viên có trình độ đại học. Số lượng Giáo viên chuyên ngành du lịch còn ít. Số lượng Giáo viên có trình độ sau đại học còn hạn chế. Về Thạc sĩ chuyên ngành Du lịch học hiện nay chỉ có 03 Giáo viên thuộc 03 cơ sở đào tạo, dạy nghề du lịch là Đại học Đà Lạt, Đại học Yersin và Cao đẳng Kinh tế Kỹ thuật; có 02 Giáo viên có trình độ tiến sĩ nhưng không phải chuyên ngành du lịch mà là chuyên ngành Địa lý kinh tế là Trưởng khoa Du lịch của trường Đại học. Với sự phát triển du lịch của Tỉnh trong tương lai, các cơ sở đào tạo, dạy nghề du lịch cần có lộ trình cụ thể cho đội ngũ quản lý và giáo viên, giảng viên tham gia chương trình đào tạo cao học, nghiên cứu sinh theo đúng chuyên ngành.

Trình độ ngoại ngữ của Đội ngũ giáo viên, giảng viên của các trường còn hạn chế, tỉ lệ giáo viên có bằng đại học ngoại ngữ thấp (trừ giáo viên ngoại ngữ) chiếm 22,8%, Đội ngũ giáo viên, giảng viên các trường chủ yếu có chứng chỉ về ngoại ngữ. Theo thống kê, rất ít Giáo viên có khả năng nghiên cứu tài liệu bằng tiếng nước ngoài, phần lớn sử dụng ngoại ngữ trong phạm vi hẹp. Tình hình này ảnh hưởng đến việc nâng cao trình độ chuyên môn, nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế. Điều đó thể hiện qua biểu đồ 3.3 

Biểu đồ 3.3. Đánh giá về trình độ ngoại ngữ giáo viên,  giảng viên dạy du lịch

Qua kết quả khảo sát, điều tra Đội ngũ giáo viên, giảng viên các trường đánh giá thấp về ngoại ngữ, có 45,94% đánh giá ở mức độ trung bình, 37,84% đánh giá mức độ khá và 16,22% đánh giá ở mức độ yếu. Vì vậy, khó khăn cho giáo viên, giảng viên trong việc nghiên cứu tài liệu để nâng cao nghiệp vụ chuyên môn.

Về tin học, đa số Giáo viên có trình độ cơ bản trở lên, ứng dụng được công nghệ trong giảng dạy nhưng khả năng ứng dụng các phần mềm, khai thác tài liệu qua mạng Internet, soạn giáo án điện tử, sử dụng trình chiếu Powerpoint cho việc giảng dạy chưa cao. Thực tiễn cho thấy, việc khắc phục tình trạng yếu kém về ngoại ngữ, tin học trong Đội ngũ giáo viên, giảng viên đòi hỏi phải có sự kiên trì của mỗi cá nhân và cần tạo môi trường thuận lợi để ứng dụng kiến thức.

2.3.3.3. Kỹ năng nghề nghiệp Luận văn: Thực trạng phát triển nguồn nhân lực du lịch Lâm Đồng.

Một người giáo viên cần bao gồm các kỹ năng như: Kỹ năng dạy học, kỹ năng giáo dục, kỹ năng tự học và kỹ năng nghiên cứu khoa học. Trong trường dạy nghề du lịch, kỹ năng giảng dạy tích hợp (vừa lý thuyết và vừa thực hành) là yếu tố quan trọng đối với giáo viên.

Bảng 2.6. Thống kê trình độ, kiến thức sư phạm và sư phạm nghề của giáo viên

Qua bảng số liệu trên cho thấy, đội ngũ giáo viên cơ hữu của các trường đã qua đào tạo nghiệp vụ sư phạm và sư phạm nghề, đã thể hiện được kỹ năng  sư phạm của mình qua việc áp dụng các phương pháp dạy học tích cực, nắm vững tri thức khoa học, truyền đạt kiến thức phù hợp với từng đối tượng đào tạo.

ĐNGVGV nắm vững mục tiêu đào tạo, nhận thức được sự đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục nên đã giúp Học sinh, sinh viên tiếp thu tri thức khoa học, có kỹ năng thực hành vững vàng, đáp ứng được nhu cầu của xã hội về mặt nghề nghiệp sau khi ra trường.

2.3.3.4. Thực trạng nâng cao nhận thức

Đội ngũ Giáo viên giữ vai trò quyết định trong việc bảo đảm chất lượng giáo dục đào tạo. Giáo viên phải không ngừng học tập, rèn luyện, được đào tạo và bồi dưỡng thường xuyên để có thể thực hiện tốt nhiệm vụ đào tạo.

Nhận thức được vấn đề đó, hàng năm, lãnh đạo các cơ sở đào tạo đã cử cán bộ, giáo viên được tham gia các khóa đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn, nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý, và tạo điều kiện cán bộ, giáo viên tham gia chương trình sau đại học.

Tuy nhiên qua phỏng vấn một số giáo viên cho thấy: Một bộ phận cán bộ giáo viên trẻ nên nhận thức vẫn còn hạn chế .Việc học hỏi liên tục không ngừng góp phần vào việc phát triển bền vững trong tương lai đối với cá nhân giáo viên và tập thể cán bộ, viên chức Nhà trường. Việc nhà trường cử đi đào tạo là nhằm mục đích chuẩn hóa và nâng cao hơn nữa về trình độ chuyên môn. Giáo viên mới tuyển dụng được Khoa sắp xếp thời gian, tạo điều kiện đi học, nhằm mục đích phát triển cá nhân và phục vụ lâu dài cho Trường. Nhưng trong thời gian qua có một số giáo viên trẻ sau khi học xong chỉ quan tâm đến quyền lợi (nâng lương, so sánh thù lao mời giảng với các trường khác…) không thấy sự thể hiện mong muốn đóng góp, cống hiến nhiều hơn nữa cho trường. Điều đó được thể hiện qua phiếu khảo sát về việc tự học, tự bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ của Đội ngũ giáo viên, giảng viên với kết quả có 51,72% ý kiến cho rằng việc tự học, tự bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ của ĐNGV nhà trường ở mức độ khá, có 34,48% ý kiến đánh giá ở mức độ trung bình và 13,79% ý kiến nhận xét chưa tốt.

Qua phiếu thăm dò được thực hiện khi làm đề tài này, kết quả nhận thức của Cán bộ quản lývà Đội ngũ giáo viên, giảng viên của các trường về công tác phát triển nguồn nhân lực đào tạo, dạy nghề du lịch tại Lâm Đồng hiện nay được thể hiện qua bảng 2.7.

Bảng 2.7. Bảng khảo sát nhận thức của Cán bộ quản lý và Đội ngũ giáo viên, giảng viên của các trường về công tác phát triển nguồn nhân lực đào tạo, dạy nghề du lịch tại Lâm Đồng            

Từ số liệu này, cho thấy, 88.24% số người được hỏi cho rằng công tác phát triển nguồn nhân lực đào tạo, dạy nghề du lịch tại Lâm Đồng hiện nay là rất cần thiết và 11.76% cho là cần thiết. Như vậy, có thể nói rằng, trong nhận thức của hầu hết Cán bộ quản lý và Đội ngũ giáo viên, giảng viên của các trường, việc phát triển nguồn nhân lực đào tạo, dạy nghề du lịch tại Lâm Đồng hiện nay là rất cần thiết. Luận văn: Thực trạng phát triển nguồn nhân lực du lịch Lâm Đồng.

2.4. Đánh giá chung về công tác phát triển nguồn nhân lực đào tạo, dạy nghề du lịch ở tỉnh Lâm Đồng

2.4.1. Ưu điểm và nguyên nhân

2.4.1.1. Ưu điểm

Trong thời gian qua, các cơ sở đào tạo, dạy nghề du lịch ở tỉnh Lâm Đồng đã có nhiều cố gắng trong công tác phát triển Đội ngũ giáo viên, giảng viên, hiệu quả của việc phát triển Đội ngũ giáo viên, giảng viên được phản ánh qua chất lượng đội ngũ giáo viên, qua chất lượng đào tạo, qua những đóng góp của nhà trường vào công cuộc đổi mới quê hương, đất nước.

Các cơ sở đào tạo, dạy nghề du lịch trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng tập trung giáo dục chính trị tư tưởng và đạo đức nhà giáo cho Đội ngũ giáo viên, giảng viên, nên đa số nhà giáo và cán bộ quản lý đào tạo, dạy nghề du lịch có lập trường tư tưởng vững vàng, kiên định với lý tưởng cộng sản, với đường lối đổi mới của Đảng, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, trung thành với chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, có phẩm chất đạo đức tốt, yêu nghề. Đội ngũ giáo viên, giảng viên trẻ, nhiệt tình trong công tác, luôn năng động sáng tạo, thích ứng nhanh với sự phát triển của xã hội, tích cực đổi mới phương pháp dạy học, thuận lợi cho việc quy hoạch, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ.

Các cơ sở đào tạo, dạy nghề du lịch trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng bước đầu đã quan tâm đến việc đảm bảo số lượng, đặc biệt chú ý đến chất lượng và cơ cấu Đội ngũ giáo viên, giảng viên đào tạo, dạy nghề du lịch trong quá trình tuyển dụng mới, rà soát, điều chỉnh và đào tạo, bồi dưỡng Đội ngũ giáo viên, giảng viên. Về cơ bản trình độ của Giáo viên đạt được theo quy định của Luật giáo dục, của Bộ GDĐT. Đa số giáo viên có trình độ ngoại ngữ, tin học, năng lực sư phạm; tích cực ứng dụng công nghệ, đổi mới phương pháp dạy học và nghiên cứu khoa học; nhiệt tình, chịu khó học tập, cố gắng vươn lên để tự khẳng định mình. Về cơ cấu tương đối đồng bộ, số lượng giáo viên trẻ chiếm tỷ lệ cao, là điều kiện, tiềm năng lâu dài của các cơ sở đào tạo, dạy nghề.

Có sự quan tâm sát sao của lãnh đạo nhà trường về mặt tinh thần và vật chất nên đã giúp đội ngũ giáo viên hăng say, nhiệt tình trong công tác. Mỗi giáo viên đều có cơ hội phát huy tiềm năng và thể hiện bản thân. Có kế hoạch xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên hàng năm. Đội ngũ nhà giáo của các trường đã có những bước phát triển mạnh mẽ cả về số lượng, cơ cấu, chất lượng trong những năm qua, đã thực hiện tốt vai trò giảng dạy, trang bị kiến thức cơ bản, truyền thụ những kinh nghiệm thực tiễn, nâng cao chất lượng đào tạo du lịch của  nhà trường. Luận văn: Thực trạng phát triển nguồn nhân lực du lịch Lâm Đồng.

2.4.1.2. Nguyên nhân của ưu điểm

  • Có sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ, kịp thời của Đảng, Bộ GDĐT, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; đồng thời, các cơ sở đào tạo, dạy nghề du lịch đã quán triệt sâu sắc, vận dụng sáng tạo, tổ chức thực hiện nghiêm túc các nghị quyết của Đảng, quy định, chỉ thị của cấp trên về công tác giáo dục – đào tạo trong tình hình mới.
  • Đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức cách mạng trong sáng, tâm huyết với sự nghiệp giáo dục – đào tạo; có trình độ, năng lực, bề dày kinh nghiệm qua thử thách, rèn luyện trong thực tiễn, góp phần rất quan trọng nâng cao chất lượng đào tạo và xây dựng trường.
  • Một số văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước, Bộ VH,TTDL, Bộ GDĐT, văn bản chỉ đạo của lãnh đạo các cấp được ban hành kịp thời, tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho nhà trường. Bên cạnh đó, công tác giáo dục – đào tạo luôn được sự quan tâm đầu tư của Chính phủ, sự giúp đỡ của các Bộ, Ban, ngành Trung ương, của cấp ủy, chính quyền và nhân dân địa phương .
  • Chi Bộ, BGH nhà trường đã có định hướng đúng đắn trong công tác phát triển đội ngũ Giáo viên và đã đạt được những thành quả nhất định.

2.4.2. Hạn chế và nguyên nhân

2.4.2.1. Hạn chế

Những cố gắng trong phát triển đội ngũ giảng viên, giáo viên và cán bộ quản lý đào tạo, dạy nghề du lịch ở các trường tham gia đào tạo, dạy nghề du lịch trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng mới chỉ dừng lại ở các giải pháp tình thế, chưa tìm được hướng đi lâu dài. Công tác phát triển đội ngũ GVGV đào tạo, dạy nghề du lịch còn tồn tại nhiều vấn đề, chưa đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn phát triển GD – ĐT và sự phát triển của ngành Du lịch hiện nay.

Nhìn chung, cơ cấu Đội ngũ giáo viên, giảng viên các trường chưa cân đối và hợp lý về tuổi đời, tuổi nghề và giới tính, giáo viên nữ chiếm đa số, ảnh hưởng không nhỏ đến việc sắp xếp, phân công giảng dạy.

Các trường chưa có nhiều tiến sĩ, giáo viên giảng viên có học vị thạc sĩ chiếm tỷ lệ thấp so với yêu cầu chung.

Hạn chế về năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; đặc biệt thiếu giáo viên tay nghề cao, giàu kinh nghiệm thực tế. Kiến thức chuyên sâu về du lịch của giảng viên, giáo viên tích lũy chủ yếu qua các lớp bồi dưỡng và tự học.

Vẫn còn không ít giáo viên chưa đầu tư nhiều trong việc cập nhật kiến thức mới; chậm đổi mới phương pháp giảng dạy, còn nặng truyền đạt kiến thức, chưa phát huy tính chủ động sáng tạo của Học sinh, sinh viên.

Việc sử dụng ngoại ngữ, tin học trong giáo viên còn hạn chế, ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng chuyên môn và là rào cản rất lớn trong việc tạo nguồn đào tạo sau đại học. Luận văn: Thực trạng phát triển nguồn nhân lực du lịch Lâm Đồng.

2.4.2.2. Nguyên nhân hạn chế

a) Về chủ quan:

  • Năng lực cụ thể hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước về giáo dục – đào tạo tại các cơ sở đào tạo, dạy nghề du lịch còn hạn chế.     – Một số giáo viên chưa quan tâm nhiều đến nghiên cứu khoa học, chỉ tập trung cho công tác giảng dạy và học tập nâng cao trình độ chuyên môn.
  • Chưa có sự khuyến khích thỏa đáng đối với giáo viên trong việc nâng cao kỹ năng giảng dạy, chất lượng giảng dạy, cải tiến chương trình đào tạo,…
  • Kinh phí cho công tác đào tạo, bồi dưỡng còn hạn hẹp.
  • Còn một số Cán bộ quản lý, Giáo viên chưa thực sự chủ động trong việc tự học, tự bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực quản lý, chưa khẳng định được vị trí, vai trò của mình trong công tác quản lý nhà trường.

b) Về khách quan:

  • Thực tiễn ngành Du lịch đang trong quá trình đổi mới, có những nội dung phát triển ngành chưa được tổng kết để điều chỉnh kịp thời, dẫn đến hạn chế trong chỉ đạo và thực hiện.
  • Sự tác động tiêu cực của mặt trái cơ chế thị trường, đời sống vật chất của cán bộ, giáo viên, học viên còn nhiều khó khăn đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng giáo dục – đào tạo.

Tiểu kết chương 2

Trong thời đại toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, các nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới đang ra sức xây dựng nền kinh tế tri thức, thì ở Việt Nam giáo dục nghề nghiệp ngoài mục tiêu đào tạo nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, còn phải hướng vào việc đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng thị trường lao động trên thế giới. Giải quyết tốt hai mục tiêu này sẽ góp phần nâng cao chất lượng lao động, tạo động lực cho sự phát triển kinh tế – xã hội.

Để đảm bảo chất lượng đào tạo, các cơ sở đào tạo, dạy nghề du lịch trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng đã xác định đội ngũ Giáo viên đóng một vai trò hết sức quan trọng, vì vậy đã nhận thức đúng đắn và quan tâm đến việc phát triển đội ngũ Giáo viên. Nhưng nhìn chung hiệu quả của công tác này chưa cao, chưa sử dụng và phát huy hết năng lực sẵn có của đội ngũ Giáo viên. Bản thân đội ngũ Giáo viên vẫn còn một số chưa thật sự chủ động, sáng tạo trong công tác giảng dạy; ý thức tự học, tự bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ hạn chế.

Vì vậy, để có thể đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về chất lượng đào tạo của nhà trường mà đội ngũ Giáo viên đóng vai trò quyết định, thì việc phân tích thực trạng phát triển đội ngũ Giáo viên sẽ là cơ sở để đề xuất các biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên, để đội ngũ Giáo viên phục vụ đắc lực hơn nữa, hiệu quả hơn nữa cho sự nghiệp đào tạo nhân lực cho ngành Du lịch tỉnh Lâm Đồng, cũng như khu vực Tây Nguyên. Luận văn: Thực trạng phát triển nguồn nhân lực du lịch Lâm Đồng.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ: 

===>>> Luận văn: Giải pháp phát triển nguồn nhân lực du lịch tại lâm Đồng

One thought on “Luận văn: Thực trạng phát triển nguồn nhân lực du lịch Lâm Đồng

  1. Pingback: Luận văn: Phát triển nguồn nhân lực du lịch tại tỉnh Lâm Đồng

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Contact Me on Zalo
0906865464