Luận văn: Quản lý hoạt động kiểm tra đánh giá học tập học sinh

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Quản lý hoạt động kiểm tra đánh giá học tập học sinh hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm khóa luận thì với đề tài Luận văn: Quản lý hoạt động kiểm tra đánh giá học tập của học sinh ở trường Trung học phổ thông 3 Nguyễn Du – Thanh Oai đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục trong giai đoạn hiện nay dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, nguồn lực con người của Việt Nam càng trở nên có ý nghĩa quan trọng, là chìa khóa quyết định sự thành công của công cuộc phát triển đất nước. Giáo dục ngày càng có vai trò và nhiệm vụ quan trọng trong việc xây dựng một thế hệ người Việt Nam mới, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội. Tuy nhiên việc phát triển và hội nhập ngày càng sâu rộng vào cộng đồng thế giới cũng đặt ra cho chúng ta nhiều thách thức to lớn, đòi hỏi ngành Giáo dục phải có sự thay đổi mạnh mẽ để tránh nguy cơ tụt hậu về Giáo dục cũng như chủ động tham gia vào thị trường Giáo dục thế giới. Vấn đề thực tế đặt ra cho Giáo dục là phải có chiến lược phát triển đúng hướng, hợp quy luật, xu thế và xứng tầm thời đại.

Nghị quyết số 29, Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo với mục tiêu tổng quát là tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả Giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân. Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả. Nghị quyết đã chỉ rõ những mặt yếu kém về Giáo dục còn tồn tại, trong đó có tình trạng “còn nặng lý thuyết, nhẹ thực hành” và “phương pháp giáo dục, việc thi, kiểm tra và đánh giá kết quả còn lạc hậu, thiếu thực chất”.

Hoạt động kiểm tra đánh giá (KTĐG) là một khâu quan trọng trọng quá trình dạy học ở trường phổ thông. Tuy nhiên lâu nay chúng ta mới chỉ chú trọng Kiểm tra đánh giá kiểu đo đếm kiến thức, (trong đó chủ yếu vẫn là ĐG sự ghi nhớ), chưa chú trọng vận dụng kiến thức vào các tình huống thực tiễn cuộc sống; chưa khuyến khích được sự sáng tạo và những suy nghĩ cá nhân. Thời điểm ĐG chủ yếu là ĐG kết quả học tập (ĐG tổng kết) chứ không chú trọng ĐG quá trình. Thực tế đó dẫn đến việc dạy – học cũng trở nên đối phó kiểu “ứng thí”, việc thi cử trở thành nặng nề, căng thẳng, nạn tiêu cực trong thi cử và bệnh bệnh thành tích trong Giáo dục cũng vì thế càng trở nên nhức nhối trong dư luận và gây bức xúc trong Xã hội.

Từ thực tế đó Nghị quyết số 29, Hội nghị Trung ương 8 khóa XI đưa ra định hướng đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo mà “Đổi mới căn bản hình thức và phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá kết quả giáo dục, đào tạo, bảo đảm trung thực, khách quan” là một trong những mục tiêu, giải pháp trọng yếu nhất để đổi mới Giáo dục. [2, tr: 8]

Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo là một quá trình lâu dài và đồng bộ, song đổi mới Kiểm tra đánh giá có thể coi là khâu đột phá có thể thực hiện trước vì giải quyết tốt khâu này có thể làm lay chuyển cả hệ thống và tác động mạnh mẽ, tích cực đến việc đổi mới ở các khâu quan trọng khác. Luận văn: Quản lý hoạt động kiểm tra đánh giá học tập học sinh.

Trên thế giới, từ những thập niên cuối của thế kỉ XX đã có một cuộc cách mạng về Kiểm tra đánh giá với những thay đổi căn bản về triết lí, quan điểm, phương pháp và các hoạt động cụ thể. Những thay đổi trên thể hiện quan điểm mới: coi người học (learner) và quá trình học tập (learning) là trung tâm của toàn bộ hoạt động Giáo dục.

Đứng trước vấn đề trên đòi hỏi người quản lý (QL) cần phải có biện pháp Quản lý thích hợp hoạt động Kiểm tra đánh giá để đáp ứng yêu cầu đổi mới trong bối cảnh hiện nay.

Những năm qua, Giáo dục – Đào tạo cả nước và Thành phố Hà Nội nói chung, trường trung học phổ thông Nguyễn Du – Thanh Oai nói riêng đã đạt được những thành tích đáng khích lệ, nhưng nhìn chung chất lượng và hiệu quả còn hạn chế, phần nào chưa đáp ứng được yêu cầu của giai đoạn mới.

Trường Trung học phổ thông Nguyễn Du – Thanh Oai nằm trên địa bàn phía nam (cuối) của huyện Thanh Oai, là địa bàn nông thôn chủ yếu làm nông nghiệp đời sống kinh tế – xã hội của nhân dân còn nhiều khó khăn. Trong nhiều năm nay, chất lượng đầu vào của HS trường Trung học phổ thông Nguyễn Du – Thanh Oai thường không cao, khoảng từ 32 đến 36 điểm (trong khi đó các trường nội thành thường xấp xỉ 50 điểm). Ước tính bình quân, tỷ lệ HS bỏ học và lưu ban hàng năm khoảng 6%, trong đó tỷ lệ HS bỏ học là 1,7%; Ngoài ra, cũng có thể thấy rằng tỷ lệ HS đậu vào các trường Đại học, Cao đẳng và các trường dạy nghề trên địa bàn nhìn chung còn rất khiêm tốn (bình quân hàng năm khoảng dưới 20%), số lượng HS tốt nghiệp phổ thông so với tỷ lệ của Thành phố Hà Nội còn thấp (khoảng dưới 95 %) vì vậy HS đi vào con đường lao động phổ thông còn nhiều.

Hoạt động Kiểm tra đánh giá quá trình học tập ở nhà trường lâu nay thường chưa được chú trọng đúng mức và đúng mục đích. Đối với những kỳ thi tổ chức chung như thi tốt nghiệp ở lớp 12 hay thi tuyển sinh đầu cấp đều do cấp trên tiến hành, nhà trường chỉ thực hiện theo khuôn mẫu chung. Còn hoạt động Kiểm tra đánh giá định kỳ, thường xuyên các môn học chủ yếu giao cho GV bộ môn tự tiến hành theo khung lịch của nhà trường. Việc Kiểm tra đánh giá truyền thống chủ yếu nhằm mục đích phân hạng đối tượng HS, trên cơ sở đó xét khen thưởng hoặc lên lớp, lưu ban chứ chưa thực sự vì sự tiến bộ của người học. Quan điểm ĐG thì khi “tả” khi “hữu”, nghĩa là ra đề thật khó, coi, chấm thật chặt tay để HS “phải sợ mà trở nên chăm chỉ hơn” hoặc làm quá dễ dãi, qua quýt cho xong việc với tư tưởng “thương học trò”.

Công tác bồi dưỡng, phổ biến những phương pháp, quan điểm Kiểm tra đánh giá mới cũng ít khi được thực hiện. Trong năm học trước, Sở Giáo dục&ĐT Hà Nội có tổ chức một lớp tập huấn cho GV Trung học phổ thông (mỗi đơn vị 1 người) về ĐG kiểu PISA, nhưng việc phổ biến, áp dụng thử nghiệm chưa tiến hành được do nhiều lý do khách quan và chủ quan.

Áp lực từ những kỳ thi tốt nghiệp và thi đại học khiến cho cả guồng máy dạy học và Kiểm tra đánh giá đều phải lo đối phó và thích ứng. Trong giờ học thầy buộc phải ra sức “nhồi” kiến thức, bài Kiểm tra cũng trở thành những bài luyện kỹ năng thi (viết tự luận và Trắc nghiệm khách quan). Luận văn: Quản lý hoạt động kiểm tra đánh giá học tập học sinh.

Có thể nói việc Kiểm tra đánh giá học tập của HS ở các trường Trung học phổ thông nói chung, ở trường Trung học phổ thông Nguyễn Du – Thanh Oai nói riêng hiện nay cơ bản vẫn theo lối truyền thống, mục đích chỉ là Kiểm tra kiến thức để phân hạng trình độ, hình thức ĐG còn nghèo nàn, một chiều, phương tiện ĐG còn thô sơ, chuẩn ĐG thiếu thống nhất và tùy thuộc vào khả năng, trình độ, điều kiện, tâm huyết của mỗi GV bộ môn.

Xuất phát từ thực tế của đơn vị, trên cương vị là Phó Hiệu trưởng được phân công phụ trách công tác Kiểm tra đánh giá HS, tác giả quyết định lựa chọn đề tài “Quản lý hoạt động kiểm tra đánh giá học tập của học sinh ở trường Trung học phổ thông Nguyễn Du – Thanh Oai đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục trong giai đoạn hiện nay”.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ: 

===>>> Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Quản Lý Giáo Dục

2. Câu hỏi nghiên cứu

Câu hỏi được đặt ra cho vấn đề nghiên cứu là:

  • Hoạt động Kiểm tra đánh giá học tập của HS trong nhà trường Trung học phổ thông đã được quản lý như thế nào?
  • Cần những biện pháp Quản lý như thế nào để hoạt động Kiểm tra đánh giá học tập của HS ở trường Trung học phổ thông Nguyễn Du – Thanh Oai đáp ứng được yêu cầu đổi mới giáo dục trong giai đoạn hiện nay?

3. Giả thuyết khoa học

Hoạt động Kiểm tra đánh giá học tập của HS ở trường Trung học phổ thông Nguyễn Du -Thanh Oai sẽ chính xác, khách quan, toàn diện, có tác dụng khuyến khích người học, thúc đẩy đổi mới phương pháp dạy của GV và phương pháp học của HS, đáp ứng được yêu cầu đổi trong giai đoạn hiện nay nếu áp dụng các biện pháp Quản lý công tác Kiểm tra đánh giá được đề xuất trong luận văn.

4. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và và thực tiễn Quản lý hoạt động Kiểm tra đánh giá học tập của HS ở trường Trung học phổ thông Nguyễn Du – Thanh Oai, Thành phố Hà Nội, tác giả đề xuất một số biện pháp Quản lý hoạt động Kiểm tra đánh giá học tập HS tại Trung học phổ thông Nguyễn Du – Thanh Oai, Thành phố Hà Nội đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay.

5. Khách thể và đối tượng nghiên cứu Luận văn: Quản lý hoạt động kiểm tra đánh giá học tập học sinh.

5.1. Khách thể nghiên cứu

Hoạt động Kiểm tra đánh giá kết quả học tập của HS ở trường Trung học phổ thông.

5.2. Đối tượng nghiên cứu

Quản lý hoạt động Kiểm tra đánh giá kết quả học tập của HS ở trường Trung học phổ thông Nguyễn Du – Thanh Oai, Thành phố Hà Nội.

6. Phạm vi nghiên cứu

Đề tài này chỉ nghiên cứu các biện pháp Quản lý hoạt động Kiểm tra đánh giá học tập các môn văn hóa của HS ở trường Trung học phổ thông Nguyễn Du – Thanh Oai, Thành phố Hà Nội trong khoảng thời gian từ năm 2010 đến năm 2015.

7. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích nghiên cứu đề ra như trên, đề tài sẽ tập trung vào các nhiệm vụ sau:

7.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về Kiểm tra đánh giá học tập của HS trong nhà trường Trung học phổ thông, về công tác Quản lý hoạt động Kiểm tra đánh giá học tập của HS ở trường Trung học phổ thông;

7.2. Khảo sát thực trạng hoạt động Kiểm tra đánh giá học tập của HS và thực trạng công tác Quản lý hoạt động Kiểm tra đánh giá học tập của HS ở trường Trung học phổ thông Nguyễn Du – Thanh Oai và phân tích nguyên nhân của thực trạng;

7.3. Trên cơ sở phân tích thực trạng và nguyên nhân, đề xuất một số biện pháp Quản lý hoạt động Kiểm tra đánh giá học tập của HS đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay.

8. Phương pháp nghiên cứu

8.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận

Để có cơ sở lý luận làm nền tảng cho quá trình nghiên cứu. Tác giả tiến hành thu thập tài liệu lý luận, nghiên cứu tài liệu, các văn bản pháp quy về giáo dục và đào tạo, các công trình khoa học về Quản lý giáo dục, Quản lý dạy học, Kiểm tra đánh giá từ đó phân tích tổng hợp vấn đề từ góc lý luận có liên quan đến luận văn.

8.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn Luận văn: Quản lý hoạt động kiểm tra đánh giá học tập học sinh.

  • Phương pháp quan sát: Tiếp cận, xem xét các dữ liệu từ thực tế của hoạt động Kiểm tra đánh giá.
  • Phương pháp điều tra viết bằng bảng hỏi để ĐG thực trạng về Kiểm tra, ĐG.
  • Phương pháp chuyên gia: Gặp gỡ trao đổi trực tiếp với những chuyên gia, cán bộ Quản lý trong nhà trường từ trưởng nhóm (môn học) trở lên về thực trạng Quản lý Kiểm tra đánh giá và những vấn đề cần giải quyết.
  • Phương pháp tổng kết kinh nghiệm để tổng kết những kết quả nghiên cứu về lý luận và thực tiễn trước khi kết luận và đề xuất biện pháp .

8.3. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm để đánh giá chất lượng

Sử dụng phương pháp toán thống kê để xử lý và phân tích các số liệu từ các phiếu thu thập được.

9. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

9.1. Ý nghĩa lý luận

Làm phong phú thêm lý luận về quản lý hoạt động Kiểm tra đánh giá HS.

  • Hệ thống hoá lý luận các biện pháp Quản lý hoạt động Kiểm tra đánh giá học tập của HS ở trường Trung học phổ thông.
  • Đưa ra một số biện pháp Quản lý phù hợp và hiệu quả trong công tác Kiểm tra đánh giá học tập của HS trong giai đoạn mới.

9.2. Ý nghĩa thực tiễn:

Kết quả nghiên cứu có thể được áp dụng cho công tác Quản lý hoạt động Kiểm tra đánh giá học tập của HS ở trường Trung học phổ thông Nguyễn Du – Thanh Oai trong bối cảnh mới.

10. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn được trình bày theo 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý hoạt động Kiểm tra đánh giá học tập của HS đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục trong giai đoạn hiện nay ở trường Trung học phổ thông.

Chương 2: Thực trạng công tác quản lý hoạt động Kiểm tra đánh giá học tập của HS hiện nay ở trường Trung học phổ thông Nguyễn Du – Thanh Oai. Luận văn: Quản lý hoạt động kiểm tra đánh giá học tập học sinh.

Chương 3: Các biện pháp quản lý hoạt động Kiểm tra đánh giá học tập của HS ở trường Trung học phổ thông Nguyễn Du – Thanh Oai đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục trong giai đoạn hiện nay.

CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ QUẢN LÍ HOẠT ĐỘNG KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ HỌC TẬP CỦA HỌC SINH Ở TRƯỜNG Trung học phổ thông ĐÁP ỨNG YÊU CẦU ĐỔI MỚI GIÁO DỤC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề

1.1.1. Trên thế giới

Giáo dục là một hiện tượng mang tính lịch sử, ra đời từ nhu cầu tồn tại phát triển của con người. Khi Xã hội bước sang thời đại văn minh thì nền giáo dục cũng hình thành, trong đó Kiểm tra đánh giá là một khâu quan trọng của bất cứ nền giáo dục nào. Từ lịch sử phát triển giáo dục trên thế giới cho chúng ta thấy việc Kiểm tra đánh giá HS là khâu không thể thiếu được trong quá trình dạy học, nó vừa là động lực, vừa là phương thức nâng cao chất lượng dạy học trong nhà trường. Chính vì vậy ngay từ khi xuất hiện mô hình nhà trường thì các hình thức Kiểm tra đánh giá mức độ nhận thức của HS cũng ra đời. Tuy nhiên ở mỗi giai đoạn lịch sử, mỗi quốc gia có sự khác nhau về triết lý, mục tiêu, nội dung, phương pháp, phương tiện, công cụ, quy chuẩn cho phù hợp với giai đoạn đó.

Ngay từ thời Hy Lạp cổ đại, với mục tiêu giáo dục của thời khai minh khi đó là đào tạo ra những con người “Đẹp đẽ và Phẩm hạnh” (Kalokagathia), đòi hỏi sự tập hợp những phẩm chất tốt đẹp nhất của con người quý tộc như ý thức trách nhiệm, ý thức danh dự, sự cường tráng, lòng dũng cảm, quyền uy và năng lực điều khiển trong chiến tranh.

Sang thời phong kiến (Trung Quốc), thế tập và tiến cử vẫn là những biện pháp tuyển dụng quan chức cho triều đình. Những người được tuyển chọn đôi khi cũng có thực tài nhưng cũng không thiếu những người dốt nát được tiến cử.

Đầu thế kỷ XVI, J.A Comenxki (1592-1670) nhà giáo dục vĩ đại người Séc đã nhấn mạnh vai trò của Kiểm tra đánh giá và lưu ý hoạt động này phải căn cứ vào mục tiêu học tập, gắn với quá trình học tập và hướng dẫn HS tự Kiểm tra đánh giá bản thân.

Đến thế kỷ XVIII thì hệ ĐG chất lượng đầu tiên được áp dụng phổ biến trong nhà trường. Lúc đầu hệ ĐG có 3 bậc chính: Tốt – Trung bình – Kém. Tuy nhiên để ĐG được theo 5 bậc chất lượng HS thì phải Kiểm tra như thế nào để ĐG được chính xác, phù hợp với đối tượng HS nhằm không ngừng nâng cao chất lượng dạy và học mới là vấn đề được các nhà giáo dục quan tâm.

Ralph Tyler được coi là một trong những người đầu tiên đưa ra khái niệm ĐG giáo dục, ông sử dụng thuật ngữ ĐG để biểu thị quy trình ĐG sự tiến bộ của người học theo các mục tiêu đạt được. Tyler đưa ra sơ đồ thể hiện 3 yếu tố chính trong quá trình giáo dục là: mục tiêu, kinh nghiệm học tập và ĐG người học (Xem sơ đồ 1). Mục tiêu của chương trình giáo dục yêu cầu người học đạt được một hệ thống các kiến thức kỹ năng và có thể vận dụng vào cuộc sống. Theo Tyler, ĐG người học trong quá trình giáo dục là cần thiết vì nó liên quan đến việc Kiểm tra mức độ tối đa có thể đạt được các mục tiêu chương trình.

Sơ đồ 1.1: Trình bày quá trình giáo dục theo Tyler Luận văn: Quản lý hoạt động kiểm tra đánh giá học tập học sinh.

Miêu tả trên về quy trình giáo dục là đóng góp của Tyler (1949). Điểm quan trọng ở đây là Tyler xem ĐG như tâm điểm của quy trình giáo dục. Quan điểm của Tyler về vai trò của ĐG trong giáo dục đã đóng góp một giá trị đáng kể cho những người phát triển chương trình và ĐG giáo dục, ông đã tạo ra nền tảng cho tư duy và thực hành ĐG lúc bấy giờ.

Năm 1956, Benjamin S. Bloom và các cộng sự của mình đã tiến hành phân loại mục tiêu giáo dục trong lĩnh vực nhận thức, nó có tác dụng quan trọng trong lý luận ĐG giáo dục và hoàn thiện việc học tập. Cuốn sách “Nguyên tắc phân loại mục tiêu giáo dục: lĩnh vực nhận thức” của B.S. Bloom và các cộng sự viết gồm 2 phần. Phần 1 cuốn sách phân tích sâu các nguyên tắc soạn thảo và cách tổ chức của cách phân loại, phân tích sự hiểu các đặc tính và ý nghĩa của lĩnh vực tri thức và đưa ra một số cách thức mà có thể sắp xếp trong cách phân loại. Phần 2 của cuốn sách viết về nguyên tắc phân loại và những tài liệu minh họa. Phần này Bloom đã trình bày chi tiết về 6 cấp độ nhận thức: Kiến thức, Lĩnh hội, Áp dụng, Phân tích, Tổng hợp, ĐG. Cuốn sách này như kim chỉ nam trong việc phân loại mục tiêu giáo dục để XÂY DỰNG quy trình ĐG giáo dục cho đến tận bây giờ.

Từ những năm 1970 trở lại đây có rất nhiều công trình nghiên cứu từng vấn đề cụ thể, trong đó xác định một cách khoa học nội dung ĐG kết quả của HS như: Những vấn đề lý luận dạy học của việc ĐG trí thức (V.M.Palomxki); con đường hoàn thiện việc triểm tra tri thức kỹ năng (X.V.Uxova). Cũng trong giai đoạn này nhiều tác giả cũng đã nghiên cứu các nguyên tắc của việc Kiểm tra đánh giá nhằm đảm bảo tính khách quan như: Các hướng nâng cao tính khách quan trong việc ĐG tri thức HS (A.M.Levitop).

Đặc biệt, cuốn tài liệu của UNESCO viết về ĐG giáo dục trong đó có bàn đến công tác ĐG kết quả học tập của HS tại Việt Nam, mang tên: “Monitoring Educational Achievement” (Giám sát thành tích giáo dục-2004 Paris Unesco). Mục tiêu của tài liệu này là để giải thích ý nghĩa của khái niệm “giám sát thành tích giáo dục”, chỉ ra khái niệm thành tích đã được mô tả trong các nghiên cứu chọn lọc cấp quốc gia và quốc tế như thế nào, để trả lời các câu hỏi thường gặp về các nghiên cứu tương tự, để chỉ ra các nhóm tiêu chí được ĐG và một số vấn đề đặt ra đối với các nhà Quản lý giáo dục. Một cuốn tài liệu quan trọng thể hiện xu hướng ĐG hiện đại đang thịnh hành của GS.TS Anthony J. Nitko, Đại học Arizôna của Mỹ mang tên: “Educational Assessment of Students” (ĐG học sinh). Cuốn sách đề cập đến tất cả nội dung của ĐG kết quả học tập, bao gồm phát triển các kế hoạch giảng dạy kết hợp với ĐG; các ĐG về mục tiêu, hiệu quả; đánh giá HS… và các bài Kiểm tra thành tích đã được chuẩn hóa.

Những năm gần đây, cùng với sự phát triển của khoa học – công nghệ thế giới, khoa học ĐG cũng có nhiều bước phát triển mạnh mẽ theo hướng chú trọng đến việc ĐG và tạo động lực cho sự phát triển các năng lực, phẩm chất cá nhân người học, vì sự tiến bộ của người học.

1.1.2. Trong nước Luận văn: Quản lý hoạt động kiểm tra đánh giá học tập học sinh.

Dưới đời vua Lý Nhân Tông (1066-1128), khoa thi đầu tiên được triều đình tổ chức năm Ất Mão (1075) đã chính thức mở ra nền giáo dục khoa bảng nước nhà. Hình thức thi cơ bản là thi viết văn, thi võ, thi lại viên. Tuy chính quyền phong kiến luôn cố gắng tổ chức nghiêm ngặt các kì thi này nhưng sự sai sót, gian lận và chủ quan thường xẩy ra. Sự giáo điều, rập khuôn không phát huy hết khả năng sáng tạo của thí sinh là hạn chế lớn nhất của các kỳ thi này.

Thời kỳ Pháp thuộc, giáo dục Việt Nam chuyển dần từ nền giáo dục, thi cử Nho học sang Tân học mang tính nô dịch. Dưới vỏ bọc là “khai hóa”, từ chỗ họ lồng Pháp ngữ, quốc ngữ thay thế Hán ngữ cùng những kiến thức mới vào những kỳ thi do nhà Nguyễn tổ chức, tiến tới việc thủ tiêu hoàn toàn chế độ thi cử cũ.

Từ sau cách mạng tháng 8/1945 đến nay Kiểm tra đánh giá đã có nhiều biến đổi căn bản so với chế độ Xã hội cũ. Nền giáo dục Việt Nam đã trải qua 3 lần cải cách, với mỗi lần mục tiêu giáo dục đào tạo được điều chỉnh cho phù hợp với tình hình đất nước.

Hoạt động Kiểm tra đánh giá học tập của HS trong nhà trường phổ thông từ lâu đã được các nhà nghiên cứu giáo dục, các nhà sư phạm trong nước nghiên cứu và đề cập trong các công trình nghiên cứu Giáo dục học hoặc Phương pháp giảng dạy từng bộ môn. Tuy nhiên phải hơn một thập niên trở lại đây, Khoa học ĐG mới thực sự hình thành với tư cách là một môn khoa học độc lập ở Việt Nam, từ đó quá trình nghiên cứu vấn đề được đẩy mạnh với sự tham gia của đông đảo các nhà nghiên cứu với nhiều công trình, hội thảo, báo cáo khoa học…

Đặc biệt là trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển giáo dục – đào tạo, hoạt động nghiên cứu Kiểm tra đánh giá; nghiên cứu công tác Quản lý hoạt động Kiểm tra đánh giá có những phát triển mới.

Nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra những yêu cầu về Quản lý nhằm nâng cao chất lượng Kiểm tra đánh giá, góp phần nâng cao chất lượng dạy – học đáp ứng mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài trong thời kì công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Một số tài liệu nghiên cứu về Kiểm tra đánh giá trong lĩnh vực giáo dục của các chuyên gia như:

  • Đặng Bá Lãm. Kiểm tra – đánh giá trong dạy – học đại học, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2003.
  • Lâm Quang Thiệp. Đo lường đánh giá trong giáo dục, 2003.
  • Nguyễn Đức Chính. Đo lường đánh giá trong giáo dục, tập bài giảng lưu hành nội bộ – khoa Sư phạm, Hà Nội 2004.
  • Lê Đức Ngọc. Đo lường và đánh giá trong giáo dục. Dự án Đào tạo GV Trung học cơ sở, 2005.
  • Dương Thiệu Tống. Trắc nghiệm và đo lường thành quả học tập, Nxb Khoa học xã hội, 2005.
  • Cấn Thị Thanh Hương và Lê Đức Ngọc. Đổi mới Kiểm tra đánh giá trong giáo dục đại học. Tạp chí khoa học giáo dục, số 7, 4-2006. Luận văn: Quản lý hoạt động kiểm tra đánh giá học tập học sinh.
  • Trần Thị Tuyết Oanh. Đo lường và đánh giá kết quả học tập, Nxb Đại học sư phạm Hà Nội, 2007.
  • Hồ Sỹ Anh. Đề xuất giải pháp đánh giá chất lượng HS phổ thông Việt Nam, Kỉ yếu Hội thảo khoa học Giáo dục của Bộ Giáo dục và Đào tạo, tập 1, Hải Phòng, 2011.
  • Nguyễn Công Khanh, Đào Thị Oanh, Lê Mỹ Dung. Tài liệu Kiểm tra đánh giá trong giáo dục (dành cho GV phổ thông). ĐHSP Hà Nội, 2014.

Các đề tài luận văn thạc sỹ như: “Nghiên cứu cải tiến quy trình tổ chức Kiểm tra đánh giá kết quả học tập của sinh viên tại khoa du lịch – viện đại học mở Hà Nội” của tác giả Lê Quỳnh Chi (2006); “Quản lý hoạt động Kiểm tra đánh giá kết quả học tập của HS ở các trường trung học phổ thông thành phố Việt Trì tỉnh Phú Thọ trong giai đoạn hiện nay” của tác giả Tạ Thị Bích Liên (2011); “Các biện pháp quản lý đổi mới công tác kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của sinh viên” của tác giả Nguyễn Thị Kim Bông (2006) …

Theo tác giả Lê Đức Ngọc, hiện thế giới đang chuyển sang những xu thế ĐG mới, đó là: Xu hướng đổi mới Kiểm tra đánh giá hoạt động học tập theo tiếp cận năng lực, cụ thể:

  • Chuyển từ chủ yếu sử dụng ĐG kết quả học tập cuối môn học, khóa học (ĐG tổng kết) nhằm mục đích xếp hạng, phân loại sang sử dụng đa dạng các loại hình ĐG, coi trọng ĐG thường xuyên, định kì sau từng phần, từng chương nhằm mục đích phản hồi điều chỉnh quá trình giảng dạy và học tập (ĐG quá trình);
  • Chuyển từ chủ yếu ĐG kiến thức, kĩ năng sang ĐG năng lực của người học. Tức là chuyển trọng tâm ĐG chủ yếu từ ghi nhớ, hiểu kiến thức…(ĐG kiểu truyền thống) sang ĐG năng lực vận dụng, giải quyết những vấn đề của thực tiễn cuộc sống (ĐG hiện đại – phi truyền thống), đặc biệt chú trọng ĐG các năng lực tư duy bậc cao như tư duy sáng tạo, siêu nhận thức (nghĩ về cách suy nghĩ).
  • Chuyển từ ĐG một chiều (GV đánh giá), sang ĐG đa chiều (không chỉ GV đánh giá mà HS cùng tham gia ĐG – tự ĐG, ĐG lẫn nhau);
  • Chuyển ĐG từ một hoạt động độc lập với quá trình dạy học sang việc tích hợp ĐG vào quá trình dạy học, xem ĐG là một phương pháp dạy học;
  • Sử dụng công nghệ thông tin trong Kiểm tra đánh giá: sử dụng các phần mềm thẩm định các đặc tính đo lường của công cụ (độ tin cậy, độ khó, độ phân biệt, độ giá trị) và sử dụng các mô hình thống kê vào xử lý phân tích, lý giải kết quả ĐG. [28]

Theo tác giả Hồ Sỹ Anh (Viện Nghiên cứu Giáo dục – Trường ĐH Sư phạm Tp.HCM), có ba đặc trưng quan trọng của xu hướng mới về Kiểm tra đánh giá là: Luận văn: Quản lý hoạt động kiểm tra đánh giá học tập học sinh.

Đánh giá phát triển (Fomative Assessment) để chỉ các hoạt động Kiểm tra ĐG được thực hiện trong quá trình dạy – học, phân biệt với Kiểm tra Giáo dục tại những thời điểm khác nhau như ĐG chất lượng đầu vào (PreTest) hoặc ĐG khi kết thúc một quá trình dạy – học, ĐG tổng kết (Summative Assessment).

Đánh giá thực tiễn (Authentic Assessment). Bao gồm mọi hình thức và phương pháp Kiểm tra ĐG được thực hiện với mục đích Kiểm tra các năng lực cần có trong cuộc sống hằng ngày và được thực hiện trong bối cảnh thực tế. Cách ĐG này nhấn mạnh mối liên hệ chặt chẽ giữa yêu cầu của ĐG với thực tế cuộc sống. ĐG này khác với ĐG truyền thống, chỉ dựa vào ĐG trên giấy thông qua bài viết tự luận hoặc Trắc nghiệm khách quan.

Đánh giá sáng tạo (Alternative Assessment) hay ĐG thay thế, nó trái ngược với cách ĐG truyền thống, và gần với các khái niệm ĐG thực tiễn, ĐG tích hợp, ĐG toàn diện. ĐG sáng tạo nhấn mạnh sự mới mẻ, đa dạng và sáng tạo của những cách thức Kiểm tra ĐG. Trong mô hình này, HS, GV và có khi cả phụ huynh, chọn một số mảng hoạt động, những thành tích hay điểm Kiểm tra môn học, kĩ năng viết, nói của HS qua các năm, để chứng minh rằng việc học của họ được cải thiện trong quá trình nhiều năm liên tục. [1]

Trong bối cảnh đó, sự ra đời của Nghị quyết 29, Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo như làn gió mới cổ vũ cho các hoạt động nghiên cứu về khoa học Kiểm tra đánh giá của các nhà nghiên cứu giáo dục trong nước.

Tuy nhiên các công trình đã nói trên chỉ mới tiếp cận vấn đề khái quát tầm lý luận của hoạt động Kiểm tra đánh giá, hoặc hoạt động Kiểm tra đánh giá ở những bậc học khác nhau, các địa phương khác nhau. Cho đến nay chưa có công trình nghiên cứu nào về vấn đề Quản lý hoạt động Kiểm tra đánh giá HS ở trường Trung học phổ thông Nguyễn Du – Thanh Oai. Bởi vậy lựa chọn nghiên cứu đề tài này vừa có nghĩa lý luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn, qua đó góp phần nâng cao chất lượng Quản lý và chất lượng dạy học ở trường Trung học phổ thông Nguyễn Du – Thanh Oai, Thành phố Hà Nội.

1.2. Một số khái niệm cơ bản

1.2.1. Quản lý Luận văn: Quản lý hoạt động kiểm tra đánh giá học tập học sinh.

Lịch sử đã chứng minh rằng, để tồn tại và phát triển, ngay từ khi loài người xuất hiện trên trái đất, con người đã liên kết nhau thành các nhóm nhằm chống lại sự tiêu diệt của thú dữ và thiên nhiên, đồng thời cũng xuất hiện một loạt các mối quan hệ: quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với thiên nhiên, giữa con người với Xã hội và cả quan hệ giữa con người với chính bản thân mình. Trong quá trình đó đã xuất hiện một số người có năng lực chi phối được người khác, cũng như điều khiển mọi hoạt động của nhóm sao cho phù hợp với mục tiêu chung. Những người đó đã đóng vai trò thủ lĩnh để Quản lý nhóm, điều đó đã làm nẩy sinh nhu cầu về Quản lý. Như vậy, Quản lý xuất hiện từ rất sớm và tồn tại, phát triển đến ngày nay.

QL là một khoa học sử dụng tri thức của nhiều môn khoa học xã hội, đồng thời Quản lý còn là một nghệ thuật đòi hỏi sự khôn khéo và tinh tế cao độ để đạt được mục đích. Chính vì vậy, người ta có thể tiếp nhận khái niệm Quản lý theo nhiều cách khác nhau. Theo C.Mác, Quản lý là chức năng được sinh ra từ tính chất xã hội hóa lao động. Nó có tầm quan trọng đặc biệt vì mọi sự phát triển của xã hội đều thông qua Quản lý. Người viết: “Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng cần đến một sự chỉ đạo để điều hòa những hoạt động cá nhân và thực hiện như chức năng chung phát sinh từ sự vận động của toàn bộ cơ thể sản xuất khác với sự vận động của những khí quản độc lập của nó. Một người độc tấu vĩ cầm tự điều khiển lấy mình, còn dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng” [12, tr.40].

QL là một hoạt động có chủ đích, được tiến hành bởi một chủ thể Quản lý nhằm tác động lên khách thể Quản lý để thực hiện các mục tiêu xác định của công tác Quản lý. Trong mỗi chu trình Quản lý chủ thể tiến hành những hoạt động theo các chức năng Quản lý như xác định mục tiêu, các chủ trương, chính sách; hoạch định kế hoạch, tổ chức và chỉ đạo thực hiện, điều hoà, phối hợp, Kiểm tra và huy động, sử dụng các nguồn lực cơ bản như tài lực, vật lực, nhân lực…để thực hiện các mục tiêu, mục đích mong muốn trong bối cảnh và thời gian nhất định.

Về khái niệm Quản lý còn có rất nhiều định nghĩa khác nhau:

  • W. Taylor cho rằng: “QL là biết chính xác điều bạn muốn người khác làm và sau đó thấy rằng họ đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất và rẻ nhất” [12, tr.28]
  • Còn H. Koontz thì lại khẳng định: “QL là một hoạt động thiết yếu, nó đảm bảo phối hợp những nỗ lực hoạt động các nhân nhằm đạt được các mục đích của nhóm (tổ chức). Mục tiêu của Quản lý là hình thành một môi trường mà trong đó con người có thể đạt được các mục đích của nhóm với thời gian, tiền bạc, vật chất và sự bất mãn cá nhân ít nhất” [12, tr. 50]
  • Theo các tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc, khái niệm về Quản lý được định nghĩa như sau: “ Quản lý là tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể Quản lý (người Quản lý) đến khách thể Quản lý (người bị Quản lý) trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức” [12, tr. 62]

Từ những quan niệm của các học giả đã nêu, chúng ta có thể rút ra nhận xét sau: Tuy cách diễn đạt khác nhau nhưng những định nghĩa trên đều thể hiện được bản chất của hoạt động Quản lý đó là hoạt động Quản lý nhằm cho hệ thống vận động theo mục tiêu đã đặt ra, tiến đến trạng thái có chất lượng mới. Luận văn: Quản lý hoạt động kiểm tra đánh giá học tập học sinh.

Trong Quản lý có hai bộ phận khăng khít, đó là chủ thể Quản lý và khách thể Quản lý. Chủ thể Quản lý có thể là cá nhân hay một nhóm người có chức năng Quản lý hay điều khiển tổ chức, làm cho tổ chức vận hành và đạt tới mục tiêu. Khách thể Quản lý bao gồm những người thừa hành nhiệm vụ trong tổ chức, chịu sự tác động, chỉ đạo của chủ thể Quản lý nhằm đạt mục tiêu chung. Chủ thể Quản lý làm nảy sinh các tác động Quản lý, còn khách thể Quản lý sản sinh ra vật chất và tinh thần có giá trị sử dụng, trực tiếp đáp ứng nhu cầu con người, đáp ứng mục đích của chủ thể Quản lý.

Tóm lại, chúng ta có thể khái quát: Quản lý là hoạt động có ý thức của con người nhằm phối hợp hành động của một nhóm người hay một cộng đồng người để đạt được các mục tiêu đề ra một cách hiệu quả nhất.

1.2.2. Quản lý giáo dục

QL giáo dục là tác động có hệ thống có ý thức hợp quy luật của chủ thể Quản lý (ở các cấp khác nhau) lên đối tượng Quản lý (tất cả các mắt xích của hệ thống giáo dục) nhằm đảm bảo mục tiêu của giáo dục đã đề ra (cho hệ thống giáo dục vận hành bình thường và liên tục phát triển, mở rộng cả về số lượng cũng như chất lượng). Trong Quản lý giáo dục đã được các nhà lý luận và Quản lý thực tiễn đưa ra một số định nghĩa dưới các góc độ khác nhau:

Theo tác giả Phạm Minh Hạc: “QL nhà trường hay nói rộng ra là Quản lý giáo dục là Quản lý hoạt động dạy và học nhằm đưa nhà trường từ trạng thái này sang trạng thái khác và dần đạt tới mục tiêu giáo dục đã xác định” (Phạm Minh Hạc, Một số vấn đề giáo dục và khoa học giáo dục, 1986, Tr61, NXB Giáo dục)

Theo Đặng Quốc Bảo: Quản lý giáo dục theo nghĩa tổng quát là: “Hoạt động điều hành, phối hợp các lực lượng Xã hội nhằm đẩy mạnh công tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển Xã hội” [7]

Các nhà Quản lý giáo dục thực tiễn còn quan niệm: Quản lý giáo dục theo nghĩa tổng quan là hoạt động điều hành, phối hợp các lực lượng Xã hội nhằm đẩy mạnh công tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển Xã hội. Theo tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc: “QL giáo dục là quá trình đạt tới mục tiêu trên cơ sở thực hiện có ý thức và hợp quy luật các chức năng kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra” [12].

Như vậy, quan niệm về Quản lý giáo dục có những cách diễn đạt khác nhau, song trong mỗi cách định nghĩa đều đề cập tới các yếu tố cơ bản: Chủ thể Quản lý giáo dục, khách thể Quản lý giáo dục, mục tiêu Quản lý giáo dục, ngoài ra còn phải kể tới cách thức (phương pháp Quản lý giáo dục) và công cụ (hệ thống văn bản quy phạm pháp luật) Quản lý giáo dục. Hay nói cách khác: Quản lý giáo dục là hệ thống những tác động có chủ đích có kế hoạch hợp quy luật của chủ thể Quản lý đến tập thể cán bộ, GV, HS, các lực lượng trong và ngoài nhà trường nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu giáo dục.

QL giáo dục, trong thực tế là một công việc hết sức quan trọng trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, nội dung của Quản lý giáo dục bao gồm: Quản lý học sinh, Quản lý dạy học và cơ sở vật chất, phương tiện phục cho công tác giáo dục đào tạo, tổ chức các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp và các công tác khác ở các cơ sở giáo dục…, Quản lý chuyên môn, hành chính, nhân sự tại các Sở Giáo dục-ĐT, Phòng Giáo dục-ĐT; Làm công tác giảng dạy khoa học Quản lý giáo dục ở các cơ sở đào tạo và bồi dưỡng GV, cán bộ, nhân viên Quản lý trong và ngoài ngành giáo dục; Nghiên cứu khoa học Quản lý và Quản lý giáo dục ở các cơ sở nghiên cứu, các cơ quan tham mưu hoạch định chiến lược Quản lý Xã hội nói chung và phát triển giáo dục nói riêng.

1.2.3. Kiểm tra (Testing) Luận văn: Quản lý hoạt động kiểm tra đánh giá học tập học sinh.

Có rất nhiều quan điểm khác nhau khi bàn về khái niệm kiểm tra: Trong từ điển Tiếng Việt (1998) có định nghĩa: “Kiểm tra là xem xét tình hình thực tế để ĐG, nhận xét” [35, tr. 874]. Còn theo từ điển Bách Khoa (2001) có định nghĩa thuật ngữ “Kiểm tra là bộ phận hợp thành của quá trình hoạt động dạy – học nhằm nắm được thông tin về trạng thái và kết quả học tập của học viên, về những nguyên nhân cơ bản của thực trạng đó để tìm ra những biện pháp khắc phục những lỗ hổng, đồng thời củng cố và tiếp tục nâng cao hiệu quả hoạt động dạy – học” [36, tr. 937].

Theo PGS.TS. Phạm Viết Vượng: “Kiểm tra là phương pháp xem xét thường xuyên quá trình học tập của học viên. Mục đích của Kiểm tra là tích cực hóa hoạt động của học viên, tăng cường chất lượng học tập. Kiểm tra là khâu quan trọng trong quá trình dạy học nhằm ĐG kết quả học tập” [33, tr. 40].

Theo tác giả Nguyễn Đức Chính (2005) “Đo lường (kiểm tra) là quá trình thu thập thông tin một cách định lượng và định tính về các đại lượng đặc trưng như nhận thức, tư duy, kỹ năng và các phẩm chất nhân cách khác trong quá trình giáo dục” [14, tr.4]. Kiểm tra là đo lường và chấn chỉnh việc thực hiện nhằm đảm bảo rằng các mục tiêu và các kế hoạch vạch ra để thực hiện các mục tiêu này đã và đang được hoàn thành.

Qua các định nghĩa trên của các chuyên gia đưa ra, ta có thể hiểu khái quát về Kiểm tra như sau: Kiểm tra là công việc nhằm đo hay xác định mức độ về kiến thức, kỹ năng, thái độ mà người học đạt được sau một quá trình dạy học.

1.2.4. Đánh giá (Assessment)

Đánh giá là hoạt động rất quan trọng không thể tách rời quá trình Giáo dục-ĐT. Có rất nhiều khái niệm khác nhau về ĐG trong lĩnh vực giáo dục, mỗi khái niệm nhấn mạnh đến một khía cạnh cần ĐG (đối tượng của ĐG).

Đánh giá là sự hình thành nhận định, phán đoán về đối tượng thông qua sự phân tích thông tin thu được trên cơ sở đối chiếu với các mục tiêu, tiêu chuẩn đề ra, nhằm đề xuất các quyết định thích hợp để cải thiện thực trạng, điều chỉnh nâng cao chất lượng, hiệu quả công việc. Sự ĐG cho phép chúng ta xác định, một là mục tiêu giáo dục được đặt ra có phù hợp hay không và có đạt mục tiêu hay không, hai là việc giảng dạy có thành công hay không, người học có tiến bộ hay không?

Theo tác giả Nguyễn Đức Chính, thuật ngữ đánh giá được định nghĩa: “Đánh giá là quá trình thu thập và xử lý thông tin một cách có hệ thống nhằm xác định mục tiêu đã và đang đạt được ở mức độ nào”. Hoặc “Đánh giá là quá trình thu thập và xử lý thông tin đó đưa ra quyết định” [14, tr. 15]. Luận văn: Quản lý hoạt động kiểm tra đánh giá học tập học sinh.

Theo tác giả Đặng Bá Lãm (2003): “Đánh giá là một quá trình có hệ thống bao gồm việc thu thập, phân tích, giải tích thông tin nhằm xác định mức độ người học đạt được các mục tiêu dạy học”[26].

Trong giáo dục với tư cách vừa là lĩnh vực của khoa học Quản lý giáo dục, vừa là công cụ của Quản lý giáo dục, ĐG sự nghiệp giáo dục bao hàm những đặc trưng: Tính khách quan, khoa học, tính thích ứng phổ biến và tính mục đích. Từ những đặc trưng đó ĐG trong giáo dục được định nghĩa là: “Đánh giá là sự thu thập, chỉnh lí, xử lí, phân tích một cách toàn diện những thông tin về sự nghiệp giáo dục, để rồi phán đoán giá trị của nó nhằm thúc đẩy công cuộc cải cách giáo dục, nâng cao trình độ phát triển giáo dục, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của cộng đồng Xã hội”.

Như vậy, trong giáo dục thường tiến hành nhiều ĐG khác nhau như ĐG hệ thống Giáo dục, ĐG nhà trường, ĐG hoạt động dạy học của người dạy, ĐG hoạt động học tập của người học, ĐG chương trình Giáo dục, ĐG chất lượng Giáo dục, ĐG mục tiêu Giáo dục,… Trong các đánh giá Giáo dục, ĐG kết quả học tập của người học là quan trọng nhất bởi chất lượng học tập của người học thể hiện hoạt động dạy học, đó là một chức năng cơ bản của nhà trường.

Đánh giá là sự phán xét trên cơ sở Kiểm tra, bao giờ cũng đi liền với Kiểm tra. Trong ĐG, ngoài sự đo lường một cách khách quan dựa trên Kiểm tra (hay trắc nghiệm), còn có ý kiến bình luận, nhận xét, phê phán mang tính chủ quan để tiến tới sự phán xét. Do vậy Kiểm tra và ĐG học tập của HS là hai khâu có quan hệ mật thiết với nhau. Kiểm tra nhằm cung cấp thông tin để ĐG và ĐG thông qua kết quả của Kiểm tra. Hai khâu đó hợp thành một quá trình thống nhất là Kiểm tra đánh giá.

1.3. Một số vấn đề lý luận về hoạt động Kiểm tra đánh giá học tập của HS ở trường Trung học phổ thông

1.3.1. Vị trí, vai trò, chức năng của Kiểm tra đánh giá học tập của HS trong quá trình dạy học

1.3.1.1. Vị trí của Kiểm tra đánh giá trong quá trình dạy – học

Theo quan điểm truyền thống, Kiểm tra đánh giá học tập là quá trình tách rời quá trình dạy học và được thực hiện sau khi kết thúc quá trình dạy học. Quan điểm mới cho rằng Kiểm tra đánh giá học tập của HS là một phần không thể tách rời quá trình dạy học, được thực hiện liên tục và đan xen trong quá trình dạy học. Đó là một khâu quan trọng nhằm xác định thành tích học tập và mức độ chiếm lĩnh kiến thức, kỹ năng, vận dụng của người học. Kiểm tra đánh giá là hai công việc được tiến hành theo trình tự nhất định hoặc đan xen lẫn nhau nhằm khảo sát, xem xét về cả định lượng và định tính kết quả học tập, ĐG mức độ chiếm lĩnh nội dung học vấn của HS. Bởi vậy, cần phải xác định “thước đo” và chuẩn ĐG một cách khoa học, khách quan.

Theo các cấp độ nhận thức của Bloom: Luận văn: Quản lý hoạt động kiểm tra đánh giá học tập học sinh.

Về năng lực nhận thức: Bloom (1956) phân thành 6 cấp độ: Biết: biết các sự kiện, thuật ngữ và các nguyên lý dưới hình thức mà sinh viên đã được học. Hiểu: hiểu các tư liệu đã được học, có khả năng diễn giải, mô tả tóm tắt thông tin thu nhận được. Áp dụng: áp dụng được các thông tin, kiến thức vào tình huống khác với tình huống đã học. Phân tích: biết tách từ tổng thể thành bộ phận và biết rõ sự liên hệ giữa các thành phần đó với nhau theo cấu trúc của chúng. Tổng hợp: biết kết hợp các bộ phận thành một tổng thể mới từ tổng thể ban đầu. Đánh giá: biết so sánh, phê phán, chọn lọc, quyết định và ĐG trên cơ sở các tiêu chí xác định. Gần đây một số chuyên gia đã đề xuất gộp hai cấp độ phân tích và tổng hợp thành một cấp độ duy nhất và thêm cấp độ sáng tạo. Sáng tạo: sáng tạo ra những giá trị mới trên cơ sở các kiến thức đã tiếp thu được. [30, tr. 25]

Về kỹ năng: Kỹ năng được phân thành 5 cấp độ từ thấp đến cao: Bắt chước: quan sát và cố gắng lặp lại một kỹ năng nào đó. Thao tác: hoàn thành một kỹ năng nào đó theo chỉ dẫn không còn là bắt chước máy móc. Chuẩn hoá: lặp lại kỹ năng nào đó một cách chính xác, nhịp nhàng, đúng đắn, thường thực hiện một cách độc lập, không phải hướng dẫn. Phối hợp: kết hợp được nhiều kỹ năng theo thứ tự xác định một cách nhịp nhàng và ổn định. Tự động hoá: hoàn thành một hay nhiều kỹ năng một cách dễ dàng và trở thành tự nhiên, không đòi hỏi một sự gắng sức về thể lực và trí tuệ. [30, tr. 24]

Về thái độ: Theo Bloom, thái độ được phân thành 5 cấp độ: Chấp nhận: Chấp nhận tham gia một cách thụ động vào một số sự kiện. Ví dụ: chăm chú nghe giảng, lắng nghe người khác phát biểu trong các cuộc thảo luận nhóm. Đáp ứng: Tuân thủ theo hay phản ứng với một thái độ đã có thể thấy trước đối với các sự kiện hay tác nhân kích thích. Ví dụ: thể hiện sự quan tâm chú ý, sẵn sàng trao đổi ý kiến khi có tình huống phù hợp. Đánh giá: Thể hiện một thái độ ổn định với một niềm tin không đổi trong các tình huống mà người đó không bị bắt buộc phải thực hiện hay tuân theo. Ví dụ: tự giác tuân thủ nội quy phòng thí nghiệm ngay cả khi không có CBQL phòng thí nghiệm. Ý thức tổ chức: Cam kết thực hiện, thể hiện bằng một thái độ kiên định. Biểu thị tính cách: Toàn bộ cách cư xử ổn định với các giá trị đã trở thành nội tại.

1.3.1.2. Vai trò của Kiểm tra đánh giá trong quá trình dạy học KTĐG là một phận không thể tách rời của quá trình dạy học.

Các nhà nghiên cứu lý luận dạy học đều cho rằng dạy học là một quá trình hoạt động có tính mục đích, nó thường phải bao gồm đầy đủ các thành tố cơ bản sau: xây dựng mục tiêu, thiết kế nội dung, tổ chức hoạt động dạy học và Kiểm tra đánh giá. Do vậy Kiểm tra đánh giá là một khâu rất quan trọng không thể tách rời của quá trình dạy học. Kiểm tra đánh giá nhằm cung cấp thông tin để ĐG chất lượng và hiệu quả của quá trình dạy học.

KTĐG là một bộ phận không thể tách rời của quá trình dạy học bởi đối với người thầy, khi tiến hành quá trình dạy học, họ phải xác định rõ mục tiêu của bài học, nội dung và phương pháp cũng như kỹ thuật tổ chức quá trình dạy học sao cho phù hợp với đối tượng người học và đạt chất lượng hiệu quả theo mục tiêu đề ra. Muốn biết quá trình dạy học có chất lượng, hiệu quả hay không, người thầy phải thu thập thông tin phản hồi từ HS để ĐG và qua đó điều chỉnh phương pháp dạy, kỹ tuật dạy của mình và giúp HS điều chỉnh phương pháp học (Sơ đồ 1.2). Luận văn: Quản lý hoạt động kiểm tra đánh giá học tập học sinh.

Sơ đồ 1.2: Vị trí, vai trò của Kiểm tra đánh giá trong quá trình dạy – học

Trong sơ đồ trên, Kiểm tra đánh giá không phải là khâu cuối cùng mà là một bộ phận hợp thành quan trọng, không thể thiếu của quá trình dạy – học. Kiểm tra đánh giá sẽ tạo động lực tác động ngược trở lại đối với mục tiêu, nội dung chương trình, phương pháp dạy học… trong quá trình. Điều này có tác dụng sửa chữa những khuyết điểm của mục tiêu, nội dung, chương trình, phương pháp dạy và học…

KTĐG là công cụ hành nghề quan trọng của GV

GV là người trực tiếp tác động tạo ra những thay đổi ở người học nhằm đạt được mục tiêu giáo dục. Muốn xác định người học – sản phẩm của quá trình Giáo dục đáp ứng như thế nào so với mục tiêu Giáo dục đề ra thì người GV phải tiến hành Kiểm tra đánh giá. Kết quả Kiểm tra đánh giá trên cơ sở tổng hợp từ nhiều nguồn thông tin do sử dụng đa dạng các loại hình Kiểm tra đánh giá là vô cùng quan trọng để đi đến những nhận định, những quyết định ĐG khách quan, điều chỉnh kịp thời nội dung, phương pháp Giáo dục.

KTĐG chỉ thực sự trở thành công cụ hành nghề quan trọng, đạt hiệu quả khi GV xác định rõ mục đích ĐG, hiểu rõ thế mạnh của mỗi loại hình ĐG, lập được kế hoạch, quy trình ĐG, chọn lựa hay thiết kế được công cụ ĐG phù hợp…

Đồng thời GV phải biết xử lý phân tích, sử dụng các kết quả ĐG đúng mục đích, biết cách phản hồi, tư vấn cho phụ huynh và HS.

KTĐG là một bộ phận quan trọng của quá trình Quản lý Giáo dục, Quản lý chất lượng dạy và học.

Công tác Quản lý giáo dục, Quản lý chất lượng dạy và học rất cần các thông tin từ hoạt động Kiểm tra đánh giá. Bản chất của Kiểm tra đánh giá là cung cấp thông tin nhằm xác định xem mục tiêu của chương trình Giáo dục có đạt được hay chưa, mức độ đạt được như thế nào… Các thông tin khai thác được từ kết quả Kiểm tra đánh giá sẽ rất hữu ích cho các nhà Quản lý, cho GV, giúp họ giám sát quá trình Giáo dục, phát hiện các vấn đề, có các quyết định kịp thời điều chỉnh nội dung, cách thức và điều kiện đạt mục tiêu.

Chiến lược đổi mới căn bản, toàn diện hệ thống Giáo dục phổ thông hiện nay của Bộ Giáo dục&ĐT chọn đổi mới Kiểm tra đánh giá là khâu đột phá nhằm thúc đẩy các quá trình khác như đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới cách thức tổ chức hoạt động DH, đổi mới Quản lý… Nếu thực hiện được việc Kiểm tra đánh giá theo hướng vì sự tiến bộ của học, như là quá trình thúc đẩy phát triển học tập bền vững, giúp phát triển năng lực người học thì lúc đó quá trình DH trở nên tích cực hơn rất nhiều. Quá trình đó sẽ tiến đến mục tiêu xa hơn, đó là nuôi dưỡng hứng thú học đường, tạo sự tự giác trong học tập và quan trọng hơn là gieo vào lòng HS sự tự tin, niềm tin “người khác làm được mình cũng sẽ làm được”…

1.3.1.3. Chức năng của Kiểm tra đánh giá trong quá trình dạy học

Chức năng định hướng: Khi GV tiến hành hoạt động Kiểm tra đánh giá cần phán đoán độ sai lệch giữa hiện trạng thực tế và mục tiêu môn học đã đề ra trước đó, từ đó hướng dẫn họ hoạt động theo đúng quy luật phát triển, làm cho khoảng cách giữa hiện trạng thực tế và mục tiêu môn học đã đề ra trước đó ngày một ngắn đi. Đồng thời cho phép đề xuất định hướng điều chỉnh những sai sót, phát huy những kết quả trong cải tiến hoạt động dạy – học với các phần kiến thức đã dạy và thỏa mãn nhu cầu của cá nhân trong tổ chức đó. Chính vì vậy, Kiểm tra đánh giá giúp có tác dụng chỉ ra phương hướng phấn đấu cho HS, GV trong suốt quá trình thực hiện nhiệm vụ dạy – học. Luận văn: Quản lý hoạt động kiểm tra đánh giá học tập học sinh.

Chức năng đốc thúc, kích thích, tạo động lực: Thông qua Kiểm tra đánh giá đối chiếu với mục tiêu của môn học, khóa học và thỏa mãn nhu cầu của cá nhân, có thể kích thích tinh thần học tập của HS. Kết quả sau mỗi bài Kiểm tra sẽ giúp cho HS biết được mức độ nắm kiến thức của bản thân để có hướng phấn đấu vươn lên. Với những HS giỏi, kết quả học tập tốt sẽ động viên, khuyến khích các em hăng say học tập, tinh thần tích cực độc lập sáng tạo trong chiếm lĩnh tri thức. Với HS yếu sẽ biết được những thông tin về các điểm yếu và cách khắc phục và một minh chứng để các em nỗ lực khắc phục khiếm khuyết để cố gắng vươn lên trong quá trình học tập. Chức năng này còn tạo ra một môi trường cạnh tranh chính thức hoặc phi chính thức.

Chức năng sàng lọc, lựa chọn và xác nhận: Trong quá trình dạy – học, GV phải thường xuyên tiến hành sàng lọc, lựa chọn, xác nhận và phân loại HS, thực hiện được thông qua kết quả Kiểm tra đánh giá. Qua đó giúp cho GV có phương pháp dạy – học phù hợp với từng đối tượng HS, giúp đối tượng HS đó tiến bộ không ngừng góp phần nâng cao chất lượng dạy – học của nhà trường.

Chức năng cải tiến, dự báo: Nhờ có Kiểm tra đánh giá nên có thể phát hiện được những sai sót trong quá trình dạy – học, từ đó GV tiến hành sử dụng những biện pháp thích hợp để bù đắp những chỗ thiếu hụt hoặc loại bỏ những sai sót không đáng có.

Như vậy, các chức năng trên luôn luôn quan hệ mật thiết chặt chẽ với nhau. Là nhà Quản lý chúng ta nên căn cứ vào từng đối tượng cụ thể, nên có những hình thức, phương pháp Kiểm tra đánh giá vận dụng riêng lẻ hoặc kết hợp các chức năng cho phù hợp.

1.3.2. Các lĩnh vực Kiểm tra đánh giá

1.3.2.1. Kiểm tra đánh giá kiến thức

Mục đích Kiểm tra đánh giá kiến thức là xác định xem HS đã biết gì, ở mức độ nào trong các nội dung đã học. Tuỳ theo mục tiêu học tập mà có những mức độ yêu cầu khác nhau từ đơn giản nhất là tái hiện được (kể được, mô tả được, trình bày được), đến áp dụng được, so sánh, phân tích, giải thích, v,v…

1.3.2.2. Kiểm tra đánh giá kỹ năng Luận văn: Quản lý hoạt động kiểm tra đánh giá học tập học sinh.

Mục đích Kiểm tra đánh giá kỹ năng là xác định xem HS đã làm được gì, ở mức độ nào trong các nội dung đã học. Mức độ yêu cầu HS làm được cũng từ đơn giản nhất là bắt chước được đến làm đúng, chuẩn xác rồi đến làm nhanh và thành thạo.

1.3.2.3. Kiểm tra đánh giá thái độ

KTĐG thái độ nhằm xem xét HS đã có cách ứng xử, cách biểu lộ tình cảm, cách bộc lộ những phẩm chất nhân cách như thế nào trước một sự kiện, hiện tượng, trước công việc, trước đồng nghiệp,… Kiểm tra đánh giá thái độ là khó nhất vì điều mà GV biết được chỉ là “phần nổi của tảng băng”. Còn “giá trị thực” của HS thì được xác định một cách chính xác không thể qua vài lần Kiểm tra đánh giá mà phải qua cả quá trình tương đối lâu dài. Vì vậy, GV cần kết hợp việc theo dõi, giám sát HS một cách thường xuyên với lượng giá thông qua những đợt Kiểm tra đánh giá định kỳ hay cuối khoá.

1.3.3. Các nguyên tắc của Kiểm tra đánh giá trong quá trình dạy – học

Dựa vào kết quả Kiểm tra đánh giá, học sinh, giáo viên và nhà Quản lý giáo dục có thể rút ra những bài học nhằm phát huy kết quả đã đạt được, xây dựng các biện pháp, đưa ra những quyết định khắc phục những tồn tại, tạo điều kiện nâng cao chất lượng dạy học. Do đó, Kiểm tra đánh giá chỉ thực sự có ý nghĩa khi đảm bảo các nguyên tắc:

Đảm bảo tính khách quan

Là sự phản ánh trung thực kết quả thu nhận được từ nội dung tài liệu học tập của HS so với yêu cầu mục tiêu, chương trình của môn học. Nội dung Kiểm tra phải phù hợp với các yêu cầu chung của chương trình đề ra. Thực hiện tổ chức Kiểm tra phải nghiêm túc, nghiêm minh, chặt chẽ tránh hiện tượng tiêu cực trong thi cử. Để đảm bảo tính khách quan trong Kiểm tra đánh giá, cần cải tiến, đổi mới các nội dung, hình thức, phương pháp Kiểm tra đánh giá, từ khâu ra đề, tổ chức thi, tới khâu chấm thi. Tùy vào tính chất của môn học mà cần lựa chọn phương pháp và hình thức cho phù hợp với đặc thù môn học.

Đảm bảo tính toàn diện

Trong quá trình Kiểm tra đánh giá phải chú ý đến tính toàn diện về cả số lượng, chất lượng mà HS chiếm lĩnh từ môn học, cần phải xét về mặt phù hợp với mục tiêu của môn học, chương trình, khóa học. Quá trình ĐG phải quan tâm đến chất lượng chiếm lĩnh kiến thức, kỹ năng thực hành, thao tác, vận dụng thuộc về các môn học; về kết quả phát triển năng lực hoạt động trí tuệ, tư duy sáng tạo, ý thức, thái độ… trong đó, chú ý ĐG cả số lượng và chất lượng, cả nội dung và hình thức.

Đảm bảo tính thường xuyên và hệ thống

Quá trình Kiểm tra đánh giá cần được thực hiện một cách thường xuyên theo kế hoạch và mang tính hệ thống. Kiểm tra có hệ thống giúp thu thập chính xác, đầy đủ thông tin cần thiết cho việc ĐG khách quan, toàn diện. Ngoài ra với lượng thông tin đầy đủ sẽ có cơ sở chắc chắn để thực hiện điều chỉnh hoạt động Giáo dục. Do vậy, cần thực hiện kết hợp các hình thức Kiểm tra đánh giá thường xuyên với Kiểm tra đánh giá định kỳ; số lần, hình thức Kiểm tra cần phù hợp đảm bảo cho việc ĐG kết quả học tập của HS. Luận văn: Quản lý hoạt động kiểm tra đánh giá học tập học sinh.

Đảm bảo tính xác nhận và phát triển

Tính xác nhận là việc Kiểm tra đánh giá phải khẳng định được hiện trạng của nội dung cần ĐG so với mục tiêu ĐG (cả về mặt định tính lẫn định lượng) và nguyên nhân của hiện trạng đó dựa trên những tư liệu khoa học, chính xác và các lập luận xác đáng. Tuy nhiên, Giáo dục có bản chất nhân đạo và phát triển nên việc Kiểm tra đánh giá cũng phải mang tính phát triển, tức là phải đảm bảo chức năng phát triển của ĐG giúp cho người học không chỉ nhận ra hiện trạng cái mình đạt được (chức năng xác nhận) mà còn có niềm tin vào khả năng của mình trong việc tiếp tục phát triển hoặc khắc phục những điểm không phù hợp. Nói cách khác, Kiểm tra đánh giá trong dạy học không đơn thuần là phán xét kết quả học tập người học mà thực sự là một nội dung của hoạt động dạy – học.

Đảm bảo tính quy chuẩn, khoa học trong Kiểm tra đánh giá

KTĐG dù theo bất kỳ hình thức nào cũng đều nhằm mục tiêu phát triển hoạt động dạy – học, đồng thời phải đảm bảo lợi ích cho người được ĐG. Vì vậy, Kiểm tra đánh giá cần tuân theo những chuẩn mực nhất định, những chuẩn này được qui định rõ trong qui chế chuyên môn, phân phối chương trình như: xác định rõ nội dung, cách thức, thời điểm thực hiện và công khai đối với HS. Như vậy, mới tránh được sự tùy tiện, ngẫu hứng trong quá trình Kiểm tra đánh giá và kết quả mới đảm bảo tính ổn định.

1.3.4. Các hình thức, phương pháp Kiểm tra đánh giá học tập của HS

1.3.4.1. Các hình thức Kiểm tra đánh giá

Đánh giá, xếp loại hạnh kiểm của HS: Phải căn cứ vào biểu hiện cụ thể về thái độ và hành vi đạo đức; ứng xử trong mối quan hệ với thầy giáo, cô giáo, với bạn bè và quan hệ Xã hội; ý thức phấn đấu vươn lên trong học tập; kết quả tham gia lao động, hoạt động tập thể của lớp, của trường và hoạt động Xã hội; rèn luyện thân thể, giữ gìn vệ sinh và bảo vệ môi trường. Hạnh kiểm được xếp thành 4 loại: Tốt, Khá, Trung bình, Yếu sau khi kết thúc học kỳ, năm học. Không căn cứ vào kết quả học tập nhưng có xem xét đến kết quả học tập khi xếp hạnh kiểm [3]. Đánh giá, xếp loại học lực: Căn cứ ĐG học lực của HS là hoàn thành chương trình các môn học trong kế hoạch Giáo dục của cấp học, kết quả đạt được của các bài Kiểm tra. Học lực được xếp thành 5 loại: Giỏi, Khá, Trung bình, Yếu và Kém [3].

Việc ĐG xếp loại học lực được tiến hành trên cơ sở Kiểm tra với các hình thức sau:

KTĐG thường xuyên Luận văn: Quản lý hoạt động kiểm tra đánh giá học tập học sinh.

  • Việc ĐG này hướng tới các mục tiêu trung gian của bài giảng, bộ môn, khoá học… dựa trên cơ sở sự hình thành kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo diễn ra trong suốt quá trình học tập của người học đối với môn học cụ thể.
  • Sự tiếp thu thông tin phản hồi nhanh, liên tục… từ phía người học tạo điều kiện thuận lợi cho việc kịp thời điều khiển, điều chỉnh quá trình dạy – học cũng như việc khẳng định sự tiến bộ của người học qua các giai đoạn tiến tới thực hiện mục tiêu cuối cùng.
  • Mang tính khoa học cao: Không đề cập xác định cụ thể thời gian, địa điểm phương thức thực hiện việc Kiểm tra đánh giá (có thể được thực hiện một cách thường xuyên trong tiết học: đầu, giữa, cuối giờ học; cả ở trong tiết lên lớp chính thức lẫn giờ học ngoại khoá …) song quá trình Kiểm tra đánh giá vẫn giữ nguyên các tiêu chí. Tuy nhiên, đối với hình thức này phương pháp và các bước Kiểm tra đánh giá cần được sử dụng đặc biệt linh hoạt để: Phù hợp đặc điểm của người học; Phù hợp môi trường học tập cụ thể; Phù hợp với từng môn học; Tạo động lực phát triển tích cực ở người học.

Hình thức Kiểm tra đánh giá này không chỉ thường được GV sử dụng để Kiểm tra phần nội dung bài học mà người học đã lĩnh hội được trong các bài giảng trước mà trong tiến trình của buổi học, hình thức này cũng được sử dụng khi GV sử dụng các phương pháp giảng dạy “Lấy người học làm trung tâm” – dạy cách học – để thu nhận trực tiếp thông tin phản hồi từ phía người học, từ đó có thể điều khiển, điều chỉnh hoạt động giảng dạy cho phù hợp.

Sơ đồ 1.3: Kiểm tra đánh giá thường xuyên trong quá trình dạy – hoc KTĐG định kỳ

  • Tập trung vào các mục đích học tập ngắn hạn và cụ thể. Đó là những bước dẫn đến kết quả học tập cuối cùng cần đạt được ở người học. Dựa trên kết quả học tập đạt được ở người học vào những thời điểm xác định của năm học (có thể hết chương, hết phần).
  • Cung cấp những thông tin phản hồi có liên quan đến trình độ hiện đạt được của người học, qua đó thể hiện mức độ tiến bộ của người học qua những thời điểm xác định của năm học, khóa học. Hình thức này đặc biệt có ý nghĩa trong việc nhìn nhận, ĐG lại nội dung – chương trình, PP giảng dạy của GV, góp phần vào việc điều chỉnh những vấn đề nảy sinh trong quá trình dạy học.

KTĐG tổng kết:

KTĐG tổng kết được thực hiện vào một thời điểm chính xác cuối năm học, cuối môn học. Loại Kiểm tra đánh giá này được sử dụng để đưa ra ĐG cuối cùng về kết quả học tập mà người học đạt được hướng tới mục tiêu cuối cùng của môn học, khóa học cần đạt.

1.3.4.2. Các phương pháp Kiểm tra đánh giá

Trong Kiểm tra đánh giá có rất nhiều phương pháp như: Phương pháp quan sát, phương pháp vấn đáp, phương pháp viết… trong mỗi phương pháp lại chia làm nhiều phương pháp nhỏ khác tùy theo mục tiêu, nội dung, hình thức, mức độ, (như sơ đồ 1.4).

Sơ đồ 1.4: Các phương pháp Kiểm tra đánh giá

CÁC PHƯƠNG PHÁP Kiểm tra đánh giá Luận văn: Quản lý hoạt động kiểm tra đánh giá học tập học sinh.

Ngoài ra, khi áp dụng phương pháp Kiểm tra viết người ta cũng có thể thiết kế nhiều loại câu hỏi trắc nghiệm khác nhau cho phù hợp với từng mục tiêu, đối tượng hay nội dung khác nhau như mô tả trong sơ đồ dưới đây.

Sơ đồ 1.5: Các dạng câu hỏi trắc nghiệm

CÁC LOẠI CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM

1.3.5. Quy trình Kiểm tra đánh giá học tập của học sinh Quy trình Kiểm tra đánh giá bao gồm các bước sau

1.3.5.1. Xác định mục đích đánh giá

Đây là yếu tố đầu tiên mà người GV phải xác định trước khi tiến hành một hoạt động ĐG nào đó. ĐG được tiến hành ở nhiều thời điểm khác nhau trong quá trình dạy học. Ở mỗi thời điểm, ĐG có mục đích riêng, thí dụ:

  • Đánh giá “khởi sự” (Placement Evaluation) nhằm khảo sát kiến thức đã có của người học trước khi bắt đầu giảng dạy một môn học. Câu hỏi đặt ra là người học đã có những kiến thức, kĩ năng cần thiết để tiếp thu nội dung giảng dạy mới chưa? Họ có thể gặp những khó khăn gì trong quá trình học tập sắp tới.
  • ĐG theo tiến trình (ĐG hình thành – Formative Evaluation) được dùng để theo dõi sự tiến bộ của người học, nhằm ĐG mức độ đạt các mục tiêu trung gian, cung cấp các thông tin phản hồi để giúp người dạy – người học điều chỉnh hoạt động của mình để đạt mục tiêu cuối cùng.
  • Đánh giá chẩn đoán (Diagnostic Evaluation) nhằm phán đoán, dự báo những khó khăn mà người học có thể gặp phải, phát hiện nguyên nhân của các lỗi thường gặp và lặp đi lặp lại để tìm cách khắc phục.
  • Đánh giá tổng kết (Summative Evaluation) thường được tiến hành vào cuối kì giảng dạy 1 khoá học, một môn học, một đơn vị học tập nhằm xác định mức độ đạt được mục tiêu học tập và thường được dùng để có các quyết định Quản lý phù hợp, như lên lớp, thi lại. Kết quả của ĐG tổng kết cũng cung cấp các thông tin cần thiết để cải tiến chương trình đào tạo cũng như hiệu quả của việc dạy – học.

Như vậy, ĐG có nhiều mục đích và người GV phải xác định rõ mục đích của mình mới soạn thảo được các đề Kiểm tra đánh giá có giá trị, vì chính mục đích chi phối chuẩn ĐG, nội dung, hình thức của bài thi.

1.3.5.2. Lựa chọn các hình thức, phương pháp đánh giá

Trên cơ sở mục đích ĐG được xác định, người dạy quyết định phương pháp, hình thức ĐG phù hợp. Có thể dùng phương pháp quan sát, vấn đáp hay thi viết, trong thi viết có thể dùng loại trắc nghiệm tự luận hay Trắc nghiệm khách quan hoặc kết hợp cả 2 loại. Luận văn: Quản lý hoạt động kiểm tra đánh giá học tập học sinh.

1.3.5.3. Phân tích nội dung, xác định tiêu chuẩn, tiêu chí đánh giá cho từng nội dung cần đánh giá

Nếu chọn hình thức thi viết, thì đây là khâu quan trọng nhất. Trong quá trình phân tích nội dung cần ĐG, người soạn phải xem xét toàn bộ nội dung này và phân biệt:

  • Những nội dung chỉ cần tái hiện hay tái nhận.
  • Những nội dung cần giải thích, minh hoạ.
  • Những ý tưởng phức tạp cần được phân tích, giải thích, áp dụng trong những hoàn cảnh khác nhau. Khi đã xác định được mục đích Kiểm tra và hình thức ĐG thì quá trình phân tích toàn bộ nội dung chương trình cần ĐG giúp nhà Quản lý bao quát toàn bộ nội dung, phân định mức độ hoàn thiện các nội dung đó (mục tiêu ở các bậc) của người học. Đây là cở sở quan trọng để thiết lập dàn bài thi.

1.3.5.4. Thiết lập dàn bài thi

Phương pháp thường dùng để thiết lập dàn bài thi là lập bản quy định hai chiều (table of specification) với một chiều (hàng dọc) biểu thị toàn bộ nội dung, còn một chiều kia biểu thị cho các bậc mục tiêu (quá trình tư duy) mà bài thi muốn khảo sát.

Mỗi phạm trù trong hai phạm trù tổng quát ấy (ND và MT) có thể được phân ra thành các phạm trù nhỏ khác (từ 4-12) tuỳ theo tính chất phức tạp của các mục tiêu. Ở mỗi ô có thể ghi số hay tỉ lệ phần trăm câu hỏi dự tính cho mục tiêu và nội dung, ứng với hàng dọc và hàng ngang của ô ấy.

1.3.5.5. Lựa chọn hoặc viết các câu hỏi

Dàn bài thi đã cho ta biết số lượng và bậc mục tiêu ứng với từng nội dung cần Kiểm tra. Bước tiếp theo là lựa chọn (nếu đã có ngân hàng câu hỏi) hoặc viết các câu hỏi.

Đối với các mục tiêu bậc 1 và một phần mục tiêu bậc 2 có thể viết các câu Trắc nghiệm khách quan nhiều lựa chọn hoặc ghép đôi. Số lượng câu hỏi tuỳ thuộc và thời gian được dành để Kiểm tra. Trung bình để chọn được câu trả lời đúng cho một câu hỏi nhiều lựa chọn thì HS cần một phút. Đây cũng là căn cứ tương đối để người viết quyết định số lượng câu hỏi cho các mục tiêu ở bậc tương ứng.

1.3.5.6. Phân tích câu hỏi

Việc phân tích các câu hỏi đã lựa chọn hoặc tự viết nhằm xác định xem các câu hỏi có thể dùng làm công cụ để Kiểm tra việc đạt các mục tiêu trong các nội dung cần Kiểm tra hay không. Việc phân tích các câu hỏi cũng nhằm ĐG độ khó, độ phân biệt của các câu hỏi đó để thay đổi hoặc điều chỉnh nếu cần. Luận văn: Quản lý hoạt động kiểm tra đánh giá học tập học sinh.

Sau khi xem xét từng câu hỏi, cần phân tích để ĐG toàn bộ đề thi vừa được biên soạn.

Các tiêu chí để ĐG một đề Kiểm tra

  • 1- Phạm vi nội dung cần bao quát
  • 2- Sự cân đối của các loại câu hỏi về độ khó (bậc mục tiêu)
  • 3- Cơ hội bình đẳng để trả lời cho toàn bộ người học
  • 4- Những sai sót có thể có trong bài thi

1.3.5.7. Tổ chức thi, chấm điểm

Sau khi đã phân tích từng câu hỏi và toàn bộ bài thi, công việc tiếp theo là tổ chức một đợt thi. Đối với các kì Kiểm tra – thi dưới hình thức Trắc nghiệm khách quan, việc in đề, hướng dẫn HS làm bài đòi hỏi nhiều công sức của GV hơn vì đây là hình thức Kiểm tra đánh giá mới ở nước ta.

Việc xây dựng phương thức chấm điểm, các tiêu chuẩn, tiêu chí cho điểm chính xác, nhất là đối với các câu Trắc nghiệm tự luận là rất cần thiết. Hạn chế dùng các câu Trắc nghiệm tự luận tự do và thay vào đó các Trắc nghiệm tự luận có cấu trúc sẽ giúp khắc phục khó khăn này. Phương thức chấm điểm phải khắc phục một số khó khăn thường gặp như:

  • Thay đổi chuẩn ĐG.
  • Phân biệt đối xử do chữ viết của thí sinh.

Một phương thức chấm điểm khách quan đối với các câu Trắc nghiệm tự luận là một GV chấm từng câu hỏi cho tất cả thí sinh chứ không chấm tất cả các câu hỏi của một thí sinh.

Một điều cần lưu ý khi chấm các bài Kiểm tra, nhất là các bài Kiểm tra theo tiến trình là cần có lời nhận xét của GV. Những nhận xét chính xác, cách động viên của GV sẽ giúp người học sửa lỗi và tiến bộ sau mỗi kì Kiểm tra.

1.3.5.8. Ghi chép, phân tích, lưu trữ kết quả thi trước khi công bố kết quả

Với kết quả đã chấm, trong các kì Kiểm tra đánh giá, do GV tự tổ chức cho lớp của mình, việc ghi chép, phân tích qua thống kê đơn giản và lưu trữ các kết quả cho phép GV theo dõi sự tiến bộ của người học, các dạng lỗi mà họ thường gặp để giúp họ điều chỉnh cách học, khắc phục những nhược điểm, đồng thời động viên họ học tập ngày càng tốt hơn. Những thông tin này cũng giúp GV có những điều chỉnh trong nội dung bài giảng, phương pháp giảng dạy. Đối với các kì thi Trắc nghiệm khách quan tiêu chuẩn hoá, việc phân tích kết quả các bài thi cho phép xác định độ khó, độ phân biệt của các câu trắc nghiệm, độ khó trung bình của một bài trắc nghiệm, độ giá trị, độ tin cậy của bài thi.

1.3.6. Xu hướng đổi mới Kiểm tra đánh giá học tập hiện nay Luận văn: Quản lý hoạt động kiểm tra đánh giá học tập học sinh.

Hoạt động Kiểm tra đánh giá học tập của HS nói chung và ở trường Trung học phổ thông hiện nay nói riêng đang đứng trước những áp lực rất lớn của Xã hội, đòi hỏi phải có sự đổi mới mạnh mẽ để góp phần đổi mới Giáo dục, đáp ứng những yêu cầu cấp bách về nguồn nhân lực. Từ thực tế đó, trong những năm gần đây hoạt động này đang có những xu thế thay đổi mạnh mẽ cả trên thế giới và trong nước. Đó là:

Chuyển từ chủ yếu sử dụng việc Kiểm tra đánh giá khi kết thúc môn học, khóa học (ĐG tổng kết) nhằm mục đích xếp hạng, phân loại sang sử dụng đa dạng các loại hình Kiểm tra đánh giá, coi trọng ĐG thường xuyên, định kì sau từng phần, từng chương nhằm mục đích phản hồi, điều chỉnh quá trình giảng dạy và học tập (ĐG quá trình).

Chuyển từ chủ yếu ĐG kiến thức, kĩ năng sang ĐG năng lực của người học. Tức là chuyển trọng tâm ĐG chủ yếu từ ghi nhớ, hiểu kiến thức… (ĐG kiểu truyền thống) sang ĐG năng lực vận dụng, giải quyết những vấn đề của thực tiễn cuộc sống (ĐG hiện đại – phi truyền thống), đặc biệt chú trọng ĐG các năng lực tư duy bậc cao như tư duy sáng tạo, siêu nhận thức (nghĩ về cách suy nghĩ). ĐG khả năng tiềm ẩn của HS dựa trên kết quả đầu ra cuối một giai đoạn học tập, là quá trình tìm kiếm minh chứng về việc HS đã thực hiện thành công các sản phẩm đó.  ĐG năng lực nhằm giúp GV có thông tin kết quả học tập của HS để điều chỉnh hoạt động giảng dạy; giúp HS điều chỉnh hoạt động học tập; giúp GV và nhà trường xác nhận, xếp hạng kết quả học tập.

Chuyển từ ĐG một chiều (GV đánh giá) sang ĐG đa chiều (không chỉ do người thầy ĐG mà HS cùng tham gia ĐG, ĐG lẫn nhau, đặc biệt là tự ĐG bản thân).

Chuyển ĐG từ một hoạt động độc lập với quá trình dạy học sang việc tích hợp ĐG vào quá trình dạy học, xem ĐG là một phương pháp dạy học (Leaning tool).

Sử dụng Công nghệ thông tin trong Kiểm tra đánh giá: sử dụng các phần mềm thẩm định các đặc tính đo lường của công cụ (độ tin cậy, độ khó, độ phân biệt, độ giá trị) và sử dụng các mô hình thống kê vào xử lý phân tích, lý giải kết quả ĐG.

1.4. Quản lý hoạt động Kiểm tra đánh giá học tập của học sinh Trung học phổ thông

1.4.1. Những nội dung quản lý hoạt động Kiểm tra đánh giá

Trên cơ sở lý luận về Quản lý, có thể tiếp cận nội dung Quản lý hoạt động Kiểm tra đánh giá ở hai góc độ: tiếp cận theo quá trình và tiếp cận theo chức năng Quản lý. Để thống nhất về cách trình bày, mục này tác giả lựa chọn những nội theo hướng tiếp cận chức năng. Từ đó, luận văn đưa ra khái niệm về Quản lý hoạt động Kiểm tra đánh giá học tập như sau: Quản lý hoạt động Kiểm tra đánh giá học tập là quá trình lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và Kiểm tra quá trình Kiểm tra đánh giá học tập nhằm thực hiện tốt nhất những mục tiêu Kiểm tra đánh giá đã đề ra. Luận văn: Quản lý hoạt động kiểm tra đánh giá học tập học sinh.

Nói cách khác Quản lý hoạt động Kiểm tra đánh giá học tập là tổng thể các công việc của CBQL, GV và người học, bao gồm việc đề ra cơ chế, chính sách, đề ra các giải pháp thực hiện, huy động, phân bổ nguồn lực, tổ chức thực hiện, thanh tra, Kiểm tra để thực hiện một cách tốt nhất tất cả các khâu trong quá trình Kiểm tra đánh giá nhằm ĐG chính xác kết quả học tập của người học và giúp cải thiện việc dạy và học. Cụ thể từng nội dung thể hiện như sau:

1.4.1.1. Xây dựng kế hoạch Kiểm tra đánh giá

Xây dựng kế hoạch Kiểm tra đánh giá học tập của HS là yếu tố quan trọng góp phần nâng cao chất lượng Kiểm tra đánh giá. Kế hoạch Kiểm tra đánh giá bao gồm bảng phân chia nội dung chương trình Giáo dục theo thời gian một cách hợp lý, dựa trên yêu cầu, nhiệm vụ của chương trình Giáo dục và các điều kiện được đảm bảo, nhằm hướng tới mục tiêu Giáo dục, mục tiêu từng môn học. Kế hoạch cũng cần thể hiện được một cách cụ thể về thời gian thực hiện, đối tượng thực hiện, nguồn lực dự kiến, hình thức, biện pháp, cấu trúc đề thi…

1.4.1.2. Tổ chức Kiểm tra đánh giá

Trên cơ sở kế hoạch đã xây dựng, các bộ phận được phân công tiến hành các công tác chuẩn bị cơ sở vật chất, nhân sự và các điều kiện đảm bảo khác, tiến hành các khâu ra đề, in sao đề thi, coi và chấm thi, tổng hợp điểm của môn học, thông báo kết quả, giải quyết những tình huống hay vướng mắc phát sinh trong quá trình thực hiện…

1.4.1.3. Chỉ đạo thực hiện kế hoạch kiểm tra, đánh giá

Lãnh đạo nhà trường chỉ đạo các tổ, nhóm chuyên môn và các bộ phận phụ trách công tác khảo thí phối hợp với nhau thực hiện kết hoạch Kiểm tra đánh giá đã được xây dựng, chỉ đạo việc xây dựng kế hoạch giảng dạy phù hợp với kế hoạch đảm bảo tính thống nhất, toàn diện và đạt kết quả.

1.4.1.4. Kiểm tra, đánh giá việc thực hiện kế hoạch

Để công tác Quản lý hoạt động Kiểm tra đánh giá đạt được mục tiêu đề ra, khâu thanh tra, Kiểm tra và ĐG trong và sau quá trình Kiểm tra đánh giá là vô cùng quan trọng. Ở đây bao gồm việc thanh tra, giám sát các khâu ra đề, in sao đề, coi thi, chấm thi, lên điểm… để đảm bảo chính xác, khách quan và bảo mật, đồng thời là việc ĐG lại một cách toàn diện quá trình thực hiện kế hoạch để rút kinh nghiệm cho những lần sau và làm cơ sở cho việc đưa ra các quyết định khen thưởng hay xử lý kỷ luật.

1.4.2. Kiểm tra đánh giá trong bối cảnh đổi mới giáo dục hiện nay

Bối cảnh thế giới Luận văn: Quản lý hoạt động kiểm tra đánh giá học tập học sinh.

Đổi mới giáo dục đào tạo đang trở thành xu thế toàn cầu trong mấy thập niên gần đây. Vào những thập niên cuối của thế kỷ XX, khoa học và công nghệ trên thế giới phát triển như vũ bão tạo ra những bước tiến nhảy vọt, đặc biệt trong các lĩnh vực điện tử – viễn thông, tin học và công nghệ thông tin. Những thành tựu của sự phát triển này đã tác động mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống Xã hội trong từng quốc gia và trên phạm vi toàn cầu. Để diễn đạt bước ngoặt trong tiến trình phát triển của nhân loại người ta đã nói đến một thời đại tin học với sự bùng nổ thông tin và công nghệ đổi mới nhanh đến mức chóng mặt. Đó chính là nền tảng khoa học – công nghệ của quá trình toàn cầu hóa và sự phát triển của kinh tế tri thức. Những chuyển biến hết sức mạnh mẽ này đã làm thay đổi, nếu không nói là đảo lộn nhiều triết lý, quan niệm, phương thức tổ chức và hoạt động của hầu hết các lĩnh vực mà trước hết và chủ yếu lại chính là giáo dục và đào tạo.

Tri thức mới được tạo ra với cấp số nhân, được phổ biến nhanh và rộng đến mức không hình dung được lại có thể lưu giữ những khối lượng khổng lồ bằng những phương tiện vô cùng gọn nhẹ và việc tìm kiếm, sử dụng dễ dàng đến mức trẻ em cũng có thể làm được và thậm chí còn thao tác nhanh hơn người lớn… Trong bối cảnh ấy kiến thức chuyên môn cụ thể rất nhanh lạc hậu, cái mới luôn có cái mới hơn thay thế trong một thời gian ngắn. Đã xuất hiện và trở nên rất phổ biến các lớp học điện tử, thư viện điện tử, các chương trình đào tạo từ xa, hội nghị trực tuyến…Cho đến hôm nay việc tìm kiếm thông tin, kiến thức và giao lưu qua mạng đã trở nên phổ biến hơn rất nhiều so với việc đọc sách, báo giấy trước đây. Đã trở thành câu nói cửa miệng của rất nhiều người, rằng với đà phát triển của công nghệ thông tin như hiện nay, không thể biết trước điều gì sẽ xảy ra. [35:2]

Các nước, bắt đầu từ những nước có nền khoa học phát triển, từ nhiều thập niên gần đây đã tiến hành xem xét lại toàn bộ hệ thống giáo dục của mình và một chuyển biến tương đối rõ là họ chuyển dần từ dạy kiến thức chuyên môn sang dạy cách tự học. Việc học tập không chỉ thực hiện ở nhà trường mà có thể ở nhà hoặc ở bất cứ đâu. Cơ hội học tập không chỉ dành cho với lứa tuổi cắp sách đến trường mà với bất cứ ai. Triết lý xã hội học tập, học suốt đời dần hình thành.

Bối cảnh trong nước

Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI (gọi tắt là Nghị quyết 29) về đổi mới căn bản, toàn diện Giáo dục&ĐT đã có những ĐG tổng quát về những thành tựu, hạn chế, chỉ ra những nguyên nhân của những tồn tại trong giáo dục – đào tạo nước ta, trên cơ sở đó đưa ra định hướng đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.

Nghị quyết đã đưa ra 7 quan điểm chỉ đạo, xác định mục tiêu tổng quát là: “Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân. Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả. Luận văn: Quản lý hoạt động kiểm tra đánh giá học tập học sinh.

Xây dựng nền Giáo dục mở, thực học, thực nghiệp, dạy tốt, học tốt, Quản lý tốt; có cơ cấu và phương thức Giáo dục hợp lý, gắn với xây dựng Xã hội học tập; bảo đảm các điều kiện nâng cao chất lượng; chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, Xã hội hóa và hội nhập quốc tế hệ thống giáo dục và đào tạo; giữ vững định hướng Xã hội chủ nghĩa và bản sắc dân tộc. Phấn đấu đến năm 2030, nền Giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực”.[2:8]

Nghị quyết xác định các mục tiêu cụ thể cho từng cấp học, trong đó có mục tiêu cụ thể đối với Giáo dục phổ thông: “tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho HS. Nâng cao chất lượng Giáo dục toàn diện, chú trọng Giáo dục lý tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Phát triển khả năng sáng tạo, tự học, khuyến khích học tập suốt đời. Hoàn thành việc xây dựng chương trình Giáo dục phổ thông giai đoạn sau năm 2015. Bảo đảm cho HS có trình độ trung học cơ sở (hết lớp 9) có tri thức phổ thông nền tảng, đáp ứng yêu cầu phân luồng mạnh sau trung học cơ sở; trung học phổ thông phải tiếp cận nghề nghiệp và chuẩn bị cho giai đoạn học sau phổ thông có chất lượng. Nâng cao chất lượng phổ cập Giáo dục, thực hiện Giáo dục bắt buộc 9 năm từ sau năm 2020”. [2: 9-10]

Để thực hiện được những mục tiêu trên, Nghị quyết 29 cũng đã xác định các nhiệm vụ, giải pháp cơ bản, trong đó có nhiệm vụ và giải pháp về đổi mới Kiểm tra đánh giá: “ Đổi mới căn bản hình thức và phương pháp thi, Kiểm tra và ĐG kết quả Giáo dục, đào tạo, bảo đảm trung thực, khách quan.

Việc thi, Kiểm tra và ĐG kết quả Giáo dục, đào tạo cần từng bước theo các tiêu chí tiên tiến được Xã hội và cộng đồng Giáo dục thế giới tin cậy và công nhận. Phối hợp sử dụng kết quả ĐG trong quá trình học với ĐG cuối kỳ, cuối năm học; ĐG của người dạy với tự ĐG của người học; ĐG của nhà trường với ĐG của gia đình và của Xã hội.

Đổi mới phương thức thi và công nhận tốt nghiệp trung học phổ thông theo hướng giảm áp lực và tốn kém cho Xã hội mà vẫn bảo đảm độ tin cậy, trung thực, ĐG đúng năng lực HS, làm cơ sở cho việc tuyển sinh Giáo dục nghề nghiệp và Giáo dục đại học.

Đổi mới phương thức ĐG và công nhận tốt nghiệp Giáo dục nghề nghiệp trên cơ sở kiến thức, năng lực thực hành, ý thức kỷ luật và đạo đức nghề nghiệp. Có cơ chế để tổ chức và cá nhân sử dụng lao động tham gia vào việc ĐG chất lượng của cơ sở đào tạo. Luận văn: Quản lý hoạt động kiểm tra đánh giá học tập học sinh.

Đổi mới phương thức tuyển sinh đại học, cao đẳng theo hướng kết hợp sử dụng kết quả học tập ở phổ thông và yêu cầu của ngành đào tạo. ĐG kết quả đào tạo đại học theo hướng chú trọng năng lực phân tích, sáng tạo, tự cập nhật, đổi mới kiến thức; đạo đức nghề nghiệp; năng lực nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ; năng lực thực hành, năng lực tổ chức và thích nghi với môi trường làm việc. Giao quyền tự chủ tuyển sinh cho các cơ sở Giáo dục đại học.

Thực hiện ĐG chất lượng Giáo dục, đào tạo ở cấp độ quốc gia, địa phương, từng cơ sở Giáo dục, đào tạo và ĐG theo chương trình của quốc tế để làm căn cứ đề xuất chính sách, giải pháp cải thiện chất lượng Giáo dục, đào tạo.

Hoàn thiện hệ thống kiểm định chất lượng Giáo dục. Định kỳ kiểm định chất lượng các cơ sở Giáo dục, đào tạo và các chương trình đào tạo; công khai kết quả kiểm định. Chú trọng Kiểm tra, ĐG, kiểm soát chất lượng Giáo dục và đào tạo đối với các cơ sở ngoài công lập, các cơ sở có yếu tố nước ngoài. Xây dựng phương thức Kiểm tra, ĐG phù hợp với các loại hình Giáo dục cộng đồng.

Đổi mới cách tuyển dụng, sử dụng lao động đã qua đào tạo theo hướng chú trọng năng lực, chất lượng, hiệu quả công việc thực tế, không quá nặng về bằng cấp, trước hết là trong các cơ quan thuộc hệ thống chính trị. Coi sự chấp nhận của thị trường lao động đối với người học là tiêu chí quan trọng để ĐG uy tín, chất lượng của cơ sở Giáo dục đại học, nghề nghiệp và là căn cứ để định hướng phát triển các cơ sở Giáo dục, đào tạo và ngành nghề đào tạo”.

Thực hiện Nghị quyết 29, trong thời gian gần đây xác định Kiểm tra đánh giá là khâu đột phá có thể thực hiện trước một bước, Bộ Giáo dục&ĐT đã liên tục có những chỉ đạo đổi mới hoạt động Kiểm tra đánh giá ở mọi bậc học (Thông tư 30/2014/TT-BGDĐT về quy định ĐG học sinh tiểu học; việc ban hành quy chế thi Tốt nghiệp Trung học phổ thông 2014 và đặc biệt là việc ban hành quy chế kỳ thi Trung học phổ thông Quốc gia 2015…).

Từ những thay đổi trên, đòi hỏi mỗi nhà trường, thậm chí mỗi cá nhân (GV, HS, phụ huynh) đều phải có sự thích nghi với hoàn cảnh mới của nền Giáo dục nước nhà, trong đó Kiểm tra đánh giá là một hoạt động căn bản cần phải chú trọng.

1.4.3. Những yêu cầu về quản lí hoạt động Kiểm tra đánh giá hiện nay

Quản lý hoạt động Kiểm tra đánh giá là vô cùng quan trọng bởi nó là yếu tố quyết định để đảm bảo chất lượng Kiểm tra đánh giá. Muốn Quản lý hoạt động Kiểm tra đánh giá hiệu quả phải đảm bảo các yêu cầu sau:

  • Cần lập kế hoạch Kiểm tra đánh giá, mục đích của Kiểm tra đánh giá.
  • Mục tiêu, nội dung ĐG cụ thể. Xây dựng được ngân hàng câu hỏi, đáp án đáp ứng được mục tiêu môn học, chương trình đào tạo.
  • Xây dựng quy trình Kiểm tra đánh giá phù hợp.
  • Tổ chức, chỉ đạo việc Kiểm tra đánh giá theo đúng quy trình.
  • Thanh tra, Kiểm tra hoạt động Kiểm tra đánh giá để từ đó điều chỉnh kịp thời xử lý các nội dung thiếu sót, sai lệch trong quá trình Kiểm tra đánh giá. Luận văn: Quản lý hoạt động kiểm tra đánh giá học tập học sinh.

1.4.4. Những yếu tố ảnh hưởng đến quản lý hoạt động Kiểm tra đánh giá học tập của học sinh Trung học phổ thông

1.4.4.1. Yếu tố nhận thức

Yếu tố nhận thức được xác định là một yếu tố chủ quan có ảnh hưởng tới toàn bộ hoạt động Kiểm tra đánh giá và công tác Quản lý hoạt động Kiểm tra đánh giá. Nếu những GV, HS có nhận thức đúng đắn về vai trò, ý nghĩa của hoạt động Kiểm tra đánh giá, nhận thức đầy đủ về quy chế thi, Kiểm tra sẽ giúp họ có những hành động đúng, ngược lại nếu nhận thức sai hoặc không đầy đủ sẽ khiến họ coi nhẹ hoạt động này, thậm chí là có những tác động tiêu cực. Điều này sẽ là rào cản đến quá trình Quản lý, người Quản lý sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, nhận thức của chính các nhà Quản lý cũng có ảnh hưởng không nhỏ, nếu nhận thức không đúng sẽ dẫn đến những quyết định sai lầm, ngược lại nếu họ có nhận thức đúng đắn sẽ giúp họ đưa ra những tác động tích cực, những quyết định đúng đắn. Do vậy, trong quá trình Quản lý hoạt động Kiểm tra đánh giá cần phải giúp cán bộ Quản lý, GV, HS nhận thức đúng vai trò của Kiểm tra đánh giá và có kiến thức nhất định về Kiểm tra đánh giá học tập của HS thông qua việc thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng về Kiểm tra đánh giá nói chung, quy chế thi, Kiểm tra, nghiệp vụ soạn đề Kiểm tra nói riêng…

1.4.4.2. Kỹ năng sử dụng phương pháp Kiểm tra đánh giá của GV

Sử dụng phương pháp Kiểm tra đánh giá có vai trò hết sức quan trọng tới kết quả học tập của HS. Nên trong quản lý hoạt động Kiểm tra đánh giá cần chỉ đạo áp dụng nhiều phương pháp Kiểm tra đánh giá khác nhau (viết, vấn đáp, Trắc nghiệm khách quan…), thực hiện Kiểm tra đánh giá thường xuyên để có thể sửa lỗi, điều chỉnh, bổ sung những sai sót về kiến thức cho HS kịp thời. Các phương pháp Kiểm tra đánh giá đang được sử dụng phổ biến trong các trường Trung học phổ thông hiện nay chủ yếu giới hạn trong các bài thi trên giấy dưới hai hình thức quen thuộc là tự luận, Trắc nghiệm khách quan. Cả hai hình thức này đều phù hợp để chứng minh việc nắm vững kiến thức, riêng đối với hình thức tự luận cho phép HS chứng tỏ kỹ năng lý luận, diễn đạt bằng ngôn ngữ và trình bày kiến thức theo một cấu trúc hợp lý. Bên cạnh những phương pháp đã biết, có thể kể một vài phương pháp Kiểm tra đánh giá mới có tính thực tiễn cao như ĐG qua đề án, hoặc ĐG kỹ năng thực hành thông qua các tình huống mô phỏng (ví dụ như Kiểm tra kỹ năng nói trong môn ngoại ngữ thông qua tình huống tham dự phỏng vấn trong khi xin việc).

1.4.4.3. Kỹ năng quản lý hoạt động Kiểm tra đánh giá Luận văn: Quản lý hoạt động kiểm tra đánh giá học tập học sinh.

Bên cạnh sự am hiểu về hoạt động Kiểm tra đánh giá thì việc nhà quản lý phải trang bị cho mình kỹ năng quản lý hoạt động này là cần thiết, kỹ năng quản lý thuần thục sẽ giúp cho quá trình quản lý hoạt động Kiểm tra đánh giá trở nên trôi chảy. Có thể đề cập tới một số kỹ năng cơ bản sau: thiết lập mục tiêu, xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện kế hoạch và Kiểm tra việc thực hiện hoạt động Kiểm tra đánh giá.

1.4.4.4. Ý thức tuân thủ các nguyên tắc của Kiểm tra đánh giá

Nhận thức đúng đắn về vai trò, ý nghĩa của hoạt động Kiểm tra đánh giá là chưa đủ mà trong quá trình tổ chức và thực hiện hoạt động này cần nghiêm túc tuân thủ các nguyên tắc của Kiểm tra đánh giá học tập. Thực tế cho thấy hiện nay là đội ngũ những người làm Giáo dục đã và đang trực tiếp hoặc gián tiếp vi phạm nguyên tắc của Kiểm tra đánh giá. Điều này đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới mục đích, ý nghĩa của hoạt động Kiểm tra đánh giá.

1.4.4.5. Chế độ, chính sách dành cho hoạt động Kiểm tra đánh giá

Chế độ, chính sách cho cán bộ, GV tham gia hoạt động Kiểm tra đánh giá có tác động rất lớn tới kết quả của Kiểm tra đánh giá. Nếu chế độ, chính sách dành cho cán bộ, GV tham gia hoạt động Kiểm tra đánh giá phù hợp sẽ nâng cao được ý thức, trách nhiệm, năng lực chuyên môn, hạn chế được những tiêu cực thúc đẩy đổi mới Kiểm tra đánh giá. Cơ sở vật chất trang thiết bị đầy đủ sẽ là tiền đề thuận lợi cho tổ chức Kiểm tra đánh giá. Trên thực tế những chế độ, chính sách hiện nay của nhà nước là chưa phù hợp, chậm được đổi mới; cơ sở vật chất trang thiết bị thiếu thốn khiến cho việc tổ chức, triển khai gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc. Đây là nguyên nhân, là rào cản cho tiến trình đổi mới cũng như duy trì hoạt động Kiểm tra đánh giá. Đặc biệt trong những năm gần đây, Bộ Giáo dục&ĐT đã liên tục có những thay đổi về quan niệm, cách thức, công cụ Kiểm tra đánh giá ở mọi bậc học như Thông tư 30/2014/TT-BGDĐT về quy định đánh giá HS tiểu học; việc ban hành quy chế thi Tốt nghiệp Trung học phổ thông 2014 và đặc biệt là việc ban hành quy chế kỳ thi Trung học phổ thông Quốc gia 2015. Những chính sách đó tác động mạnh mẽ và sâu sắc đến hoạt động Kiểm tra đánh giá ở các trường học nói chung, nhất là các trường Trung học phổ thông.

1.4.4.6. Nhận thức của xã hội, của cha mẹ HS

Nhận thức của Xã hội, của cha mẹ HS về Kiểm tra đánh giá cũng có tác động nhất định. Tâm lý khoa cử, trọng bằng cấp của Xã hội, của cha mẹ HS đã và đang gây sức ép rất lớn cho Giáo dục nói chung và hoạt động Kiểm tra đánh giá nói riêng. Thậm chí tâm lý này còn là nguyên nhân của các hiện tượng tiêu cực trong thi cử gây nên những nhức nhối trong Giáo dục. Tuy nhiên thay đổi tâm lý của Xã hội, của cha mẹ HS không phải là không thực hiện được, muốn thay đổi nó cần phải có những định hướng, những cải cách của nhà nước về Giáo dục.

1.4.4.7. Chương trình giáo dục

Sơ đồ 1.6: Các thành tố của CT giáo dục Luận văn: Quản lý hoạt động kiểm tra đánh giá học tập học sinh.

Bối cảnh xã hội/chính sách/công nghệ/môi trường/kinh tế CTGD là kế hoạch tổng thể, hệ thống về toàn bộ hoạt động Giáo dục tại nhà trường. Nó bao gồm mục đích Giáo dục, mục tiêu, chuẩn đầu ra, nội dung Giáo dục (với độ rộng và sâu tương ứng với chuẩn đầu ra), phương thức Giáo dục và hình thức tổ chức Giáo dục (với các phương pháp, phương tiện, công cụ dạy học phù hợp), phương thức ĐG kết quả Giáo dục (trong so sánh, đối chiếu với chuẩn đầu ra của CT). [16, Tr:26].

Chương trình là một phức hợp bao gồm nhiều bộ phận cấu thành như: mục tiêu học tập; phạm vi, mức độ và cấu trúc nội dung học tập; các phương pháp, hình thức tổ chức học tập; Với tư cách là một thành tố của CTGD nên đương nhiên Kiểm tra đánh giá chịu sự tác động từ những thành tố khác trong CTGD như mục tiêu, nội dung, phương pháp – hình thức tổ chức dạy học.

1.4.4.8. Công nghệ thông tin

CNTT và truyền thông giúp cho chủ thể Quản lý dạy học thiết lập và vận hành được hệ thống thông tin Quản lý dạy học giúp cho chủ thể Quản lý dạy học có được các quyết định Quản lý dạy học đúng đắn và kịp thời. Mặt khác, các tiện ích của Công nghệ thông tin và truyền thông giúp cho người dạy và người học sưu tầm được nội dung, đổi mới phương pháp và hình thức tổ chức dạy học, cải thiện được phương thức ĐG kết quả học tập.

1.4.4.9. Văn bản, quy định, quy chế về kiểm tra, đánh giá

Luật pháp chính sách, điều lệ, quy chế của mỗi cơ sở Giáo dục, các quy định về chương trình, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức, phương thức ĐG học tập… đối với mỗi ngành, chuyên ngành đào tạo có ý nghĩa định hướng và điều chỉnh các hoạt động của chủ thể Quản lý dạy học và chủ thể dạy học trong xác định mục đích, lựa chọn nội dung tìm kiếm các phương pháp và hình thức tổ chức sử dụng các phương thức dạy học và Kiểm tra đánh giá học tập của HS… Chính vì vậy, luật pháp, chính sách, điều lệ, quy chế Giáo dục có ảnh hưởng đến kết quả quản lý Kiểm tra đánh giá học tập của HS.

Tiểu kết chương 1

Chương 1 là tổng kết một số cơ sở lý luận về hoạt động Kiểm tra đánh giá nói chung, về quản lý hoạt động Kiểm tra đánh giá học tập của HS Trung học phổ thông nói riêng. Nội dung của chương đã đề cập đến các khái niệm cơ bản liên quan đến khái niệm quản lý, Kiểm tra đánh giá, về vị trí, ý nghĩa, mục tiêu, hình thức, phương pháp và quy trình của hoạt động Kiểm tra đánh giá học tập của HS Trung học phổ thông cũng như xu hướng Kiểm tra đánh giá học tập trong bối cảnh đổi mới căn bản và toàn diện giáo giục hiện nay. Đặc biệt là những lý luận về quản lý hoạt động Kiểm tra đánh giá học tập của HS Trung học phổ thông như nội dung của quản lý hoạt động Kiểm tra đánh giá, các yếu tố ảnh hưởng tới quản lý Kiểm tra đánh giá học tập của HS Trung học phổ thông. Đây là những cơ sở lý luận quan trọng làm tiền đề cho việc:

  • Phân tích thực trạng Quản lý hoạt động Kiểm tra đánh giá học tập của HS ở trường Trung học phổ thông Nguyễn Du – Thanh Oai; Luận văn: Quản lý hoạt động kiểm tra đánh giá học tập học sinh.
  • Đề xuất những biện pháp Quản lý hoạt động Kiểm tra đánh giá học tập của HS ở trường Trung học phổ thông Nguyễn Du – Thanh Oai đáp ứng yêu cầu đổi mới trong giai đoạn hiện nay.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ: 

===>>> Luận văn: Thực trạng quản lý kiểm tra đánh giá học tập học sinh

One thought on “Luận văn: Quản lý hoạt động kiểm tra đánh giá học tập học sinh

  1. Pingback: Luận văn: Biện pháp quản lý kiểm tra đánh giá học tập học sinh

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Contact Me on Zalo
0906865464