Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Thực trạng giáo dục trẻ mầm non tại xã Bến Cát hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm khóa luận thì với đề tài Luận văn: Quản lý hoạt động giáo dục tính tự lập cho trẻ tại trường mầm non tư thục trên địa bàn thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
2.3. Thực trạng hoạt động giáo dục tính tự lập cho trẻ mẫu giáo tại các trường mầm non tư thục trên địa bàn thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương
2.3.1. Thực trạng nhận thức về tầm quan trọng của hoạt động giáo dục tính tự lập cho trẻ mẫu giáo tại các trường mầm non tư thục trên địa bàn thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương
Để đánh giá đúng thực trạng nhận thức về tầm quan trọng của HĐGDTTL cho trẻ mẫu giáo tại các trường MN tư thục trên địa bàn thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương. Tác giả tiến hành khảo sát bằng phiếu hỏi 25 CBQL, 175 giáo viên và 200 PHHS của 15/34 trường trên địa bàn. Qua khảo sát với câu hỏi: “Quý thầy/cô/phụ huynh vui lòng cho biết ý kiến về tầm quan trọng của HĐGDTTL cho trẻ mẫu giáo?” Tác giả đã nhận được ý kiến trả lời như sau: Luận văn: Thực trạng giáo dục trẻ mầm non tại xã Bến Cát
Bảng 2. 4: Thực trạng nhận thức về tầm quan trọng của hoạt động giáo dục tính tự lập cho trẻ mẫu giáo
Mức độ
Theo kết quả bảng 2.4 trên cho thấy hầu hết CBQL, GV và PHHS đều có xu hướng nhận thức tích cực về tầm quan trọng của HĐGDTTL đối với trẻ mẫu giáo. Cụ thể có 37% CBQL, GV và 38% phụ huynh đánh giá rất cao tầm quan trọng của hoạt động này. Chiếm đa số có 47% CBQL, GV và 46% PHHS nhận thức HĐGDTTL là quan trọng với trẻ mẫu giáo. Số ít có 11% CBQL, GV và 12% PHHS đang cảm thấy phân vân về tầm quan trọng của hoạt động và chiếm thiểu số có 5% CBQL, GV và PHHS cho rằng HĐGDTTL ít quan trọng với trẻ mẫu giáo. Không có CBQL, GV và PHHS nào đánh giá hoạt động này “không quan trọng”. Chúng tôi đã ghi nhận được một số ý kiến như sau: “HĐGDTTL không còn mới mẻ trong GDMN hiện nay. Trong xu thế phát triển của nền giáo dục thì việc tăng cường các HĐGDTTL ở nhà trường là hoàn toàn đúng đắn. Chính vì vậy, việc quản lí các hoạt động này rất quan trọng, bởi đây là một hoạt động không thể thiếu trong việc giáo dục nhân cách trẻ” (QL001), “Là một GV trực tiếp đứng lớp, tôi nhận thấy khi các bé được giáo dục TTL sớm, các em rất hứng thú, tích cực. Đa số trẻ mầm non đều muốn tự làm việc này việc kia và kết quả các bé làm rất tốt so với suy nghĩ của chúng ta. Trẻ có tính tự lập sẽ nhanh chóng hình thành các kỹ năng sống và phẩm chất khác tốt hơn những trẻ không tự lập.” (GV001)
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Dịch Vụ Viết Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Quản Lý Giáo Dục
2.3.2. Thực trạng nhận thức về mục đích giáo dục kĩ năng tính tự lập cho trẻ mẫu giáo tại các trường mầm non tư thục trên địa bàn thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương Luận văn: Thực trạng giáo dục trẻ mầm non tại xã Bến Cát
Bảng 2. 5: Thực trạng nhận thức về mục đích giáo dục tính tự lập cho trẻ mẫu giáo
Qua kết quả khảo sát thực trạng nhận thức về mục đích giáo dục tính tự lập cho trẻ mẫu giáo ở bảng 2.5 cho thấy: Hầu hết CBQL, GV đều có sự nhất trí cao với mục đích giáo dục TTL cho trẻ MG. Đa số lựa chọn mức “Rất đồng ý” với tất cả 04 mục đích giáo dục TTL, ĐTB chung là 4.28 và dao động giữa các mục đích giáo dục là 4.23 – 4.38. ĐLC dao động 0.507 – 0.718 cho thấy sự tập trung ý kiến lựa chọn khá cao.
Đa số PHHS thì thể hiện sự “Phân vân” trong lựa chọn với ĐTB chung là 3.14 và dao động giữa các mục đích giáo dục là 3.01 – 3.60. Trong đó, nội dung 03 được đa số phụ huynh lựa chọn mức “Đồng ý”. Độ lệch chuẩn dao động từ 0.610 – 0.868 cho thấy có sự phân tán trong ý kiến của phụ huynh giữa các nội dung.
2.3.3. Thực trạng nhận thức về mức độ thực hiện và mức đáp ứng yêu cầu của các nội dung giáo dục trong hoạt động giáo dục tính tự lập cho trẻ mẫu giáo tại các trường mầm non tư thục trên địa bàn thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương
Bảng 2. 6: Thực trạng nhận thức về mức độ thực hiện và mức đáp ứng yêu cầu của các nội dung giáo dục trong hoạt động giáo dục tính tự lập cho trẻ mẫu giáo (Đối với CBQL, GV) trong gia đình và lớp học)
Kỹ năng tự tin, thể hiện bản thân
Qua khảo sát cho thấy:
- độ tuổi 5 – 6 tuổi: Hầu hết CBQL, GV đánh giá mức độ thực hiện các nội dung giáo dục đạt mức “Rất thường xuyên” (ĐTB 4.31 – 4.44) và kết quả thực hiện các nội dung GDTTL đạt mức “Rất tốt” (ĐTB 4.24 – 4.48). ĐLC dao động 0.515 – 0.628 cho thấy sự tập trung ý kiến rất cao. Xếp thứ 1 trong việc đánh giá mức độ thực hiện và kết quả thực hiện nội dung GDTTL cho trẻ MG.
- độ tuổi 4 – 5 tuổi các nội dung GDTTL được đánh giá mức độ thực hiện “Thường xuyên” (ĐTB 3.5 – 3.62) và kết quả thực hiện “Tốt” (ĐTB 3.56 – 3.59). ĐLC dao động 0.621- 0.810 cho thấy có sự phân tán các ý kiến đánh giá giữa CBQL và GV.
- trẻ 3 – 4 tuổi các nội dung GDTTL có mức độ thực hiện là “Thỉnh thoảng” (ĐTB 2.99 – 3.14) và kết quả “Trung bình” (ĐTB 3.02 – 3.22). ĐLC 0.762 – 0.873 cho thấy các ý kiến không tập trung, có sự phân tán trái ngược nhau trong ý kiến cao. Độ tuổi này mức độ thực hiện cũng như kết quả thực hiện các nội dung GDTTL cho trẻ MG đánh giá xếp thứ 3 thấp nhất trong lứa tuổi MG.
Bảng 2. 7: Thực trạng nhận thức về mức độ thực hiện và mức đáp ứng yêu cầu của các nội dung giáo dục trong hoạt động giáo dục tính tự lập cho trẻ mẫu giáo (Đối với PHHS)
Qua kết quả khảo sát bảng 2.7 cho thấy đa số PHHS có ý kiến tương đối đồng nhất với CBQL và GV về đánh giá nội dung GDTTL cho trẻ từng lứa tuổi. Đa số đánh giá mức độ thực hiện chung ở mức ”Thường xuyên” ( ĐTB chung 3.63) và kết quả thực hiện ”Tốt” (ĐTB chung 3.90). Cụ thể ý kiến đánh giá của PHHS về các nội dung GDTTL ở từng lứa tuổi đều đồng nhất với kết quả khảo sát của CBQL và GV. Qua khảo sát có thể thấy giữa các độ tuổi trong lứa tuổi MG có sự đánh giá mức độ thực hiện và kết quả khác nhau, tuy nhiên đa phần các ý kiến chọn lựa đều tương đối tập trung, đồng nhất.
2.3.4. Thực trạng các hình thức giáo dục tính tự lập cho trẻ mẫu giáo tại trường mầm non tư thục trên địa bàn thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương Luận văn: Thực trạng giáo dục trẻ mầm non tại xã Bến Cát
Bảng 2. 8: Thực trạng nhận thức về mức độ thực hiện và mức đáp ứng yêu cầu của các hình thức giáo dục kĩ năng tính tự lập cho trẻ mẫu giáo (Đối với CBQL, GV)
Kết quả khảo sát bảng 2.8 cho thấy: Nội dung “GDTTL cho trẻ MG ở trường MN thông qua chế độ sinh hoạt” được đa số CBQL và GV đánh giá hình thức này mức “Rất thường xuyên” (ĐTB 4.38) và kết quả thực hiện “Rất tốt” (ĐTB 4.3). ĐLC dao động 0.562 – 0.574 thể hiện ý kiến đánh giá tập trung cao. Hình thức này xếp thứ 01 trong ý kiến lựa chọn của CBQL và GV. Nội dung “GDTTL cho trẻ MG ở trường MN thông qua hoạt động học và hoạt động lao động” được hầu hết CBQL và GV đánh giá mức độ thực hiện “Thỉnh thoảng” (ĐTB 3.09 – 3.14) và kết quả thực hiện mức “Trung bình” (ĐTB 3.07 – 3.17). 2 hình thức còn lại có sự trái chiều trong đánh giá giữa mức độ thực hiện và kết quả thực hiện của các hình thức GDTTL. Cụ thể: “Hình thức GDTTL cho trẻ MG ở trường MN thông qua hoạt động vui chơi” được đa số CBQL và GV đánh giá tổ chức “Thường xuyên” (ĐTB 3.47) nhưng kết quả thực hiện mức “Trung bình” (ĐTB 3.27). “Hình thức GDTTL thông qua hoạt động ngoại khóa” thì ngược lại, được đa số CBQL và GV đánh giá mức tổ chức thực hiện “Thỉnh thoảng” (ĐTB 3.32) nhưng kết quả “Tốt” (ĐBT 3.47). ĐLC dao động 0.575 – 0.788 cũng thể hiện sự trái chiều, phân tán trong sự lựa chọn của CBQL và GV. Bảng 2. 9: Thực trạng nhận thức về mức độ thực hiện và mức đáp ứng yêu cầu của các hình thức giáo dục kĩ năng tính tự lập cho trẻ mẫu giáo (Đối với PHHS)
Kết quả khảo bảng 2.9 thể hiện: Cao nhất là “hình thức GDTTL thông qua chế độ sinh hoạt” được đánh giá mức độ thực hiện “Rất thường xuyên” (ĐTB 4.34) và kết quả thực hiện “Rất tốt” (ĐTB 4.37). ĐLC dao động 551 – 562 cho thấy ý kiến thống nhất cao. Các “hình thức GDTTL thông qua hoạt động vui chơi và ngoại khóa” được đánh giá tổ chức “Thường xuyên” (ĐTB 3.56) và kết quả thực hiện “Tốt” (ĐTB 3.5 – 3.57). ĐLC 0.655 – 0.837 cho thấy các ý kiến có sự phân tán không cao.
“Hình thức GDTTL cho trẻ MG ở trường MN thông qua hoạt động học và lao động” cũng được PHHS đánh giá thấp với mức thực hiện “Thỉnh thoảng” (ĐTB 3.14 – 3.19) và kết quả “Trung bình” (ĐTB 3.06 – 3.13). ĐLC dao động 0.766 – 0.829 thể hiện các ý kiến trái chiều khi đánh giá 2 hình thức này.
2.3.6. Thực trạng các phương pháp giáo dục tính tự lập cho trẻ mẫu giáo tại trường mầm non tư thục trên địa bàn thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương Luận văn: Thực trạng giáo dục trẻ mầm non tại xã Bến Cát
Bảng 2. 10: Thực trạng nhận thức về mức độ thực hiện và mức đáp ứng yêu cầu của các phương pháp giáo dục kĩ năng tính tự lập cho trẻ mẫu giáo (Đối với CBQL, GV)
Kết quả bảng khảo sát 2.10 cho thấy: CBQL và GV lựa chọn phương pháp nêu gương – đánh giá và phương pháp thực hành trải nghiệm với mức độ thực hiện “Rất thường xuyên” (TBC 4.34 – 4.44) và kết quả thực hiện “Rất tốt” (TBC 4.29 – 4.3). Nhóm phương pháp dùng lời nói được lựa chọn mức độ thực hiện “Thường xuyên” (ĐTB 3.47) và kết quả thực hiện “Tốt” (ĐTB 3.47). Nhóm phương pháp trực quan minh họa và nhóm giáo dục bằng tình cảm, khích lệ được đánh giá mức độ thực hiện là “Thỉnh thoảng” (TBC 3.09 – 3.14), kết quả đánh giá mức “Trung bình” (TBC 3.1 và 3.18). Nhìn chung khi đánh giá mức độ thực hiện các phương pháp đa số CBQL và GV có sự thống nhất, tập trung ý kiến cao (ĐLC TB 0.659). Tuy nhiên, khi đánh giá kết quả thực hiện các nhóm phương pháp thì họ có sự phân tán ý kiến (ĐLC TB 0.706)
2.3.7. Thực trạng nhận thức về mức độ thực hiện và mức đáp ứng yêu cầu của việc kiểm tra, đánh giá trong hoạt động giáo dục tính tự lập cho trẻ mẫu giáo tại các trường mầm non tư thục trên địa bàn thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương
Bảng 2. 11: Thực trạng nhận thức về mức độ thực hiện và mức đáp ứng yêu cầu của việc kiểm tra, đánh giá trong HĐGDTTL cho trẻ mẫu giáo (Đối với CBQL, GV)
Kết quả bảng 2.11 khảo sát thể hiện đa số CBQL và GV đánh giá công tác kiểm tra đánh giá HĐGD TTL theo tháng ( chủ đề) và công tác kiểm tra đánh giá HĐGDTTL theo giai đoạn (cuối độ tuổi) có sự trái chiều ý kiến về mức độ thực hiện và kết quả thực hiện, cụ thể như sau: Nội dung kiểm tra đánh giá HĐGDTTL theo tháng (cuối chủ đề) được đánh giá mức thực hiện là “ Rất thường xuyên” (ĐTB 4.31) và kết quả được đánh giá mức “Tốt” (ĐTB 3.47). Còn nội dung kiểm tra đánh giá HĐGDTTL theo giai đoạn (cuối độ tuổi) được tổ chức thực hiện ở mức “Thường xuyên” (ĐTB 3.47) và kết quả thực hiện “ Rất tốt” (ĐTB 4.31). Nội dung kiểm tra, đánh giá HĐGDTTL theo ngày và qua khai thác thông tin phụ huynh được đánh giá mức thực hiện “Thỉnh thoảng” (ĐTB 3.09 – 3.14) và kết quả thực hiện được đánh giá “Trung bình” (ĐTB 3.1 – 3.18).
Qua phỏng vấn sâu một số CBQL và GV về thực trạng nhận thức công tác kiểm tra đánh giá HĐGDTTL cho trẻ MG ở trường mầm non ghi nhận thêm nhiều ý kiến: “Nhà trường thường sử dụng hình thức kiểm tra, đánh giá TTL của trẻ: hàng ngày trong kế hoạch giáo dục ngày, đánh giá theo giai đoạn: cuối chủ đề theo các mục tiêu của chủ đề và cuối độ tuổi theo bộ chuẩn. Tuy nhiên, hình thức được thực hiện thường xuyên và có hiệu quả là đánh giá theo tháng vào cuối chủ đề” (GV001), “Theo trường tôi, kiểm tra đánh giá kết quả HĐGDTTL thường được tổ chức dưới các hình thức: Kiểm tra kết quả đánh giá cuối chủ đề xem trẻ thực hiện đạt hay không để đưa vào điều chỉnh, Kiểm tra cuối độ tuổi theo mục tiêu giáo dục năm học đặt ra. Ngoài ra còn khai thác thêm thông tin từ phụ huynh về trẻ để đánh giá, tuy nhiên, không thường xuyên và hiệu quả không cao”(GV004),
2.4. Thực trạng quản lý hoạt động giáo dục tính tự lập cho trẻ mầm non Luận văn: Thực trạng giáo dục trẻ mầm non tại xã Bến Cát
Khảo sát thực trạng quản lí HĐGDTTL cho trẻ MG tại các trường MN NCL ở thị xã Bến Cát, Tỉnh Bình Dương được tiến hành theo các chức năng quản lý như sau:
2.4.1. Thực trạng xây dựng kế hoạch lồng ghép HĐGDTTL cho trẻ MG tại trường mầm non tư thục trên địa bàn thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương.
Xây dựng kế hoạch lồng ghép HĐGDTTL cho trẻ MG phải căn cứ vào chương trình GDMN, nhiệm vụ năm học, kế hoạch giáo dục năm học từng lứa tuổi, điều kiện cụ thể của nhà trường để làm cơ sở xây dựng kế hoạch một cách khoa học và có chất lượng. Song trên thực tế, việc xây dựng kế hoạch lồng ghép HĐGDTTL cho trẻ chưa được quan tâm đúng mức, chúng tôi đã tiến hành khảo sát bằng phiếu hỏi trên 200 CBQL và GV, kết quả cụ thể như sau:
Bảng 2.12: Thực trạng xây dựng kế hoạch lồng ghép hoạt động giáo dục tính tính tự lập cho trẻ trong trường mầm non
Thực hiện các bước của lập kế hoạch
Kết quả ở bảng 2.12 thể hiện rằng:
Nội dung I. Xác định các nội dung chính của lập kế hoạch được chia làm 6 nội dung nhỏ, nội dung 1.4 được đánh giá mức thực hiện cao nhất “Rất thường xuyên” (ĐTB 4.31), tuy nhiên kết quả thực hiện của nội dung này chỉ đánh giá ở mức “Trung bình”. ĐLC giữa 2 mức đánh giá dao động 0.515 – 0.609 cho thấy sự tập trung ý kiến đồng tình với đánh giá trên rất cao. Nội dung 1.2 và 1.4 được đánh giá mức độ thực hiện “Thường xuyên” (ĐTB 3.62 và 3.5) và kết quả thực hiện đạt mức “Tốt” ( ĐTB 3.46 – 4.14). Các nội dung 1.1;1.5;1.6 đánh giá mức độ thực hiện “Thi thoảng” (ĐTB 2.97 – 3.14) nhưng kết quả thực hiện nội dung 1.6 được đánh giá “Tốt” còn kết quả nội dung 1.1 và 1.5 đánh giá mức “Trung bình”. Điều này cho thấy sự trái chiều trong ý kiến đánh giá giữa mức độ thực hiện và kết quả ở khảo sát nội dung này.
Nội dung II. Thực hiện các bước của lập kế hoạch được chia 5 nội dung nhỏ, trong đó nội dung 2.1 được đánh giá có mức độ thực hiện tốt nhất “Rất thường xuyên” (ĐTB 4.34) và kết quả thực hiện “Tốt) (ĐTB 3.5). Nội dung 2.3 và 2.5 có mức độ thực hiện đánh giá “Thường xuyên” (ĐTB 3.5 và 3.63), kết quả thực hiện 2 nội dung này đạt mức “Tốt” (ĐTB 3.46 và 3.47). Ở nội dung 2.2 và 2.4 mức độ thực hiện đánh giá “Thỉnh thoảng” (ĐTB 3.09 và 3.14), kết quả thực hiện 2 nội dung này mức “Trung bình” (ĐTB 2.97 và 3.14).
2.4.2. Thực trạng tổ chức thực hiện kế hoạch lồng ghép hoạt động giáo dục tính tự lập cho trẻ mầm non tại trường mầm non tư thục trên địa bàn thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương
Tổ chức thực hiện kế hoạch lồng ghép HĐGDTTLcho trẻ được xem là quá trình phân công nhiệm vụ cho các tổ khối, cá nhân, hướng dẫn chi tiết các nội dung thực hiện trong từng giai đoạn tổ chức hoạt động, tạo cơ chế phối hợp giữa các bộ phận nhằm giúp cho HĐGDTTL đạt được hiệu quả cao nhất.
Bảng 2. 13: Thực trạng tổ chức thực hiện kế hoạch lồng ghép hoạt động giáo dục tính tự lập cho trẻ mẫu giáo tại trường mầm non
Kết quả khảo sát cho thấy việc tổ chức thực hiện HĐGDTTL cho trẻ MG được đánh giá ở mức “Thường xuyên”’ (ĐTB chung là 3.63) và kết quả thực hiện được đánh giá ở mức “ Tốt” (ĐTB chung là 3.56). Độ lệch chuẩn từ 0.654 đến 0.715 cho thấy có sự phân tán ý kiến giữa các nội dung nhưng rất ít. Trong đó, nội dung “Xác định công việc cho các lực lượng giáo dục trong trường” được đánh giá thực hiện “Rất thường xuyên” (ĐTB 4.43) và đánh giá kết quả “Rất tốt” (ĐTB 4.31).
Nội dung “Quy định nhiệm vụ và quyền hạn cho các lực lượng giáo dục trong trường” và Hiệu trưởng tham gia học tập và chú trọng bồi dưỡng nghiệp vụ cho GV về HĐGD TTL cho trẻ MG” được đánh giá mức độ thực hiện “Thường xuyên” (ĐTB 3.62 và 3.49) đồng thời kết quả thực hiện được đánh giá mức “Tốt” (ĐTB 3.43). Nội dung “Xây dựng cơ chế phối hợp giữa các lực lượng giáo dục trong nhà trường” bị đánh giá mức độ thực hiện «Thỉnh thoảng» (ĐTB 2.97) và kết quả «Trung bình» (ĐTB 3.05).
2.4.3. Thực trạng chỉ đạo thực hiện kế hoạch lồng ghép hoạt động giáo dục tính tự lập cho trẻ mẫu giáo tại các trường MN tư thục trên địa bàn thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương Luận văn: Thực trạng giáo dục trẻ mầm non tại xã Bến Cát
Bảng 2. 14: Thực trạng chỉ đạo thực hiện kế hoạch lồng ghép hoạt động giáo dục tính tự lập cho trẻ mẫu giáo tại các trường mầm non
Kết quả khảo sát nhìn chung cho thấy việc chỉ đạo thực hiện HĐGDTTL cho trẻ MG được đánh giá ở mức “Thường xuyên” (ĐTB chung là 3.516) và kết quả thực hiện được đánh giá ở mức “Tốt” (ĐTB chung là 3.415). Độ lệch chuẩn từ 0.666 – 0.674 cho thấy sự tập trung cao ý kiến đánh giá của CBQL và GV. Tuy nhiên, giữa các nội dung chỉ đạo có sự chênh lệch về mức độ đánh giá như sau: Nội dung “Ra các quyết định về HĐGDTTL cho trẻ MGtrong trường MN” và ”Tổng kết việc thực hiện kế hoạch HĐGDTTL” được đánh giá cao có mức độ thực hiện “Rất thường xuyên” (ĐTB 4.34 và 4.44) cùng với kết quả thực hiện được đánh giá mức “ Rất tốt” và “ Tốt” ( ĐTB 4.43 và 3.47). Một số nội dung có sự đánh giá thấp: “Giám sát và thúc đẩy các lực lượng giáo dục ở trường”;”Giám sát và thúc đẩy cha mẹ trẻ”;”Phát động phong trào, khuyến khích GV thực hiện kế hoạch đúng tiến độ và hiệu quả”, ”Yêu cầu GV báo cáo thông tin về HĐGDTTL theo học kỳ” có mức độ thực hiện ”Thỉnh thoảng” (ĐTB dao động 2.97 – 3.18) và kết quả thực hiện mức ”Trung bình” (ĐTB dao động 2.97 – 3.14)
2.4.4. Thực trạng kiểm tra, đánh giá việc thực hiện kế hoạch lồng ghép HĐGDTTL cho trẻ MG tại trường MN tư thục trên địa bàn thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương.
Bảng 2. 15: Thực trạng kiểm tra, đánh giá việc thực hiện kế hoạch lồng ghép HĐGDTTL cho trẻ mẫu giáo
Từ bảng khảo sát 2.15 cho ta thấy đa số cán bộ quản lý giáo viên đánh giá mức độ thực hiện trong kiểm tra đánh giá HĐGDTTL cho trẻ MG ở mức “thường xuyên” với trị trung bình chung là 3.65 và kết quả thực hiện mức “Tốt” với trị trung bình chung là 3.45. Với độ lệch chuẩn từ 0.626 đến 0.696 cho thấy sự tập trung trong ý kiến đánh giá. Đa số nội dung được đánh giá mức thực hiện “Thường xuyên” với ĐTB dao động 3.47 đến 4.31 và kết quả thực hiện được đánh giá “Tốt” với ĐTB dao động 3.47 đến 3.79. Riêng nội dung “Điều chỉnh, bổ sung, đề xuất cải tiến kế hoạch tốt hơn” bị đánh giá thấp hơn với mức độ thực hiện «Thỉnh thoảng» (ĐTB 3.08) và kết quả thực hiện «Trung bình» (ĐTB 3.0). Ghi nhận thêm ý kiến qua phỏng vấn CBQL như sau: “Về mặt kiểm tra, đánh giá kết quả HĐGDTTL, chúng tôi chủ yếu dựa vào hai yếu tố: một là hiệu quả trong việc tổ chức thực hiện của GV, hai là hiệu quả đạt được của trẻ”(QL003),“Căn cứ vào hướng dẫn thực hiện chương trình GDMN, chúng tôi tiến hành xây dựng các tiêu chí đánh giá kết quả HĐGDTTL cho trẻ MG trong bộ chuẩn đánh giá cuối độ tuổi” (QL004),“Việc kiểm tra, đánh giá chất lượng giáo dục diễn ra theo kế hoạch kiểm tra chuyên môn, kế hoạch thao giảng dự giờ, kiểm tra hoạt động hàng ngày, đột xuất… trong đó có việc đánh giá chất lượng GDTTL các lớp chưa có kế hoạch riêng, cụ thể. Để đánh giá chất lượng HĐGDTTL chủ yếu thông qua quan sát, kết quả đánh giá cuối chủ đề, đánh giá cuối ngày” (QL005).
2.5. Thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý hoạt động giáo dục tính tự lập cho trẻ mẫu giáo tại các trường mầm non tư thục trên địa bàn thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương Luận văn: Thực trạng giáo dục trẻ mầm non tại xã Bến Cát
2.5.1. Yếu tố khách quan (quan điểm chỉ đạo, giáo viên, trẻ, môi trường xã hội, cơ sở vật chất và gia đình trẻ)
Bảng 2. 16: Thực trạng yếu tố khách quan ảnh hưởng đến quản lý hoạt động giáo dục tính tự lập cho trẻ mẫu giáo tại các trường mầm non
Qua kết quả ở bảng 2.16 cho thấy yếu tố “Cơ chế chính sách đối với đội ngũ giáo viên mầm non giúp họ yên tâm công tác” và yếu tố “Nhận thức, năng lực và kinh nghiệm của GVMN về HĐGD TTL cho trẻ” được đánh giá là 2 yếu tố xếp thứ 01 và thứ 02 có sự ảnh hưởng gây khó khăn “Rất nhiều” nếu không đảm bảo và cũng tạo thuận lợi “ Rất nhiều” nếu đảm bảo. Trị trung bình 2 yếu tố này dao động từ 4.26 đến 4.34, độ lệch chuẩn dao động 0.562 – 0.626 cho thấy đa số ý kiến tập trung lựa chọn 2 yếu tố này.
Các yếu tố“Môi trường xã hội (sự phát triển KT – VH – XH) ảnh hưởng trình độ dân trí, văn hóa” và “Sự nhận thức, quan điểm của gia đình trẻ về HĐGD TTL cho trẻ” được đánh giá với mức ảnh hưởng thấp hơn, cụ thể là gây khó khăn “Vừa” và tạo thuận lợi cũng “Vừa” đối với quản lý HĐGDTTL cho trẻ MG. Trị trung bình dao động 3.06 đến 3.13, độ lệch chuẩn dao động 0.710 – 0.776 có sự phân tán ý kiến nhiều hơn ở hai yếu tố này.
2.5.2. Yếu tố chủ quan (Hiệu trưởng)
Bảng 2. 17: Thực trạng yếu tố chủ quan ảnh hưởng đến quản lý hoạt động giáo dục tính tự lập cho trẻ mẫu giáo tại các trường mầm non
Kết quả bảng 2.17 cho thấy yếu tố được đánh giá cao nhất, được cho là có ảnh hưởng gây khó khăn “Rất nhiều” và tạo thuận lợi “ Rất nhiều” là “Năng lực, trình độ, kinh nghiệm quản lí của người hiệu trưởng đối với HĐGD TTL” với ĐTB là 4.44 và độ lệch chuẩn 0.590 cho thấy sự tập trung tuyệt đối lựa chọn yếu tố này. Các yếu tố được cho là có tầm ảnh hưởng thấp hơn “Nhận thức của hiệu trưởng về tầm quan trọng của công tác giáo dục TTL đối với sự phát triển toàn diện của trẻ” và “Sự phối hợp giữa hiệu trưởng với các lực lượng tham gia giáo dục tính tự lập khác trong và ngoài nhà trường sẽ góp phần quy định chất lượng giáo dục tính tự lập cho trẻ” được đánh giá là gây khó khăn “Vừa” và tạo thuận lợi “Vừa” với ĐTB dao động 2.92 – 3.14.
2.6. Đánh giá chung về thực trạng quản lý hoạt động giáo dục tính tự lập cho trẻ MG tại trường MN tư thục trên địa bàn thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương Luận văn: Thực trạng giáo dục trẻ mầm non tại xã Bến Cát
2.6.1. Ưu điểm
Hầu hết các CBQL, GV và PHHS có nhận thức tốt về tầm quan trọng của HĐGDTTL đối với trẻ MG ở trường mầm non. Có sự tương đồng trong quan điểm, nhận thức giữa CBQL và PHHS, điều này là dấu hiệu tốt giúp cho sự phối hợp giữa nhà trường và phụ huynh trong giáo dục TTL trẻ thuận lợi, hiệu quả hơn.
Thực trạng xây dựng kế hoạch lồng ghép HĐGDTTL được CBQL nhận thức cao tầm quan trọng và thực hiện khá thường xuyên. Đa số CBQL trong xây dựng kế hoạch đã xác định được các nội dung chính của hoạt động và thực hiện đầy đủ các bước lập kế hoạch. Cụ thể những việc đã làm tốt: xác định vai trò, mục đích, nội dung HĐGD TTL cho trẻ; bồi dưỡng cho đội ngũ giáo viên nhận thức vai trò, mục đích, nội dung cho HĐGDTTL; xác định kế hoạch hành động, chức năng nhiệm vụ các bộ phận liên quan HĐGD TTL cho trẻ. Khi xây dựng kế hoạch, CBQL thường xuyên chú trọng nghiên cứu các văn bản chỉ đạo của Bộ, Sở, Phòng về chuyên môn có liên quan HĐGDTTL. Kế hoạch có cơ sở khoa học, chuyên môn và có tính pháp lý.
Thực trạng công tác tổ chức quản lý HĐGDTTL cho trẻ đa số CBQL đã làm tốt các nội dung: xác định được công việc cho các lực lượng giáo dục trong trường cũng như xác định được chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của họ trong việc thực hiện kế hoạch lồng ghép HĐGDTTL cho trẻ. Thực trạng cũng cho thấy việc hiệu trưởng thường xuyên tham gia và thực hiện tương đối tốt việc học tập và chú trọng bồi dưỡng nghiệp vụ cho GV về HĐGD TTL.
Thực trạng công tác chỉ đạo thực hiện trong quản lý HĐGDTTL cho trẻ cho thấy hầu hết CBQL làm tốt việc: ra các quyết định về HĐGDTTL cho trẻ MG trong trường MN đồng thời hướng dẫn GV thực hiện các quyết định đã ban hành. CBQL thường xuyên tổ chức được nhiều hình thức hoạt động phù hợp để nhằm GDTTL cho trẻ, chú trọng việc tổ chức tổng kết việc thực hiện kế hoạch HĐGDTTL cho trẻ.
Thực trạng công tác kiểm tra đánh giá trong quản lý HĐGDTTL cho trẻ MG cho thấy CBQL có sự chú trọng việc xây dựng các tiêu chí đánh giá và thực hiện tốt nhất qua xây dựng bộ tiêu chí đánh giá riêng lẻ từng chỉ số theo bộ chuẩn từng lứa tuổi, đồng thời làm tốt việc hướng dẫn GV thực hiện theo tiêu chí đánh giá HĐGDTTL cho trẻ. Bên cạnh đó, việc xác định các hình thức, phương pháp kiểm tra, đánh giá HĐGD TTL cho trẻ cũng được CBQL thực hiện thường xuyên, cụ thể là hình thức đánh giá HĐGD TTL qua quan sát những dấu hiệu về TTL của trẻ trong sinh hoạt hàng ngày được thực hiện tốt nhất và hình thức kiểm tra định kì hàng tháng trong các hoạt động dạy học, dự giờ, thao giảng thực hiện khá thường xuyên, hiệu quả. Qua kiểm tra đánh giá CBQL có sự chú trọng việc nhận xét, rút kinh nghiệm cho GV để thực hiện tốt hơn.
Thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý HĐGDTTL cho trẻ mẫu giáo được CBQL và GV đánh giá có sự tương đồng cao cho thấy sự đồng nhất trong quan điểm.
Về yếu tố khách quan đa số nhận thức tầm ảnh hưởng lớn của các yếu tố như: quan điểm chỉ đạo của Bộ, ngành, các quyết sách về HĐGD TTL cho trẻ; sự phối hợp đồng bộ giữa các lực lượng giáo dục (nhà trường, gia đình và xã hội); điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị, nguồn kinh phí đầu tư cho hoạt động giáo dục TTL. Trong đó, yếu tố được coi trọng nhất là: Cơ chế chính sách đối với đội ngũ giáo viên mầm non giúp họ yên tâm công tác và nhận thức, năng lực và kinh nghiệm của GVMN về HĐGD TTL cho trẻ.
Về yếu tố chủ quan đa số nhận thức các yếu tố sau là quan trọng và cần thiết đối với người Hiệu trưởng: tinh thần trách nhiệm, nhiệt huyết của Hiệu trưởng đối với HĐGDTTL cho trẻ; sự chỉ đạo đúng hướng, tạo điều kiện về tinh thần, vật chất, động viên, khích lệ GV. Và yếu tố được cho là có tầm ảnh hướng lớn nhất là: năng lực, trình độ, kinh nghiệm quản lí của người hiệu trưởng đối với HĐGD TTL cho trẻ.
2.6.2. Hạn chế Luận văn: Thực trạng giáo dục trẻ mầm non tại xã Bến Cát
Đa số PHHS còn thể hiện sự phân vân, chưa đồng ý với mục đích GDTTL cho trẻ MG, điều này cho thấy PHHS chưa nắm bắt, hiểu rõ về mục tiêu giáo dục lứa tuổi nói chung và mục đích GDTTL mà các nhà trường đề ra. Tâm lý phụ huynh còn e ngại, lo lắng về khả năng tự lập của trẻ lứa tuổi MN.
Về nội dung GDTTL ở các lứa tuổi có sự chênh lệch khi đa số GV và PHHS đều đánh giá thấp mức độ thực hiện và kết quả giáo dục TTL của trẻ 3 – 4 tuổi, cho thấy sự chưa chú trọng trong tổ chức HĐGDTTL cho trẻ độ tuổi này và đánh giá thấp khả năng tự lập của độ tuổi này.
Các hình thức tổ chức HĐGDTTL trong trường mầm non có sự không đồng đều, đa số chỉ chú trọng trong giáo dục thông qua chế độ sinh hoạt, vui chơi chưa chú trọng giáo dục trẻ ở các hoạt động khác: hoạt động học, ngoại khóa, lao động trực nhật…
Thực trạng xây dựng kế hoạch HĐGDTTL CBQL có những nội dung công việc chưa chú trọng và thực hiện không thường xuyên, kết quả chưa tốt. Cụ thể khi xác định nội dung xây dựng kế hoạch đa số CBQL chưa chú trọng phân tích thực trạng HĐGDTTL của nhà trường những năm gần đây để thấy được điểm làm tốt cần phát huy và điểm tồn tại cần khắc phục. Việc xác định nguồn lực, phương pháp, hình thức, phương tiện để tổ chức HĐGDTTL cũng chưa thường xuyên và hiệu quả. Một trong những công việc quan trọng nhất khi xây dựng kế hoạch hoạt động là phải xây dựng công cụ để đánh giá kết quả cũng chưa được CBQL thực hiện chi tiết, hợp lý thì công tác kiểm tra đánh giá hoạt động mới thuận lợi, hiệu quả. Bên cạnh đó, hầu hết CBQL vẫn tồn đọng việc đơn phương thực hiện xây dựng kế hoạch, trước khi triển khai thực hiện họ thường ít tổ chức lấy ý kiến của GV, tổ trưởng về HĐGDTTL theo từng lứa tuổi. Đa số tự thực hiện hoặc lấy ý kiến theo hình thức qua loa, cả nể, không sát thực nên ý kiến đóng góp chưa tốt. Luận văn: Thực trạng giáo dục trẻ mầm non tại xã Bến Cát
Thực trạng công tác tổ chức thực hiện quản lý HĐGDTTL cho trẻ MG vẫn còn tồn tại một số hạn chế: Việc xây dựng cơ chế phối hợp giữa các lực lượng giáo dục trong nhà trường còn qua loa, lỏng lẻo chưa hiệu quả; Hiệu trưởng chưa làm tốt việc bồi dưỡng nhận thức, hiểu biết về đặc điểm nhà trường, địa phương cho GV nắm bắt. Chưa có nhiều chuyên đề về HĐGDTTL trẻ MG tổ chức trong địa bàn để GV được tham gia học tập, cọ sát, học hỏi kinh nghiệm. Đa số các trường chưa có điều kiện, chưa chú trọng việc mời báo cáo viên, chuyên gia về tại trường tập huấn cho GV.
Thực trạng công tác chỉ đạo quản lý HĐGDTTL cho trẻ MG còn tồn tại nhưng hạn chế: Do công tác tổ chức chưa chú trọng xây dựng cơ chế phối hợp giữa các lực lượng giáo dục trong nhà trường dẫn đến việc giám sát thúc đẩy các lực lượng giáo dục trong nhà trường cũng lỏng lẻo, không sát sao hiệu quả. Lực lượng phối hợp ngoài nhà trường là cha mẹ trẻ cũng chưa được chú trọng xây dựng cơ chế phối hợp dẫn đến việc giám sát thúc đẩy cha mẹ trẻ cùng phối hợp HĐGDTTL cho trẻ không thực hiện thường xuyên, kết quả không tốt. Ngoài ra, CBQL trường MNNCL chưa chú trọng hình thức phát động phong trào nhằm khuyến khích GV thực hiện kế hoạch đúng tiến độ và đạt hiệu quả. Cơ chế báo cáo, phản hồi thông tin từ GV lên BGH về HĐGDTTL theo học kỳ chưa được chú trọng, sâu sát.
Thực trạng công tác kiểm tra đánh giá quản lý HĐGDTTL cho trẻ tồn tại những hạn chế như sau: Trong việc xây dựng bộ công cụ đánh giá đa số CBQL chưa chú trọng việc đánh giá các chỉ số GDTTL dựa vào nội dung GDTTL trong chương trình GDMN (đánh giá theo mục tiêu GDTTL trong chương trình GDMN) dẫn đến khi thực hiện đánh giá thì hình thức đánh giá HĐGDTTL cho trẻ qua hồ sơ, sổ sách của GV gặp nhiều hạn chế, không thực hiện thường xuyên và kết quả đánh giá không thể hiện rõ. Hình thức kiểm tra đột xuất trong các hoạt động giáo dục khác cũng không được thực hiện tốt do chưa xây dựng tiêu chí đánh giá theo mọi hoạt đồng hàng ngày trong chương trình GDMN. Hạn chế cần lưu ý đối với hầu hết CBQL các trường còn tồn tại đó là chưa thực hiện tốt việc điều chỉnh, bổ sung, đề xuất cải tiến để kế hoạch tốt hơn.
Thực trạng yếu tố ảnh hưởng đến quản lý HDGDTTL cho trẻ MG thể hiện một số hạn chế trong nhận thức của CBQL và GV như sau:
- Về yếu tố khách quan đa số CBQL và GV đều cho rằng yếu tố Môi trường xã hội (sự phát triển KT – VH – XH), trình độ dân trí, văn hóa và yếu tố nhận thức, quan điểm của gia đình trẻ về HĐGDTTL cho trẻ không ảnh hưởng nhiều đến việc quản lý HĐGDTTL cho trẻ. Tức những yếu tố này không gây khó khăn cũng không tạo thuận lợi nhiều cho HĐGD.
- Về yếu tố chủ quan đa số CBQL và GV cho rằng nhận thức của hiệu trưởng về tầm quan trọng của HĐGDTTL đối với sự phát triển toàn diện của trẻ và sự phối hợp giữa hiệu trưởng với các lực lượng tham gia giáo dục TTL khác trong nhà trường là không ảnh hưởng nhiều đến chất lượng HĐGDTTL cho trẻ.
2.6.3. Nguyên nhân của những hạn chế Luận văn: Thực trạng giáo dục trẻ mầm non tại xã Bến Cát
Qua nghiên cứu văn bản báo cáo tổng kết năm học 2018 – 2019 và 2019 – 2020 của các trường mầm non tư thục trên địa bàn thị xã Bến Cát và khảo sát thực tiễn tác giả đưa ra một số nguyên nhân dẫn đến hạn chế trên như sau:
Hầu hết CBQL và GV xây dựng kế hoạch lồng ghép GDTTL còn mang tính hình thức và chưa chi tiết, chưa bám sát thực tiễn. CBQL xây dựng KH năm học, kế hoạch giáo dục năm học, lồng ghép mục tiêu GDTTL tuy nhiên chưa sâu sát từng lứa tuổi. Từ đó triển khai cho GV thực hiện xây dựng KH năm học và KH giáo dục nhóm lớp cũng chưa bám đặc điểm trẻ, tình hình thực tiễn lớp.
Đội ngũ trường MN tư thục đa số từ mọi vùng miền đến công tác, người địa phương rất ít nên việc nắm bắt tình hình môi trường xã hội và địa phương không được chú trọng. Sự chưa đồng nhất trong quan điểm giữa PH và nhà trường sẽ ảnh hưởng lớn đến HĐGDTTL cho trẻ mà thực tế CBQL và GV còn xem nhẹ vấn đề này.
Công tác tuyên truyền các hoạt động giáo dục chưa được chú trọng, hầu hết các trường MN tư thục thực hiện công tác tuyên truyền theo hình thức đối phó, chưa thường xuyên, thực chất để PHHS nắm bắt và hiểu rõ các hoạt động giáo dục của trường.
Đội ngũ giáo viên tư thục thiếu ổn định, thiếu kỹ năng tay nghề nên chưa đa dạng hình thức, phương pháp tổ chức HĐGDTTL cho trẻ.
Phụ huynh và trẻ các trường MN tư thục đa số là người từ các nới khác đến công tác, làm ăn, sinh sống. Sự ổn định và gắn bó không cao do đó thiếu quan tâm đên các hoạt động trong nhà trường và chưa có sự phối hợp chặt chẽ trong mọi hoạt động. Từ đó dẫn đến sự không chú trọng trong việc xây dựng cơ chế phối hợp giữa các lực lượng trong và ngoài nhà trường.
Đa số CBQL trường tư thục còn thiếu kinh nghiệm và năng lực trong việc phân tích thực trạng, phân tích Swot để nhằm xây dựng kế hoạch một cách thực tế, hiệu quả. Xây dựng kế hoạch còn mang tính hình thức, bắt buộc, chú trọng đảm bảo cơ sở pháp lý và khoa học chứ không bám sát chuyên môn và thực tiễn nhiều. Năng lực, kinh nghiệm CBQL MN tư thục trong xây dựng kế hoạch và tổ chức chỉ đạo chưa đồng đều, chưa sâu nên còn chồng chéo trong việc tổ chức chỉ đạo thực hiện và kiểm tra đánh giá. Công việc ôm đồm dẫn đến các nội dung thực hiện nhưng không đảm bảo thường xuyên và không đạt hiệu quả tốt, không có chất lượng.
Bộ máy BGH trường tư thục thiếu kiện toàn, không đủ cơ cấu tổ chức, một số trường không xây dựng tổ khối để sinh hoạt chuyên môn, dẫn đến việc tổ chức bồi dưỡng GV chưa sâu sát, chưa đi sâu đặc điểm từng GV để có kết quả bồi dưỡng hiệu quả, chất lượng. Nội dung bồi dưỡng chưa được nghiên cứu chặt chẽ, bám sát thực tiễn nên thiếu hiệu quả. Luận văn: Thực trạng giáo dục trẻ mầm non tại xã Bến Cát
Chưa có điều kiện kinh phí, trang thiết bị, vật lực để tổ chức phong phú nhiều hình thức HĐGDTTL cho trẻ, cũng như phát động nhiều phong trào động viên khích lệ GV phấn đấu. Cơ chế chính sách các trường tư thục chưa ổn định, chưa đồng đều chưa tạo được động lực phấn đấu cho đội ngũ.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Qua nghiên cứu thực trạng quản lý HĐGDTTL cho trẻ MG trên địa bàn thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương, chúng tôi có một số kết luận như sau:
Hầu hết các trường mầm non tư thục trên địa bàn đã xây dựng kế hoạch và tổ chức được HĐGDTTL cho trẻ MG theo một số hình thức và phương pháp nhất định. CBQL, GV và PHHS đã có nhận thức tích cực về tầm quan trọng của HĐGDTTL cho trẻ trong trường mầm non. Trong quản lí đã tiến hành lập kế hoạch hoạt động, có sự phân công và chỉ đạo các lực lượng trong quá trình thực hiện. Bước đầu kiểm tra đánh giá nghiêm túc hoạt động, có nhận xét rút kinh nghiệm cho GV thực hiện.
Tuy nhiên, so với yêu cầu thực hiện các hoạt động giáo dục trong nhà trường, HĐGDTTL ở các trường mầm non tư thục trên địa bàn vẫn chưa được quan tâm đầu tư sâu sát. Hình thức tổ chức và phương pháp tổ chức HĐGDTTL cho trẻ MG còn rập khuôn, máy móc, chưa linh hoạt, sáng tạo, chưa khai thác triệt để. Việc quản lí HĐGDTTL của đội ngũ CBQL, GV còn chưa đi vào nề nếp và có chiều sâu, chưa thực sự đóng góp nhiều cho việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện của nhà trường. HĐGDTTL chưa được thực hiện một cách toàn diện và khoa học, từ việc xây dựng chương trình kế hoạch, bồi dưỡng đội ngũ CBQL, GV, huy động các lực lượng giáo dục đến việc kiểm tra, đánh giá kết quả hoạt động. Điều này đã ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng và hiệu quả HĐGDTTL và ảnh hưởng tới chất lượng giáo dục toàn diện cho trẻ của nhà trường.
Có nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến thực trạng trên, trong đó quan trọng nhất vẫn là nhận thức của CBQL và GV, năng lực tổ chức HĐGDTTL và các điều kiện để tổ chức thực hiện hoạt động này trong nhà trường. Ngoài ra, có một số nguyên nhân thuộc về cơ chế, chính sách quản lí và biện pháp quản lí. Những hạn chế và nguyên nhân về mặt cơ chế, chính sách và biện pháp quản lí cần phải có sự nhìn nhận, đánh giá một cách chính xác, làm cơ sở để đổi mới các biện pháp quản lí HĐGDTTL đạt kết quả tốt hơn, khắc phục những hạn chế, yếu kém hiện nay. Luận văn: Thực trạng giáo dục trẻ mầm non tại xã Bến Cát
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Luận văn: Biện pháp quản lý giáo dục trẻ tại xã Bến Cát

Dịch Vụ Viết Luận Văn Ngành Luật 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://vietluanvanluat.com/ – Hoặc Gmail: vietluanvanluat@gmail.com
Pingback: Luận văn: Khái quát giáo dục ở mần non tư thục xã Bến Cát