Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Pháp luật về người đại diện của doanh nghiệp hay nhất năm 2025 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thạc sĩ thì với đề tài Luận văn: Pháp luật Việt Nam về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
TÓM TẮT LUẬN VĂN
Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là một trong những cá nhân quan trọng nhất trong quá trình vận hành và phát triển của doanh nghiệp. Tuy pháp luật hiện nay đã quy định khá nhiều về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp nhưng cũng bộc lộ một số hạn chế, tồn tại cần khắc phục. Do đó, mục tiêu của đề tài là nghiên cứu, phân tích những nội dung của pháp luật Việt Nam quy định về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Từ đó đưa ra những đánh giá nhằm làm rõ những ưu điểm, hạn chế của các quy định của pháp luật hiện hành về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Qua thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, tác giả chỉ ra những tồn tại, hạn chế trong những quy định của pháp luật và tìm ra nguyên nhân để đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật Việt Nam về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu: phương pháp phân tích; phương pháp so sánh luật học; phương pháp diễn giải, quy nạp. Những kết quả nghiên cứu của Luận văn góp phần hoàn thiện hành lang pháp lý về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp đồng thời có giá trị và ý nghĩa nhất định trong công tác nghiên cứu, giảng dạy và xây dựng pháp luật về doanh nghiệp nói chung và về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp nói riêng. Thông qua luận văn, tác giả đưa ra một số kiến nghị có thể giúp giải quyết từng bước nhiều khó khăn, gút mắc trong việc áp dụng những quy định pháp luật Việt Nam về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp; hướng tới xây dựng hành lang pháp lý về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp phù hợp với thực tiễn kinh doanh tại Việt Nam nhưng cũng tiếp thu những góc nhìn đa dạng của luật pháp các nước, lãnh thổ khác nhau về quan hệ đại diện.
- Từ khóa: Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, Luật Doanh nghiệp
Abstract:
The legal representative of the business is one of the most important individuals in the operation and development of the business. Although the current law has quite a lot of regulations on the legal representative of the business, it also reveals many limitations and shortcomings. Therefore, the objective of this title is study and analyze the contents of Vietnamese law on legal representatives of the business. From there, make assessments to clarify the advantages and limitations of the current legal provisions on legal representatives of the business. Through the practical application of the provisions of the law on the legal representative of the business, the author showed out the shortcomings and limitations in the provisions of the law and find out the reasons to propose ideas that recommend to improve the Vietnamese law on legal representatives of the business. The thesis uses the main research methods: analytical method; comparative jurisprudence method; interpretive and inductive methods. The research results of the thesis contribute to the completion of the legal corridor on the legal representative of the business and have certain value and significance in the research, teaching and law-making of the business in general and the legal representative of the business in particular. Through the thesis, the author offers a number of solutions that can help gradually resolve many difficulties and problems in applying Vietnam’s legal regulations on legal representatives of the business; use to build a legal corridor on legal representatives of the business in accordance with business practices in Vietnam but also absorbs diverse perspectives of the laws of different countries and territories on representation
- Keywords: legal representative of the business, Law on
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài Luận văn: Pháp luật về người đại diện của doanh nghiệp.
Để thực hiện thành công Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội trong giai đoạn 10 năm 2021-2030, nhiệm vụ phát triển kinh tế luôn là một trong những ưu tiên hàng đầu mà Đảng và Nhà nước ta quan tâm thực hiện. Trong đó, trọng tâm của vấn đề phát triển kinh tế đó chính là thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp trong nước, gia tăng cả về số lượng và chất lượng các doanh nghiệp, thể hiện tinh thần “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, huy động mọi nguồn lực phát triển nhanh và bền vững”. Có thể khẳng định rằng, Đảng và Nhà nước ta hầu như luôn chú trọng xây dựng một môi trường kinh doanh cởi mở cho doanh nghiệp. Đặc biệt, hệ thống pháp luật về doanh nghiệp đã không ngừng hoàn thiện, tạo hành lang pháp lý để các nhà đầu tư trong và ngoài nước yên tâm tham gia thành lập các loại hình doanh nghiệp. Trong đó có không ít quy định pháp luật về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, đối tượng được xem như “bộ mặt” của doanh nghiệp, là một thành phần không thể thiếu trong cơ cấu nhân sự của bất kỳ doanh nghiệp nào.
Doanh nghiệp là chế định pháp lý đặc thù trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, là chủ thể của quan hệ pháp luật với tư cách là pháp nhân. Tương tự như cá nhân, trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp cũng phát sinh các giao dịch, quyền lợi và nghĩa vụ với các chủ thể khác như Nhà nước, đối tác, với khách hàng… Tuy doanh nghiệp là một thực thể pháp lý độc lập nhưng bản thân doanh nghiệp lại không thể đích thân hành động vì đây là thực thể mang tính trừu tượng, phi vật lý. Do vậy, việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp phải thông qua hành vi cụ thể của con người, đó là người đại diện theo pháp luật. Theo đó, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là người được chủ sở hữu của doanh nghiệp cử ra thay mặt doanh nghiệp để xử lý các vấn đề trong doanh nghiệp, giao dịch với bên ngoài vì sự phát triển của doanh nghiệp.
“Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là cá nhân đại diện cho doanh nghiệp thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch của doanh nghiệp, đại diện cho doanh nghiệp với tư cách người yêu cầu giải quyết việc dân sự, nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài, Toà án và các quyền, nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.” (Khoản 1 Điều 12 LDN năm 2020). Đối với những chủ thể không thể tự mình tham gia quan hệ dân sự như doanh nghiệp thì đây là chế định pháp lý không thể thiếu, là chế định quan trọng bậc nhất đối với quá trình hoạt động của các doanh nghiệp. Mặc dù doanh nghiệp là chủ thể tham gia vào các quan hệ pháp luật nhưng mọi hoạt động của doanh nghiệp đều phải thông qua người đại diện kể từ khi được đăng ký kinh doanh cho đến khi phá sản hoặc giải thể. Với địa vị pháp lý quan trọng như vậy nên trong các văn bản quy phạm pháp luật như BLDS năm 2015 và LDN năm 2020, Luật Phá sản năm 2014 đều có quy định về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Các quy định này hình thành nên một hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh các vấn đề liên quan về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.
Việc áp dụng pháp luật về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp vẫn còn có một số điểm vướng mắc cần làm rõ, chưa thống nhất, thậm chí gây khó khăn cho chính các cơ quan Nhà nước và ảnh hưởng đến quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp. Đặc biệt khi Việt Nam đang trên đà hội nhập như hiện nay, nhiều quy định pháp luật liên quan người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp vẫn chưa bắt kịp được xu hướng chung của thế giới, chưa phù hợp với một số quan điểm pháp lý phổ biến, được nhiều nước trên thế giới ghi nhận và thực hiện. Các tranh chấp liên quan đến người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp trong quan hệ hợp đồng rất phổ biến, cần có những giải pháp pháp lý phù hợp, kịp thời để giải quyết và hạn chế phần nào các tranh chấp liên quan. Luận văn: Pháp luật về người đại diện của doanh nghiệp.
Việc tiếp tục nghiên cứu về chế định này có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn, góp phần thúc đẩy sự bình đẳng, tôn trọng tính tự chủ, tiến bộ của xã hội; hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật; góp phần hạn chế những bản án, quyết định của các cấp xét xử bị hủy liên quan đến người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp từ đó tạo điều kiện để các tổ chức, pháp nhân kịp thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong quá trình kinh doanh, tiết kiệm được chi phí tham gia vào tố tụng dân sự. Do vậy, tác giả chọn đề tài “Pháp luật Việt Nam về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp” làm Luận văn tốt nghiệp, nhằm làm rõ thực trạng, nguyên nhân, đồng thời tăng cường sự hiểu biết, nhận thức về những quy định của pháp luật về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp thêm đầy đủ và đúng đắn từ đó có thề đưa ra những kiến nghị cụ thể góp phần giải quyết những vấn đề còn tồn tại, nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong phạm vi và các cấp độ khác nhau, chế định về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp đã được nhiều học giả, nhà nghiên cứu, nhà khoa học quan tâm, phân tích thông qua những công trình nghiên cứu, bài viết khoa học tiêu biểu sau đây:
Luận án Tiến sĩ Luật học năm 2021, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam – Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội: “Đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp theo pháp luật doanh nghiệp Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Thị Thanh. Điểm mới của công trình khoa học này là hệ thống hóa những lý thuyết pháp lý hiện nay ảnh hưởng đến việc xác định mô hình đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp; đánh giá các ưu điểm và tồn tại của quy định của pháp luật về đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp; phân tích thực trạng quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay về các khía cạnh liên quan đến đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp như: điều kiện trở thành người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, thẩm quyền đại diện, quyền và nghĩa vụ của người đại diện, cơ chế giám sát và trách nhiệm pháp lý của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, nhất là làm rõ quy định của pháp luật về trách nhiệm của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp và doanh nghiệp đối với bên thứ ba ngay tình.
Luận văn Thạc sỹ Luật kinh tế năm 2020, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam – Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội: “Đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp theo Luật doanh nghiệp 2014 từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả Trần Thị Kiều Hạnh. Luận văn nghiên cứu các quy định của LDN năm 2014 về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật đối với chế định người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp áp dụng tại Thành phố Hồ Chí Minh từ đó đưa ra những phương hướng, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật.
Luận văn Thạc sỹ chuyên ngành Luật kinh tế năm 2021, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam – Học viện Khoa học Xã hội, Hà Nội: “Người đại diện của doanh nghiệp theo Luật doanh nghiệp năm 2020” của tác giả Vũ Thị Hoài Thương. Luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học về các quy định pháp lý về người đại diện của doanh nghiệp trong đó có người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp; trách nhiệm, quyền và nghĩa vụ của người đại diện đối với doanh nghiệp theo Luật doanh nghiệp năm 2020. Từ đó, tác giả đã đưa ra những giải pháp để góp phần hoàn thiện Luật doanh nghiệp, giúp cho việc quản lý người đại diện trong công ty minh bạch, hiệu quả, bảo vệ được quyền lợi của chủ sở hữu, nhà đầu tư và các bên liên quan đến doanh nghiệp. Luận văn: Pháp luật về người đại diện của doanh nghiệp.
Một số bài viết cũng có đề cập về các khía cạnh khác nhau về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp như:
Bài viết “Hành lang pháp lý về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp nhìn từ thực tiễn” của tác giả Bùi Đức Giang đăng trên Tạp chí Ngân hàng ngày 18/08/2021. Bài viết phân tích khái niệm, thẩm quyền của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, về vấn đề chỉ định người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Song song đó, tác giả bình luận về chế độ nhiều người đại diện theo pháp luật, so sánh với pháp luật các nước khác. Nói chung, trong bài viết này, tác giả tập trung phân tích các ưu điểm và hạn chế của các quy định này dưới góc nhìn từ thực tiễn, đồng thời đánh giá một số tác động tới hoạt động cấp tín dụng của các tổ chức tín dụng.
Bài viết “Một số hạn chế của quy định về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp” của tác giả Mai Thị Ngọc Oanh đăng trên Tạp chí Luật sư Việt Nam ngày 27/06/2021. Trong bài viết này, tác giả phân tích những hạn chế của quy định về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp trong Luật Doanh nghiệp năm 2020 như về quy định xác lập người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp; về quy định tiêu chuẩn, điều kiện của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp; về số lượng người đại diện; quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Đồng thời, tác giả đưa ra một số đề xuất hoàn thiện các quy định về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.
Bài viết “Hoàn thiện quy định của luật doanh nghiệp về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp” của tác giả Phạm Thị Lệ Xuân đăng trên Tạp chí Tòa án Nhân dân ngày 01/08/2022. Bài viết chỉ ra những bất cập, hạn chế trong quy định của Luật DN năm 2020 về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Tác giả tập trung phân tích những tồn tại, hạn chế của quy định về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp ở các khía cạnh cụ thể là về việc ủy quyền cho người khác thực hiện quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp; về người đại diện theo pháp luật đối với Cty TNHH hai thành viên trở lên và về trường hợp DNTN có người đại diện theo pháp luật bị mất tích. Bên cạnh đó, bài viết cũng đề xuất hướng hoàn thiện tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho hoạt động của doanh nghiệp nói chung, bảo đảm được quyền và lợi ích hợp pháp của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp nói riêng. Luận văn: Pháp luật về người đại diện của doanh nghiệp.
Bài viết “Một số rủi ro pháp lý từ quy định cho phép doanh nghiệp có nhiều người đại diện theo pháp luật” của tác giả Lê Thảo Nguyên đăng trên Tạp chí Pháp luật và thực tiễn số 44/2020. Tuy trong bài viết tác giả phân tích các quy định của LDN năm 2014 về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp song những nhận định của tác giả vẫn có nhiều giá trị tham khảo để hoàn thiện hơn quy định pháp luật về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.
Xét về góc độ của bên thứ ba liên quan thì không thể không nhắc đến bài viết “Quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao kết hợp đồng với người không phải đại diện theo pháp luật của công ty” của Phạm Văn Cường đăng trên Tạp chí Tòa án Nhân dân ngày 17/5/2019. Trong bài viết, tác giả phân tích các quy định của pháp luật về việc xác định trách nhiệm của công ty đối với những giao dịch, hợp đồng không do người đại diện theo pháp luật của công ty ký kết. Đồng thời, tác giả cũng đề cập đến hạn chế trong quy định pháp luật trong việc bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao kết hợp đồng với người không được công nhận là người đại diện theo pháp luật của công ty.
Các bài viết, công trình nghiên cứu của các tác giả trên thật sự có ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn, là nguồn tài liệu tham khảo phong phú và có giá trị lớn đối với luận văn của bản thân tác giả Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên chưa thực sự bao quát, toàn diện hết các vấn đề liên quan đến người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp mà thực tiễn đặt ra. Do vậy, việc nghiên cứu một cách có hệ thống về vấn đề này mang tính thời sự sâu sắc nhằm bổ sung, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về chế định người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp năm 2020. Đây chính là “khoảng trống nghiên cứu” để người viết lựa chọn thực hiện luận văn về đề tài này ở cấp độ thạc sỹ.
3. Mục tiêu của đề tài
3.1. Mục tiêu tổng quát
Mục tiêu chung của đề tài là nghiên cứu, phân tích những nội dung của pháp luật Việt Nam quy định về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Từ đó đưa những đánh giá những quy định pháp luật cụ thề này nhằm làm rõ các nguyên tắc chi phối, nội dung các quy định của pháp luật hiện hành về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.
Qua thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, tác giả sẽ chỉ ra được các vấn đề còn vướng mắc, hạn chế của pháp luật và tìm ra nguyên nhân để đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật Việt Nam về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.
3.2. Mục tiêu cụ thể
Để hoàn thành mục tiêu nghiên cứu chung như trên, luận văn tập trung giải quyết những mục tiêu cụ thể sau:
- Một là, làm rõ một số vấn đề lý luận về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp bao gồm: khái niệm, đặc điểm, vai trò của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp; cơ sở khoa học của việc xây dựng các quy định pháp luật về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Luận văn: Pháp luật về người đại diện của doanh nghiệp.
- Hai là, nghiên cứu, phân tích các quy định của LDN năm 2020 về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.
- Ba là, phát hiện những hạn chế, bất cập trong các quy định pháp luật về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp thông qua thực tiễn áp dụng và chỉ ra những tồn tại trong các quy định pháp luật trong việc áp dụng trên thực tế, từ đó đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và các quy định pháp luật Việt Nam về chế định người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về mặt nội dung trong khuôn khổ của Luận văn thạc sỹ, tác giả giới hạn phạm vi nghiên cứu ở những nội dung cụ thể sau:
Đối với phần lý luận, tác giả nghiên cứu phân tích tổng hợp và đưa ra các quan điểm lý luận về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp; nguyên tắc điều chỉnh pháp luật; tiêu chí đánh giá và các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi lĩnh vực pháp luật về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay.
Đối với phần thực trạng pháp luật, tác giả tập trung bình luận, đánh giá các quy định cơ bản nhất của pháp luật về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp của từng loại hình doanh nghiệp.
- Về không gian: Luận văn nghiên cứu pháp luật Việt Nam về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, trên cơ sở có sự tham khảo pháp luật một số nước về đại diện từ đó rút ra bài học kinh nghiệm để hoàn thiện pháp luật Việt Nam về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.
- Về thời gian: Luận văn nghiên cứu bối cảnh kinh tế – xã hội, pháp luật Việt Nam từ năm 2018 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu Luận văn: Pháp luật về người đại diện của doanh nghiệp.
Luận văn được thực hiện trên cơ sở áp dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của Triết học Mác – Lê nin. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng những phương pháp nghiên cứu cụ thể như phương pháp phân tích, phương pháp luật học so sánh, phương pháp diễn giải, phương pháp quy nạp, phương pháp tiếp cận liên ngành để tiếp cận và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp ở Việt Nam.
6. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Luận văn là công trình nghiên cứu một cách bao quát, có hệ thống lý luận pháp luật về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Trong đó, có nêu về khái niệm người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, vai trò của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp đối với sự phát triển của doanh nghiệp. Ngoài ra, một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp được trình bày tại luận văn cũng là một nội dung mà tác giả rất mong muốn kiến nghị đến các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong giai đoạn sắp tới thực hiện việc quy định cụ thể hơn về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp nhằm bảo đảm đúng quyền, lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp.
Với những đóng góp như trên, luận văn có thể được xem làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu giảng dạy, học tập trong các cơ sở đào tạo Luật chuyên ngành kinh tế.
7. Bố cục của luận văn
Luận văn được kết cấu theo 3 phần: Phần mở đầu, Phần nội dung gồm 3 chương và Phần kết luận. Phần nội dung của luận văn gồm 03 chương:
- CHƯƠNG 1. Lý luận chung về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
- CHƯƠNG 2. Thực trạng pháp luật Việt Nam về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
- CHƯƠNG 3. Thực trạng thực hiện và kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGƯỜI ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT CỦA DOANH NGHIỆP
1.1. Khái quát chung về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
1.1.1.1. Khái niệm người đại diện của doanh nghiệp Luận văn: Pháp luật về người đại diện của doanh nghiệp.
“Đại diện” là một từ Hán – Việt vừa là động từ vừa là danh từ, hàm nghĩa là “thay mặt”. Theo định nghĩa của Từ điển Tiếng Việt, “Đại diện là một người (người ĐD), một tập thể (ban ĐD) hoặc một cơ quan (cơ quan ĐD) được uỷ quyền nhân danh chủ thề trong quan hệ giao dịch.” ĐD là một quan hệ pháp luật. Chủ thể của quan hệ ĐD bao gồm người ĐD và người được ĐD. Trong những hoàn cảnh cụ thể, quan hệ ĐD có thể phát sinh một cách đương nhiên giữa chủ thể ĐD và chủ thể được ĐD, từ việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao, ví dụ như nhân viên bán hàng lẽ dĩ nhiên sẽ đại diện cho cửa hàng, công ty trong giao dịch với khách hàng; Bộ trưởng Bộ ngoại giao thay mặt quốc gia trong quan hệ đối ngoại. Ngoài ra, một chủ thể cũng có thể được xác định là ĐD cho một chủ thể khác căn cứ theo quy định cụ thể của pháp luật chẳng hạn những quy định về người giám hộ, hoặc thông qua các hình thức uỷ quyền.
Đối với đa số các nước trên thế giới, dù là áp dụng hệ thống pháp luật Dân luật (Civil Law) hay theo hệ thống pháp luật Thông luật (Common Law), thì ĐD là một chế định pháp lý khá phổ biến. Đơn cử như tại khoản 1 Điều 99 Bộ luật Dân sự Nhật Bản năm 2005 quy định về người ĐD: “Một người đại diện biểu hiện ý định hoặc hành động thay mặt người được đại diện trong phạm vi thẩm quyền của mình sẽ ràng buộc trực tiếp người được đại diện”. Trong khi đó, ở nước Anh, nhà làm luật đã định nghĩa về chế định “đại diện (agency)” là một chế định thường dùng khi người ta muốn nói đến tư cách pháp lý của một người (người ĐD) có đủ thẩm quyền hoặc khả năng trong việc giúp hình thành quan hệ giữa một người khác (người được ĐD) với người thứ ba. Quan hệ ĐD có thể hình thành bất cứ lúc nào miễn là một người được quyền thay mặt người khác mà hành động, với điều kiện là bản thân người ĐD đó bằng lòng hành động như vậy. Ngoài ra, tại Điều 797 Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan, chúng ta có thể thấy một định nghĩa khác về đại diện, đó là: “Đại diện là một hợp đồng mà theo đó, một cá nhân, được gọi là người ĐD, có quyền hành động thay cho cá nhân khác, được gọi là người được ĐD, và đồng ý hành động như vậy. Đại diện có thể là minh thị hoặc ngầm định”.
Ngoài ra, nhắc đến chế định đặc biệt như chế định ĐD thì không thể không nhắc đến Học thuyết về ĐD của Hoa Kỳ. Học thuyết này được trình bày trong Bản phát biểu số 3 về ĐD (Nguyên gốc tiếng Anh là “Restatement of agency 3rd”). Cụ thể, trong bản phát biểu, phần § 1.01 định nghĩa ĐD như sau: “ĐD là mối quan hệ ủy thác phát sinh khi một người (người được ĐD) thể hiện sự đồng ý với một người khác (người ĐD) rằng người đó sẽ hành động thay mặt cho người được ĐD và chịu sự điều chỉnh, kiểm soát của người được ĐD, và người ĐD thể hiện sự đồng ý hoặc bằng cách khác thể hiện sự đồng ý thông qua hành động.
Mặc dù có lịch sử trải qua quá trình xây dựng và sửa đổi không dài tuy nhiên pháp luật về dân sự của nước ta dần dần học hỏi thêm những kinh nghiệm tiên tiến mà các nước khác đang áp dụng trong lĩnh vực pháp luật về doanh nghiệp, đặc biệt là đối với chế định ĐD, cũng như tham khảo các lý thuyết kinh điển về ĐD đã xuất hiện và được công nhận ở các nước mà nền kinh tế thương mại đã phát triển rực rỡ hàng trăm năm nhằm từng bước hoàn thiện tương đối đầy đủ Bộ luật dân sự (BLDS) và Luật DN (LDN). Tại Việt Nam, chế định ĐD được quy định trong Chương IX Bộ Luật Dân sự (BLDS) năm 2015. Việc Quốc hội dành cả một chương trong BLDS để ban hành các quy định về ĐD cho thấy tầm quan trọng của chế định ĐD đối với pháp luật dân sự của nước ta. Cụ thể, khoản 1 Điều 134 BLDS năm 2015 đưa ra định nghĩa về ĐD, theo đó, một chủ thể (có thể là cá nhân hoặc pháp nhân) được xác định là người ĐD cho một chủ thể khác (có thể là cá nhân hoặc pháp nhân được gọi là người được ĐD) khi thay mặt người được ĐD xác lập, thực hiện giao dịch dân sự vì lợi ích của chính người được ĐD.
Thông qua tìm hiểu một số quy định của các quốc gia về đại diện, có thể thấy rằng quan điểm chung của đa số nền kinh tế trên thế giới khi tiếp cận ở góc độ pháp lý vấn đề ĐD là tương đối giống nhau. Thứ nhất là đều ghi nhận những chủ thể tham gia vào quan hệ ĐD bao gồm bên ĐD, bên được ĐD và bên thứ 3 liên quan. Thứ hai, nhấn mạnh về phạm vi thẩm quyền của người ĐD, trong đó, người được ĐD chỉ chịu trách nhiệm pháp lý khi và chỉ khi người ĐD có hành động trong khuôn khổ thẩm quyền được trao, dù là theo quy định của pháp luật hay theo sự uỷ quyền của người được ĐD. Cụ thể, BLDS Pháp năm 1803, vào năm 2016 sửa đổi, bổ sung vào năm 2016 quy định: “Người đại diện theo pháp luật, tư pháp hoặc thông thường chỉ được quyền hành động trong giới hạn quyền hạn được trao cho mình. Thứ ba, yếu tố ý chí, nhận thức của những đối tượng trực tiếp tham gia trong mối quan hệ ĐD quyết định hiệu lực của hành vi ĐD. Bởi theo nguyên tắc tự do ý chí (principe de I’autonomie de la volonté) đã hình thành và phát triển từ thế kỷ 18 thì “các cá nhân được quyền hoàn toàn tự do kết lập các khế ước theo ý chí của mình”. Khi cả hai bên: đại diện và được đại diện đều tự nguyện và đồng ý tham gia vào quan hệ đại diện thì rõ ràng là hành vi đại diện được công nhận và ràng buộc trách nhiệm của các bên liên quan.
Trong giao dịch dân sự, các chủ thể có thể tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự nhưng trong một số trường hợp nhất định có thể thông qua hành vi của người khác là người ĐD theo pháp luật hoặc theo uỷ quyền của mình, nhất là trong các giao dịch trong suốt quá trình kinh doanh của các doanh nghiệp. Bởi lẽ, tuy DN là một chủ thể pháp lý riêng biệt được công nhận bởi pháp luật Việt Nam: “ Doanh nghiệp là tổ chức có tên riêng, có tài tài sản, có trụ sở giao dịch, được thành lập hoặc đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh, theo quy định tại khoản 10 Điều 4 Luật (LDN) năm 2020, nhưng lại là chủ thể mang tính trừu tượng, phi lý tính. Thế nên DN cần có chủ thể pháp lý khác, cụ thể là cá nhân, làm ĐD cho mình để thực hiện các giao dịch. Luận văn: Pháp luật về người đại diện của doanh nghiệp.
Tại Việt Nam, khái niệm “người đại diện của doanh nghiệp” được nhắc đến trước hết trong Điều 9 Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế của Hội đồng Nhà nước năm 1989: “Người ký hợp đồng kinh tế phải là đại diện hợp pháp của pháp nhân hoặc người đứng tên đăng ký kinh doanh.” Tuy nhiên, do đây là văn bản quy phạm pháp luật được ban hành vào thời kỳ nền tư pháp nước ta mới bước đầu cải cách sau khi cơ chế bao cấp bị bãi bỏ nên chưa có quy định cụ thể về chế định người ĐD của doanh nghiệp.
Đến cuối năm 1990, kết thúc giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới, khi mà nền kinh tế Việt Nam dần dần khắc phục được những yếu kém và có những bước phát triển đáng ghi nhận, Quốc hội đã ban hành hai luật quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là Luật Công ty năm 1990 và Luật doanh nghiệp tư nhân năm 1990. Song ngoài một số quy định về quyền hạn điều hành, quản lý doanh nghiệp, quyền nhân danh công ty và chịu trách nhiệm trước pháp luật của người quản lý thì hai luật trên vẫn chưa có điều luật chi tiết về người ĐD cho doanh nghiệp.
Trải qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung của BLDS và LDN, hành lang pháp lý về người ĐD của DN được hình hành và ngày càng hoàn thiện. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam hiện hành về doanh nghiệp vẫn chưa thực sự có một định nghĩa chính thức nào về người ĐD của DN. Vì thế, những quy định về ĐD của pháp nhân theo BLDS năm 2015 thường được áp dụng chung cho các loại hình DN.Tóm lại, từ những quy định về ĐD và ĐD của pháp nhân của BLDS, có thể đưa ra một định nghĩa khái quát về người đại diện của doanh nghiệp như sau: Người đại diện của doanh nghiệp là người có quyền nhân danh và vì lợi ích của doanh nghiệp xác lập, thực hiện các giao dịch trong phạm vi đại diện.
1.1.1.2. Khái niệm người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
Trong giai đoạn bắt đầu có sự phân hóa giữa ngành luật dân sự và ngành luật kinh tế, cùng với sự ra đời của BLDS năm 1995 và sau đó là LDN năm 1999, chế định NĐDTPL nói chung và NĐDTPL của DN nói riêng đã chính thức được các nhà làm luật định nghĩa một cách rõ ràng. Mặc dù vậy, các quy định về NĐDTPL của DN mới chỉ dừng lại ở những điểm cơ bản nhất và còn mang tính nguyên tắc. Ngay cả BLDS năm 2005 và LDN năm 2005 được ban hành sau đó cũng chưa thật sự có nhiều sự quan tâm đến chế định NĐDTPL của DN. Pháp luật nước ta về NĐDTPL của DN thời kỳ này còn sơ khai và xuất hiện rải rác trong một số quy định về mỗi loại hình doanh nghiệp. Luận văn: Pháp luật về người đại diện của doanh nghiệp.
LDN năm 2014 được ban hành vào ngày 26/11/2014 đã đánh dấu bước ngoặc mới trong cách nhìn nhận của các nhà làm luật Việt Nam về chế định NĐDTPL của doanh nghiệp. Khác với LDN năm 2005, pháp luật về NĐDTPL của DN được quy định cụ thể thành Điều 13 và Điều 14 LDN năm 2014. Những điều luật về NĐDTPL của DN trong LDN năm 2014 được đánh giá là khá chi tiết nhưng cũng rất linh hoạt đối với doanh nghiệp. Điểm nổi bật của LDN năm 2014 so với LDN năm 2005 là khẳng định NĐDTPL của DN phải là cá nhân. Ngoài ra, LDN năm 2014 còn cho phép CTTNHH và CTCP có thể có nhiều NĐDTPL và điều lệ công ty phải quy định cụ thể số lượng, chức danh quản lý và quyền, nghĩa vụ của từng NĐDTPL của DN (Khoản 2, LDN năm 2014). Những thay đổi tích cực của LDN năm 2014 được LDN năm 2020 tiếp tục kế thừa và phát triển.
Khác với quan niệm của các nước khác về người ĐD của DN, pháp luật Việt Nam có sự phân biệt giữa NĐDTPL của DN và người ĐD theo ủy quyền của DN do sự khác biệt nhất định về thể chế luật pháp, văn hóa, mức độ phát triển của nền kinh tế và đặc biệt là về cấu trúc quản trị nội bộ. Cụ thể, Điều 85 BLDS năm 2015 nêu rõ người ĐD của pháp nhân có thể là ĐD theo pháp luật hoặc ĐD theo ủy quyền và phải tuân theo quy định về ĐD của BLDS năm 2015. Đối với người ĐD theo ủy quyền của DN, mặc dù việc ĐD theo ủy quyền được xác lập theo sự ủy quyền giữa NĐDTPL của DN và người được uỷ quyền nhưng lại vì lợi ích của DN chứ không phải vì lợi ích của người uỷ quyền và làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của DN. Song song đó, BLDS năm 2015 cũng không còn quy định NĐDTPL của pháp nhân phải là người đứng đầu pháp nhân như Điều 141 BLDS năm 2015 đã quy định. Thay vào đó, DN được trao quyền tự quyết định ai sẽ là NĐDTPL của mình.
Điều 137 BLDS 2015 quy định về ĐD theo pháp luật của pháp nhân lại vô hình chung thừa nhận pháp nhân chỉ có ĐD theo pháp luật là cá nhân khi quy định pháp nhân có thể có nhiều NĐDTPL, cụ thể: “Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân bao gồm: người được pháp nhân chỉ định theo điều lệ; người có thẩm quyền đại diện theo quy định của pháp luật; người do Tòa án chỉ định trong quá trình tố tụng tại Tòa án. Một pháp nhân có thể có nhiều người đại diện theo pháp luật và mỗi người đại diện có quyền đại diện cho pháp nhân theo quy định tại Điều 140 và Điều 141 của Bộ luật này.”
Về quan điểm NĐDTPL của DN phải là cá nhân, sở dĩ có quan điểm như vậy là do xuất phát từ sự tin tưởng của các nhà làm luật Việt Nam, một cá nhân cụ thể làm NĐDTPL của DN vẫn đáng tin cậy hơn là một chủ thể trừu tượng như tổ chức. “Do đó, quy định một thể nhân với thông tin rõ ràng, khả năng thực hiện hành vi cụ thể khi đại diện cho doanh nghiệp sẽ tạo được niềm tin cho bên thứ ba khi giao dịch. Quan điểm này của pháp luật Việt Nam gần như tương đồng với quan điểm của Luật Công ty của Trung Quốc năm 2018 về NĐDTPL. Theo Điều 13 của Luật này quy định: “Chủ tịch hội đồng quản trị, giám đốc điều hành hoặc người quản lý của công ty là người ĐD theo pháp luật của công ty theo các điều khoản liên kết của công ty và thủ tục đăng ký phải được hoàn thành theo quy định của pháp luật. Trường hợp có sự thay đổi về người ĐD theo pháp luật của công ty thì thủ tục đăng ký thay đổi sẽ được thực hiện. Luận văn: Pháp luật về người đại diện của doanh nghiệp.
Theo pháp luật Việt Nam về DN hiện hành, ngay từ khi thành lập và đăng ký kinh doanh với cơ quan có thẩm quyền, DN phải đồng thời đăng ký cá nhân đảm nhiệm chức danh NĐDTPL. Trừ những việc do Đại hội đồng cổ đông hoặc Hội đồng quản trị quyết định, các quyền và nghĩa vụ còn lại của công ty cổ phần sẽ do một hoặc nhiều người đại diện theo pháp luật trực tiếp hoặc ủy quyền cho người khác thực hiện. Do đó, pháp luật quy định trường hợp công ty chỉ có duy nhất một người đại diện nhưng người này xuất cảnh khỏi Việt Nam thì phải ủy quyền cho người khác thực hiện nhiệm vụ của người đại diện theo pháp luật, nếu người đại diện theo pháp luật duy nhất của công ty vắng mặt khỏi Việt Nam quá 30 ngày mà không ủy quyền cho người khác đại diện hoặc trường hợp người đại diện theo pháp luật chết, mất tích, bị tạm giam, bị kết án tù, bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự; từ chức hoặc bị bãi miễn thì công ty phải cử người đại diện khác.
Tóm lại, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là cá nhân được doanh nghiệp cử ra để hoàn thành các quyền, nghĩa vụ của doanh nghiệp phát sinh trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp trên danh nghĩa doanh nghiệp và được doanh nghiệp đăng ký thông tin với cơ quan đăng ký kinh doanh có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
1.1.1.3. Đặc điểm của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
- Từ khái niệm trên, có thể rút ra đặc điểm của NĐDTPL của DN như sau:
Thứ nhất, NĐDTPL của DN phải là cá nhân: Bản thân doanh nghiệp là chủ thể pháp lý nhưng mang tính trừu. Ý chí của doanh nghiệp phải được thể hiện thông qua một hoặc nhiều cá nhân nhất định được doanh nghiệp công nhận thông qua các văn bản chính thức. Do đó, NĐDTPL của doanh nghiệp phải là cá nhân. Đây là một đặc điểm phân biệt với đại diện theo ủy quyền vì người đại diện theo ủy quyền có thể cá nhân hoặc tổ chức, chẳng hạn, doanh nghiệp có thể ủy quyền cho một doanh nghiệp khác nhân danh và vì lợi ích của mình để xác lập, thực hiện giao dịch theo cơ chế đại diện cho thương nhân theo Luật Thương mại. Một số loại hình DN có thể lựa chọn đăng ký một hoặc nhiều cá nhân làm NĐDTPL như CTNHH, CTCP.
Thứ hai, NĐDTPL của DN phải có đầy đủ năng lực hành vi dân sự: Bởi vì NĐDTPL của DN là người thay mặt DN thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch của DN nên một người không có đủ năng lực hành vi dân sự sẽ không thể đảm nhận vai trò NĐDTPL của DN. Khi NĐDTPL nhân danh doanh nghiệp để thực hiện giao dịch trong phạm vi cho phép thì các quyền và nghĩa vụ từ giao dịch phát sinh cho doanh nghiệp chứ không phát sinh cho cá nhân NĐDTPL đó. LDN năm 2020 cũng quy định rõ khi NĐDTPL của DN không còn đầy đủ năng lực hành vi dân sự thì DN buộc phải đăng ký người khác thay thế.
Thứ ba, NĐDTPL của DN nhân danh và vì lợi ích của DN khi thực hiện chức trách của mình: Vì đặc thù của DN là chủ thể phi lý tính nên không thể tự thực hiện các giao dịch mà phải thông qua đối tượng cụ thể là NĐDTPL. Với cương vị là người được DN ủy quyền thực thi các quyền, nghĩa vụ của DN, NĐDTPL của DN lẽ dĩ nhiên phải luôn hướng tới lợi ích của DN trong các hoạt động nhân danh DN. Trong quá trình hoạt động, bằng các thủ tục pháp lý, doanh nghiệp có thể thay NĐDTPL, nhưng người mới làm NĐDTPL của doanh nghiệp vẫn tiếp tục kế thừa việc tổ chức thực hiện các quyền và nghĩa vụ hợp pháp của công ty mà NĐDTPL trước đó đã và đang thực hiện.
1.1.2. Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp trong các loại hình doanh nghiệp Luận văn: Pháp luật về người đại diện của doanh nghiệp.
LDN năm 2020 quy định về những chủ thể có thể làm NĐDTPL cho từng loại hình doanh nghiệp, cụ thể như sau:
NĐDTPL của CTTNHH hai thành viên trở lên là người giữ một trong các chức danh: Chủ tịch HĐTV, Tổng Giám đốc, Giám đốc hoặc một cá nhân khác tuỳ theo Điều lệ công ty quy định nhưng công ty phải đảm bảo có ít nhất một người giữ chức danh trên đảm nhiệm vị trí NĐDTPL của công ty. Nếu trong Điều lệ của công ty không quy định cụ thể thì NĐDTPL đương nhiên của công ty là Chủ tịch HĐTV.
NĐDTPL của CTTNHH một thành viên do tổ chức làm chủ sở hữu là Chủ tịch HĐTV hoặc Chủ tịch công ty hoặc Tổng Giám đốc hoặc Giám đốc trừ trường hợp Điều lệ công ty có quy định khác. Trong trường hợp Điều lệ công ty không quy định về NĐDTPL của công ty là ai thì Chủ tịch HĐDTV hoặc Chủ tịch công ty là NĐDTPL của công ty.
NĐDTPL của CTTNHH một thành viên do cá nhân làm chủ sở hữu: Tuy LDN năm 2020 không quy định về NĐDTPL của CTTNHH một thành viên do cá nhân làm chủ sở hữu nhưng căn cứ vào cơ cấu tổ chức quản lý CTTNHH một thành viên do cá nhân làm chủ sở hữu đươc quy định tại Điều 85 LDN năm 2020, có thể hiểu rằng NĐDTPL của CTTNHH một thành viên do cá nhân làm chủ sở hữu sẽ do Điều lệ công ty quy định tuy nhiên tối thiểu công ty phải có một NĐDTPL là một trong các cá nhân giữ các chức danh sau: Chủ tịch công ty hoặc Tổng Giám đốc/Giám đốc. Nếu Điều lệ công ty không quy định thì Chủ tịch công ty đương nhiên giữ vai trò là NĐDTPL của công ty vì Chủ tịch công ty là người nhân danh công ty thực hiện quyền và nghĩa vụ của công ty.
NĐDTPL của CTCP là Chủ tịch HĐQT hoặc Giám đốc hoặc Tổng giám đốc trong trường hợp CTCP chỉ có một NĐDTPL. Trong trường hợp Điều lệ chưa có quy định thì Chủ tịch HĐQT đương nhiên là NĐDTPL của công ty. Trường hợp CTCP có hơn một NĐDTPL thì Chủ tịch HĐQT và Giám đốc hoặc Tổng giám đốc đương nhiên là NĐDTPL của công ty.
NĐDTPL của CTHD là tất cả các thành viên hợp danh. Tuy nhiên, thành viên hợp danh là Chủ tịch HĐTV, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc thì có nghĩa vụ đại diện cho công ty trong quan hệ với cơ quan nhà nước; đại diện cho công ty với tư cách là bị đơn hoặc nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong các vụ kiện, tranh chấp thương mại hoặc các tranh chấp khác, người yêu cầu giải quyết việc dân sự hoặc đại diện cho công ty thực hiện quyền, nghĩa vụ khác do theo quy định của pháp luật hoặc do Điều lệ công ty quy định. Luận văn: Pháp luật về người đại diện của doanh nghiệp.
NĐDTPL của DNTN là Chủ DNTN. Riêng đối với DNTN, do đặc thù của DNTN là doanh nghiệp do một cá nhân duy nhất làm chủ sở hữu đồng thời cá nhân đó phải chịu trách nhiệm đối với toàn bộ hoạt động của DN bằng tất cả tài sản của mình nên LDN năm 2020 quy định chủ DNTN cũng chính là NĐDTPL của DNTN. Tóm lại: Từ những quy định trên có thể thấy NĐDTPL của doanh nghiệp, ngoài các chức danh quản lý như Chủ tịch HĐQT, Chủ tịch HĐTV, Tổng Giám đốc hoặc Giám đốc thì có thể do người khác đảm nhiệm tuỳ theo Điều lệ công ty quy định. Tuy nhiên, người đó được ngầm hiểu phải đáp ứng các yêu tố được xem là cần thiết như sau: phải là người thứ ba và không đồng thời nắm giữ các vị trí có thể xảy ra xung đột với quyền và nghĩa vụ của NĐDTPL như kế toán, kiểm sát viên…
1.1.3. Bản chất pháp lý của việc đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
Bản chất pháp lý của việc ĐD theo pháp luật của DN là quan hệ ủy quyền giữa NĐDTPL của DN và chủ sở hữu DN. Trong đó, chủ sở hữu DN đóng vai trò người uỷ quyền, còn NĐDTPL là người được uỷ quyền để thay mặt chủ sở hữu quản lý công việc kinh doanh của công ty cho họ, có thể bao gồm cả việc định đoạt tài sản của công ty trong phạm vi thẩm quyền được trao, mục đích chính là nhằm tối đa hóa lợi nhuận mà chủ sở hữu hướng đến.
Tuy nhiên cần phân biệt rằng, quan hệ uỷ quyền này mang tính chất hoàn toàn khác ĐD theo ủy quyền. Bởi vì, NĐDTPL của DN xuất hiện cùng lúc với việc thành lập DN và có toàn quyền nhân danh DN trong mọi hoạt động kinh doanh cũng như trong các hoạt động pháp lý, gắn liền với sự tồn tại của doanh nghiệp. Trong khi đó, người ĐD theo uỷ quyền chỉ được xác lập tư cách thông qua văn bản ủy quyền của NĐDTPL của DN hoặc văn bản ủy quyền của chủ sở hữu, thành viên, cổ đông công ty là tổ chức. Ở cả hai trường hợp ủy quyền này, người ĐD có thẩm quyền bị giới hạn về phạm vi và hiệu lực bởi các điều khoản được nêu rõ trong văn bản uỷ quyền. Khác với người đại diện theo ủy quyền, NĐDTPL của DN lại đương nhiên có thể thay mặt DN trong tất cả các hoạt động, giao dịch mà DN tham gia. Tư cách đại diện của NĐDTPL của DN được công bố thông qua Giấy đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp, còn tư cách của người đại diện theo ủy quyền thì được xác lập khi văn bản ủy quyền có hiệu lực.
Ngoài ra, việc ĐD theo pháp luật của DN cũng không giống với việc ĐD của các thành phần khác xuất hiện trong quá trình phát triển của DN như: đại lý thương mại, người quản lý, thừa hành hoặc nhân viên của công ty khi thực hiện hoạt động nhân danh doanh nghiệp. Nguyên do những chủ thể này không phải là ĐD bắt buộc theo quy định của pháp luật, không gắn liền với sự tồn tại của DN như là NĐDTPL của doanh nghiệp. Tương tự người ĐD theo ủy quyền, thẩm quyền của những thể nhân này bị hạn chế bởi chức danh, nhiệm vụ mà họ đảm nhận. Luận văn: Pháp luật về người đại diện của doanh nghiệp.
Nếu xét về bản chất thì việc đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp và hoạt động đại diện cho thương nhân, ở đây là doanh nghiệp, gần như là không khác nhau. Thực chất, cả hai hoạt động này đều mang ý nghĩa là một bên (bên đại diện) nhân danh một bên khác (bên được đại diện) thực hiện các công việc cụ thể vì lợi ích và nhu cầu của bên được đại diện. Tuy vậy, giữa hai việc này có không ít sự khác biệt cần làm rõ. Tại Điều 141 Luật Thương mại năm 2005, đại diện cho thương nhân được định nghĩa là: “việc một thương nhân nhận uỷ nhiệm (gọi là bên đại diện) của thương nhân khác (gọi là bên giao đại diện) để thực hiện các hoạt động thương mại với danh nghĩa, theo sự chỉ dẫn của thương nhân đó và được hưởng thù lao về việc đại diện.” Như vậy, về chủ thể và mục đích, đối với hoạt động ĐD cho thương nhân, cả bên đại diện và bên được đại diện đều phải là thương nhân; và mục đích chính là để sinh lời. Trong khi đó, việc ĐDTPL của DN được quy định là việc một cá nhân nhân danh DN thực hiện các quyền và nghĩa vụ được phát sinh từ giao dịch của doanh nghiệp, nghĩa là không nhất thiết cả hai bên, NĐDTPL và DN đều phải là thương nhân. Mục đích của việc ĐDTPL của DN cũng không chỉ là để thu về lợi nhuận hay vì lợi ích thương mại mà nó bao gồm cả việc đảm bảo hoàn thành nghĩa vụ đối với Nhà nước, đối tác, khách hàng. Về mặt hình thức, Luật Thương mại năm 2005 quy định khi thực hiện hoạt động đại diện cho thương nhân thì bên được đại diện và bên đại diện phải lập hợp đồng bằng văn bản hoặc hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương.Nghĩa là phải có sự đồng thuận từ cả hai phía đại diện và bên được đại diện. Sự đồng thuận đó thể hiện thông qua hợp đồng. Ngược lại, khi DN đăng ký một người làm NĐDTPL cho DN thì việc đại diện theo pháp luật của DN được xác lập thông qua Điều lệ, Giấy đăng ký kinh doanh, Quyết định của chủ sở hữu (HĐQT, HĐTV, Chủ tịch công ty). Qua đây, có thể thấy việc đại diện theo pháp luật của DN hình thành từ ý chí chủ quan của bên được đại diện là DN. Người ĐDTPL của DN không thể chủ động trong mối quan hệ đại diện này, từ lúc hình thành cho đến khi kết thúc đều do bên được đại diện là DN, chủ sở hữu DN quyết định
Bên cạnh đó, về mặt pháp lý, bản chất của việc ĐD theo pháp luật của DN khác biệt với công tác quản trị, quản lý doanh nghiệp. Một người có thể vừa đảm nhiệm vị trí ĐD theo pháp luật của DN vừa tham gia quản lý doanh nghiệp. Tuy nhiên, nội hàm cũng như tính pháp lý của hai công việc đó là không giống nhau.“Người quản lý DN là người có trách nhiệm thực hiện các hoạt động quản lý DN như tổ chức triển khai giải pháp do HĐQT chỉ đạo, tổ chức kế hoạch kinh doanh và kế hoạch đầu tư hàng năm của doanh nghiệp.”24 Đó là những công việc mang tính chất nội bộ của doanh nghiệp, người đảm nhiệm chức vụ này chịu trách nhiệm trước chủ sở hữu doanh nghiệp. Ngược lại, ĐD theo pháp luật là việc hành động thay DN, đảm nhận các tư cách của DN trước Tòa án, Trọng tài đồng thời phải chịu trách nhiệm trước DN, trước pháp luật về các hoạt động đã thực hiện trong phạm vi ĐD. Có thể thấy được rằng, việc ĐD theo pháp luật cho DN mang tính đối ngoại, là “bộ mặt pháp lý” của doanh nghiệp. NĐDTPL của DN chịu trách nhiệm trước chủ DN và trước pháp luật về những hoạt động của mình.
Tóm lại, bản chất pháp lý của việc ĐD theo pháp luật cho DN là một quan hệ uỷ quyền có tính chất bắt buộc mà pháp luật quy định DN phải thiết lập, giữa chủ sở hữu DN và người được chọn làm NĐDTPL của doanh nghiệp. Từ đó, làm nảy sinh quyền nhân danh DN một cách toàn diện của NĐDTPL của doanh nghiệp. Đồng thời cũng ràng buộc trách nhiệm, nghĩa vụ đối với NĐDTPL của DN với trạng thái pháp lý của doanh nghiệp. Nhất là đối với những DN có chủ sở hữu cũng chính là NĐDTPL của DN như DNTN. Thí dụ khi người chủ DNTN không thể thực hiện chức trách của NĐDTPL của DNTN thì DNTN lẽ dĩ nhiên cũng phải tạm dừng hoạt động hoặc giải thể. Bên cạnh đó, chính vì là một quan hệ ủy quyền cho nên mọi hoạt động của NĐDTPL của DN cũng làm nảy sinh trách nhiệm pháp lý đối với chủ doanh nghiệp. Nghĩa là NĐDTPL của DN có hành vi vi phạm pháp luật trong lúc nhân danh DN thì chủ DN cũng đồng thời liên đới chịu trách nhiệm.
1.1.4. Phạm vi đại diện của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp Luận văn: Pháp luật về người đại diện của doanh nghiệp.
Theo khái niệm về ĐD được quy định tại khoản 1 Điều 134 BLDS năm 2015, người ĐD là người thực hiện hành vi nhân danh người được ĐD và vì lợi ích của người được ĐD. Để đảm bảo người ĐD luôn hành động vì lợi ích của người được ĐD và không hành động gây bất lợi cho người được ĐD như vậy thì cần thiết phải có một giới hạn nhất định cho hành vi đó. Giới hạn này thể hiện ở phạm vi và thẩm quyền ĐD, là giới hạn về quyền, nghĩa vụ mà căn cứ theo đó người ĐD nhân danh người được ĐD xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với bên thứ ba. Cũng bởi giới hạn này mà khi có hành vi vượt quá phạm vi ĐD thì thẩm quyền ĐD của người ĐD cũng không còn. Do vậy có thể nói rằng phạm vi ĐD là giới hạn cho các thẩm quyền của người ĐD trong việc thực hiện công việc dưới danh nghĩa đại diện. Khi nhắc đến thẩm quyền ĐD cũng chính là nói đến phạm vi ĐD.
Cụ thể, theo khoản 1 Điều 141 BLDS năm 2015, phạm vi đại diện của NĐDTPL của pháp nhân được xác định dựa theo quyết định của một trong những đối tượng là các cơ quan có thẩm quyền như Tòa án; pháp nhân hoặc theo quy định khác của pháp luật. Riêng trường hợp không xác định được phạm vi ĐD theo các căn cứ nêu trên thì NĐDTPL có quyền xác lập, thực hiện mọi giao dịch dân sự vì quyền lợi hợp pháp của người được ĐD, ngoại trừ có quy định pháp luật khác. Ngoài ra, một cá nhân, pháp nhân có thể ĐD cho nhiều cá nhân, pháp nhân khác nhau nhưng không được nhân danh người được ĐD để xác lập, thực hiện giao dịch với chính bản thân hoặc với bên thứ ba mà bản thân cũng là người ĐD, ngoại trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Phạm vi đại diện mang ý nghĩa then chốt trong việc xác định trách nhiệm của các bên trong quan hệ đại diện. Theo đó, người ĐD phải có đủ thẩm quyền ĐD để có tư cách nhân danh người được ĐD trong phạm vi ĐD đó thì mới làm phát sinh quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của người được ĐD. Trường hợp người ĐD giao dịch nhưng lại không có thẩm quyền ĐD hoặc vượt quá phạm vi thẩm quyền ĐD thì lẽ dĩ nhiên về nguyên tắc người ĐD phải tự chịu trách nhiệm về giao dịch đó, theo quy định tại Điều 142 và Điều 143 BLDS năm 2015. Ngoại trừ các trường hợp sau: người được ĐD đã công nhận giao dịch; người ĐD biết mà không phản đối trong một thời hạn hợp lý; người đã giao dịch không biết hoặc không thể biết về việc người đã xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với mình không có quyền ĐD hoặc vượt quá phạm vi ĐD do lỗi của người được ĐD; người được ĐD đồng ý cho người ĐD thực hiện giao dịch đó. Luận văn: Pháp luật về người đại diện của doanh nghiệp.
Qua đây thấy được rằng pháp luật Việt Nam đang tiệm cận với pháp luật các nước khác trên thế giới. Một số nước theo hệ thống pháp luật Dân luật (Civil Law) cũng có quy định tương tự. Điển hình như, theo Điều 91a Luật thương mại của Đức quy định rằng: “Trong trường hợp một đại diện thương mại, người chỉ được ủy quyền thực biện các giao dịch có trong thỏa thuận, đã ký kết một giao dịch với danh nghĩa của bên được đại diện và bên thứ ba không biết về việc người đó không có quyền đại diện, giao dịch này sẽ được coi là được bên được đại diện phê chuẩn nếu sau khi được người đại diện hoặc bên thứ ba thông báo về việc ký kết giao dịch đó và các điều khoản quan trọng của giao dịch đó, anh ta không từ chối giao dịch đó ngay lập tức đối với bên thứ ba. Điều tương tự cũng được áp dụng nếu một đại diện thương mại được ủy thác giao dịch đã ký kết một giao dịch đứng tên được đại diện mà người đó không được ủy quyền giao kết.
Đối với NĐDTPL của doanh nghiệp, phạm vi ĐD được xác định cụ thể theo điều lệ của DN hoặc theo quyết định có hiệu lực của cơ quan có thẩm quyền hoặc theo quy định pháp luật khác. Về mặt thủ tục, NĐDTPL của DN được Phòng ĐKKD ghi nhận thông qua Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Đây cũng là văn bản pháp lý xác nhận tư cách ĐD của NĐDTPL của DN cũng chính là công bố thẩm quyền ĐD cho DN của người đó. Nếu DN không quy định cụ thể trong điều lệ của mình, NĐDTPL của DN có toàn quyền ký kết, triển khai mọi hoạt động kinh doanh hướng tới quyền lợi của DN, trừ trường hợp pháp luật quy định khác hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền có quyết định khác.
Pháp luật Việt Nam cho phép một số loại hình DN có thể có nhiều NĐDTPL, Điều lệ công ty sẽ phải quy định cụ thể quyền, nghĩa vụ của mỗi NĐDTPL. Nếu Điều lệ công ty không nêu rõ thì từng NĐDTPL của công ty sẽ là ĐD có đầy đủ thẩm quyền trước bên thứ ba và đồng thời chịu trách nhiệm liên đới với nhau khi DN bị thiệt hại do bất cứ NĐDTPL gây ra theo quy định của pháp luật về dân sự và những quy định khác có liên quan (Khoản 2 Điều 12 LDN năm 2020). Có thể thấy, LDN năm 2020 khá thông thoáng khi trao toàn quyền cho DN có thể thoải mái lựa chọn số lượng, phạm vi thẩm quyền của NĐDTPL. Tuy nhiên, những điều luật quy định về phạm vi và thẩm quyền ĐD, nhất là đối với NĐDTPL của doanh nghiệp, vẫn chưa phân biệt rõ về các loại hình ĐD đã được pháp luật các nước công nhận như:
ĐD do có sự thoả thuận (agency by agreement): sự thoả thuận này có thể thể hiện rõ bằng văn bản hay thông qua phát ngôn (expressed agency) hoặc ngầm định (implied agency). Cụ thể, ở trường hợp ĐD rõ ràng(expressed agency), phạm vi đại diện được thể hiện rõ thông qua các văn bản, phát ngôn chính thức của bên được đại diện. Ví dụ, trong trường hợp doanh nghiệp có nhiều NĐDTPL, Điều lệ của DN quy định chi tiết phạm vi thẩm quyền đại diện của từng NĐDTPL nên mỗi NĐDTPL sẽ chịu trách nhiệm trong phạm vi đã được quy định. Nếu NĐDTPL ký kết các hợp đồng vượt quá phạm vi đại diện thì DN sẽ không bị ràng buộc pháp lý trong việc thực hiện các nghĩa vụ phát sinh từ phần ngoài phạm vi đại diện của hợp đồng đó. Ngoài ra, bên cạnh ĐD rõ ràng, ĐD ngầm định (implied agency) cũng được xếp vào loại ĐD do có thoả thuận, mặc dù sự thoả thuận đó có thể không rõ ràng. Một trong những ví dụ về ĐD ngầm định thường thấy trong các công ty là ở những công ty lựa chọn mô hình nhiều NĐDTPL, có thể thấy dù công ty không quy định nhưng đối với những hợp đồng cần có sự tham gia của không chỉ một NĐDTPL thì những NĐDTPL đó đều có thẩm quyền và trách nhiệm giống nhau trừ khi có quy định khác.
ĐD do phê chuẩn (agency by ratification): là loại đại diện được công nhận trong trường hợp bên đại diện xác lập, thực hiện giao dịch mà không có thẩm quyền nhưng sau đó, bên được đại diện đã đồng ý công nhận giao dịch đó thì giao dịch đó có giá trị pháp lý ràng buộc bên được đại diện. Ví dụ: Ông A là Tổng GĐ đồng thời là NĐDTPL của công ty B, ông C là Phó Tổng GĐ của công ty Điều lệ công ty quy định Tổng GĐ là NĐDTPL của công ty. Đến thời điểm ông A nghỉ hưu, công ty B vẫn chưa hoàn thành các thủ tục để xác định NĐDTPL mới của công ty thì do nhu cầu kinh doanh của công ty, ông C đã ký kết một số hợp đồng. Tuy nhiên sau đó công ty đã đăng ký một người khác là ông D làm Tổng GĐ kiêm NĐDTPL của công ty nhưng công ty vẫn công nhận và phê chuẩn tiếp tục thực hiện những hợp đồng mà ông C đã ký kết trong giai đoạn công ty tạm thời không có NĐDTPL. Trường hợp này có thể hiểu là mặc dù Điều lệ không quy định và công ty không đăng ký nhưng ông C được xem như là NĐDTPL trong thời gian này. Luận văn: Pháp luật về người đại diện của doanh nghiệp.
ĐD không thể phủ nhận hay còn gọi là ĐD mặc nhiên (agency by estopel): một người không được uỷ quyền đại diện bởi người được đại diện nhưng vì một lý do nào đó, người được đại diện làm cho bên thứ ba tin rằng người đại diện có đủ thẩm quyền để thay mặt mình thực hiện giao dịch và không kịp thời đính chính dẫn đến hệ quả là nếu huỷ bỏ giao dịch sẽ gây thiệt hại cho bên thứ ba hoặc không thể huỷ bỏ giao dịch nữa. Vì sự nhầm lẫn này xuất phát từ sai sót chủ quan của người được đại diện nên người được đại diện không thể phủ nhận quan hệ đại diện này. Ví dụ: Theo Điều lệ công ty A, Chủ tịch HĐQT là NĐDTPL của công ty. Trong công ty A, ông B là Chủ tịch HĐQT kiêm NĐDTPL của công ty, còn ông C đảm nhận chức vụ Tổng GĐ. Sau đó, công ty thay đổi Điều lệ, quy định Tổng GĐ là NĐDTPL của công ty. Nhưng công ty không kịp thời thông báo cho cơ quan đăng ký kinh doanh và thông báo cho phía đối tác biết. Dẫn đến phía đối tác vẫn tin rằng ông B là NĐDTPL có đủ thẩm quyền thay mặt công ty ký kết hợp đồng. Do lỗi của công ty nên công ty không thể phủ nhận tư cách đại diện của ông B. Và mặc nhiên, hợp đồng đó vẫn có giá trị pháp lý. Eric Rasmusen (1995) đã phát biểu về loại đại diện này như sau: “Người được đại diện không thể phủ nhận thoả thuận do người đại diện đưa ra nếu người được đại diện có thể can thiệp để ngăn chặn sự nhầm lẫn về thẩm quyền đó nhưng lại không thực hiện.” Việc công nhận loại đại diện này sẽ ràng buộc trách nhiệm đối với cả hai phía, bên đại diện và bên được đại diện trong những tình huống gây thiệt hại hoặc tạo ra hiểu lầm với bên thứ ba ngay tình.
1.1.5. Vai trò của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
Sau hơn 30 năm đổi mới, kinh tế – xã hội Việt Nam ngày càng phát triển. “Năm 2019, Việt Nam đứng thứ 8 thế giới và thứ 2 trong khu vực ASEAN về tốc độ tăng trưởng GDP; là một trong 30 nước có mức tăng trưởng xuất, nhập khẩu cao và là nền kinh tế có quy mô xuất khẩu thứ 22 trên thế giới.”28. Đi đôi với sự phát triển của nền kinh tế là sự gia tăng cả về số lượng và quy mô của các loại hình doanh nghiệp. Tuy nhiên, DN lại là một chủ thể pháp lý đặc biệt. Tự bản thân DN không thể trực tiếp thực hiện tất cả mọi công việc mà phải thông qua người ĐD. Mọi hoạt động của một DN đều có sự tham gia của NĐDTPL, là một cơ chế pháp lý đặc biệt quan trọng đối với doanh nghiệp. Bằng cách công khai đăng ký danh tính của NĐDTPL, DN xác nhận tư cách hợp pháp của người được thay mặt cho DN thực hiện các giao dịch thương mại.
NĐDTPL của DN nắm giữ vai trò cực kỳ quan trọng trong doanh nghiệp, là “đầu tàu” của cả doanh nghiệp. Theo khoản 1 Điều 12 LDN năm 2020, NĐDTPL của DN sẽ thay mặt DN thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ quá trình kinh doanh của DN, bao gồm cả những giao dịch bên ngoài và trong nội bộ doanh nghiệp. Đồng thời, NĐDTPL còn thay mặt cho DN khi làm việc trước Toà án, Trọng tài với tư cách nguyên đơn; bị đơn; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan hoặc người yêu cầu giải quyết việc dân sự. Có thể nói, NĐDTPL của DN sẽ là người chịu mọi trách nhiệm trước pháp luật về toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp. Thậm chí Chủ tịch hay Tổng Giám đốc của công ty nếu không phải là NĐDTPL của công ty thì chữ ký của họ trong các hợp đồng giao dịch cũng sẽ không có giá trị vì người ký không có thẩm quyền.
Có thể khẳng định rằng, trong suốt quá trình hoạt động, kể từ khi thành lập đến khi chấm dứt hoạt động hoặc giải thể hoặc tuyên bố phá sản hay bị chia tách, sáp nhập, DN không thể không có NĐDTPL.“Doanh nghiệp phải bảo đảm luôn có ít nhất một người đại diện theo pháp luật cư trú tại Việt Nam” (Căn cứ khoản 3 Điều 12 LDN năm 2020). Và NĐDTPL của DN cũng là người có nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi DN không thể hoàn thành các nghĩa vụ thanh toán (Theo khoản 3 Điều 5 LPS năm 2014). Luận văn: Pháp luật về người đại diện của doanh nghiệp.
NĐDTPL của DN đóng vai trò rất quan trọng và quyền lực trong cơ cấu tổ chức của DN. Với vai trò là hiện thân của DN, NĐDTPL hành động dựa trên nền tảng quyền và nghĩa vụ mà DN có. Thực tế cho thấy NĐDTPL của DN chính là người chịu trách nhiệm cho mọi hoạt động của DN, là người quản lý tài chính cho DN, đứng tên và sử dụng tài khoản mở tại ngân hàng của DN, sử dụng con dấu của DN. Mọi hợp đồng ký kết nhân danh DN đều phải được ký bởi NĐDTPL hoặc người được ủy quyền từ NĐDTPL.
Nhấn mạnh vai trò pháp lý quan trọng NĐDTPL của doanh nghiệp, pháp luật Việt Nam quy định khi DN chỉ có một NĐDTPL mà người này rời khỏi Việt Nam quá ba mươi ngày thì bắt buộc người đó phải thực hiện việc ủy quyền cho một người khác đang sinh sống ở Việt Nam tiếp tục đảm nhiệm chức trách của NĐDTPL. Hoặc trường hợp DN không còn NĐDTPL do một số nguyên nhân thì chủ sở hữu công ty, HĐTV, HĐQT cử người khác làm NĐDTPL của DN (khoản 5 Điều 12 LDN năm 2020).
Vì vậy, khi DN vi phạm pháp luật thì cũng đồng thời NĐDTPL của DN là người phải thi hành hình phạt. Cụ thể, nếu DN bị phạt về hành chính thì NĐDTPL có trách nhiệm thực hiện hoặc uỷ quyền cho cá nhân khác thay mình thực hiện đóng phạt, thi hành các biện pháp phạt bổ sung nếu có. Thậm chí nếu vi phạm của DN đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự thì chính NĐDTPL sẽ phải thi hành các án phạt hình sự sau khi tòa án công bố quyết định bản án.
Song song đó, NĐDTPL của DN còn đóng vai trò người gìn giữ quyền lợi chính đáng theo luật định của chủ sở hữu DN, đảm bảo DN có thể phát triển một cách vững chắc và ngày càng mở rộng. Bởi NĐDTPL là người được chủ sỡ hữu DN thuê, ngoại trừ loại hình DNTN có chủ sở hữu cũng chính là NĐDTPL, nhằm thay mặt DN, hay nói đúng hơn là thay mặt chủ sở hữu quản lý việc kinh doanh của DN, chịu trách nhiệm trước pháp luật về các hoạt động của doanh nghiệp. Có thể nói, tương quan giữa chủ sở hữu DN và NĐDTPL của DN là mối quan hệ tương hỗ. Trong đó, NĐDTPL của DN giúp chủ sở hữu phát triển DN, ngược lại chủ sở hữu cũng trao nhiều quyền lợi, lương thưởng xứng đáng cho NĐDTPL.
Tuy nhiên, mối quan hệ này vẫn tồn tại hạn chế. Đó là NĐDTPL của DN dù sao cũng không phải chủ sở hữu, vẫn có xu hướng cá nhân hóa lợi ích có được từ việc kinh doanh của DN, không hoàn toàn vì lợi ích của chủ sở hữu. Như vậy, mâu thuẫn thường xuất hiện trong mối quan hệ giữa NĐDTPL và chủ sở hữu xuất phát từ vấn đề lợi ích nhận được của hai bên. Nếu không cân bằng, hài hòa được lợi ích giữa hai phía thì hậu quả là mối quan hệ đại diện này sẽ có nguy cơ bị phá vỡ, kéo theo thiệt hại không nhỏ cho DN, thậm chí DN có thể không thể tiếp tục hoạt động. Nhất là khi so sánh vai trò của NĐDTPL của DNTN với NĐDTPL của các loại hình DN còn lại. Bởi vì đối với DNTN thì NĐDTPL cũng chính là chủ DN nên các mối xung đột về lợi ích gần như không có. Các nhà làm luật đã thấy được kẻ hở trong mối quan hệ giữa NĐDTPL của DN và chủ sở hữu nên đã đưa quy định về trách nhiệm luôn bảo đảm lợi ích hợp pháp của DN vào LDN năm 2020, nhằm hạn chế, ngăn ngừa một phần việc NĐDTPL thực hiện các giao dịch tư lợi (khoản 1 Điều 13 LDN năm 2020).
1.2. Các nguyên tắc điều chỉnh quan hệ đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp Luận văn: Pháp luật về người đại diện của doanh nghiệp.
Để NĐDTPL của DN có thể phát huy tốt vai trò của mình thì cần thiết xác định các nguyên tắc điều chỉnh mối quan hệ ĐD giữa NĐDTPL của DN với chủ sở hữu, với các cơ quan ban ngảnh có thẩm quyền của Nhà nước, với đối tác, với khách hàng, với nội bộ nhân viên trong doanh nghiệp.
1.2.1. Nguyên tắc cân bằng
Nguyên tắc cân bằng là nguyên tắc chủ đạo cần quan tâm khi điều chỉnh quan hệ ĐDTPL của DN. Cụ thể, ở đây không thể không nhắc đến sự cân bằng giữa quyền lợi và nghĩa vụ của NĐDTPL. Bởi vì NĐDTPL của DN về pháp lý vẫn là cá nhân riêng lẻ. Dù đại diện cho DN nhưng lợi ích của NĐDTPL sẽ không đồng nhất với lợi ích của doanh nghiệp. Việc chủ sở hữu DN là một người còn NĐDTPL lại là người khác dẫn đến quyền sở hữu và quyền quản lý, điều hành tách biệt với nhau. Hệ quả là NĐDTPL của DN sẽ có chiều hướng hành động nghiên về lợi ích của chính bản thân họ hơn là ưu tiên cho quyền lợi của những người khác như DN, chủ sở hữu hay cổ đông. Đây chính là mâu thuẫn phát sinh trong quan hệ ĐDTPL của DN, còn được gọi là nghịch lý đại diện.
Trong các DN, chủ sở hữu hoặc người ĐD theo uỷ quyền của các chủ sở hữu thường đảm nhận chức vụ Chủ tịch công ty; HĐTV hoặc Chủ tịch HĐTV hay Đại hội đồng cổ đông hoặc Chủ tịch HĐQT. Trong khi đó, để điều hành hoạt động hằng ngày của DN cần có chức danh Tổng Giám đốc hoặc Giám đốc. Sẽ không có mâu thuẫn phát sinh nếu chủ sở hữu công ty đồng thời là NĐDTPL như trong phần lớn các Cty TNHH và Cty CP như hiện nay, Chủ tịch HĐTV, Chủ tịch HĐQT đều kiêm chức danh Giám đốc. Tuy vậy, mô hình này lại có một nhược điểm lớn là tập trung mọi quyền lực vào một cá nhân, dẫn đến tình trạng “vừa đá bóng, vừa thổi còi” trong quản lý, điều hành công ty. Dĩ nhiên tình trạng như thế tiềm ẩn nhiều rủi ro trong quản trị doanh nghiệp, nhất là đối với những DN có quy mô lớn. Luận văn: Pháp luật về người đại diện của doanh nghiệp.
Ngược lại, trường hợp Chủ tịch công ty, Chủ tịch HĐTV hay Chủ tịch HĐQT không phải là NĐDTPL của công ty, mà chức danh Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc đảm nhiệm vị trí NĐDTPL thì cũng nảy sinh nhiều hạn chế. Đặc biệt khi Giám đốc, Tổng Giám đốc không phải là chủ sở hữu hoặc chỉ sở hữu một phần vốn. Khi đó, chủ sở hữu rất khó kiểm soát được hoạt động của Giám đốc, Tổng Giám đốc. Bởi vì chỉ có NĐDTPL của DN mới được thay mặt DN thực hiện các giao dịch với đối tác kinh doanh, khách hàng hoặc ký kết các văn bản gửi các cơ quan có thẩm quyền. Như vậy, Chủ tịch HĐTV, Chủ tịch HĐQT, những “ông chủ” công ty, muốn ký kết hợp đồng thì lại phải cần có giấy uỷ quyền từ Giám đốc – người được thuê nếu Giám đốc là NĐDTPL của doanh nghiệp. Không những thế, Chủ tịch HĐTV, Chủ tịch HĐQT còn không được hành động dưới danh nghĩa cá nhân mình. Mọi văn bản hay công văn do Chủ tịch HĐTV, Chủ tịch HĐQT ký ban hành đều phải ghi rõ “ Thay mặt HĐTV” hoặc “Thay mặt HĐQT” vì mọi vấn đề do Chủ tịch HĐTV, Chủ tịch HĐQT đưa ra đều phải dựa trên nghị quyết của tập thể HĐTV, HĐQT. Với quyền hạn như luật định của mình, Giám đốc có thể thực hiện những hành vi gian lận để tư lợi, bố trí lao động là người thân nhân, gây rối loạn trong nội bộ công ty, làm giảm uy tín của doanh nghiệp… Nếu phát hiện ra những hoạt động có vấn đề của NĐDTPL thì Chủ tịch HĐTV, Chủ tịch HĐQT cũng khó mà ngăn chặn ngay lập tức mà phải triệu tập cuộc họp HĐTV, HĐQT để trình bày tình huống, rủi ro mà công ty có thể gặp phải trong cuộc họp và chờ đợi để có được đồng thuận của các thành viên khác trong hội đồng. Đến lúc hội đồng thông qua nghị quyết thì sự việc có thể đã xảy ra theo hướng bất lợi cho DN hay thậm chí chỉ còn cách giải quyết, khắc phục hậu quả.
Do đó, sự cân bằng giữa quyền lợi và nghĩa vụ của NĐDTPL nên được thiết lập nhằm tạo động lực cũng như kiểm soát NĐDTPL của DN thực hiện trách nhiệm với DN mà mình đại diện, luôn đặt quyền lợi hợp pháp của DN lên hàng đầu, tuyệt đối không trục lợi cá nhân từ việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ của NĐDTPL, không chiếm đoạt tài sản, bí mật kinh doanh, thời cơ phát triển của DN làm của riêng hay bán cho đối tượng khác dẫn đến tổn thất cả về mặt lợi nhuận cũng như uy tín của DN trên thị trường, hướng tới sự phát triển bền vững của doanh nghiệp.
1.2.2. Nguyên tắc minh bạch
Quan hệ ĐD theo pháp luật của DN cũng cần tuân theo nguyên tắc minh bạch. Rõ ràng, minh bạch trong việc giao quyền cho NĐDTPL của doanh nghiệp. Nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền hạn của NĐDTPL của DN phải được quy định cụ thể trong Điều lệ của doanh nghiệp. Mọi thứ đều bắt nguồn từ tính minh bạch. Sự minh bạch là nền tảng để NĐDTPL của DN cảm thấy họ được coi trọng, là một phần không thể tách rời của doanh nghiệp. Khi thiếu đi tính minh bạch, không thể thực sự gắn kết NĐDTPL của DN với các giá trị của DN hay kết nối họ với những nhân tố khác trong nội bộ doanh nghiệp.
Thực tế, NĐDTPL của DN chân chính sẽ mong muốn được coi trọng và tin tưởng. Việc DN minh bạch hóa toàn bộ các quyền lợi, nghĩa vụ của NĐDTPL, cho phép họ nắm giữ nhiều thông tin hơn sẽ khiến họ cảm thấy mình thực sự là một phần trong doanh nghiệp, và sẵn sàng trao ngược lại sự tin tưởng gấp đôi điều đó tới DN sau khi đã nhận về. Với một sự tin tưởng cao độ, NĐDTPL sẽ có động lực để làm việc hiệu quả hơn. Kèm theo quyền lợi đó, dĩ nhiên cần công khai quy định ràng buộc trách nhiệm của NĐDTPL.
Ngoài ra, việc minh bạch thông tin cũng tránh gây ra các lo lắng và các loại tin đồn phổ biến trong DN gây ảnh hưởng tới uy tín và chia rẽ nội bộ nhân viên. Bằng cách cởi mở và trung thực về các vấn đề DN đang gặp phải, NĐDTPL của DN và nhân viên có thể nhận được sự hỗ trợ đắc lực từ phía nhau và từ các bên liên quan.
1.2.3. Nguyên tắc tự chủ Luận văn: Pháp luật về người đại diện của doanh nghiệp.
DN được pháp luật trao cho quyền tự quyết định số lượng NĐDTPL. Trước đây, theo quy định của LDN năm 2005 thì một công ty chỉ được phép có một NĐDTPL. Tuy nhiên LDN năm 2014 và đặc biệt là LDN năm 2020 đã cho phép một công ty có nhiều NĐDTPL. Cụ thể, khoản 2 Điều 12 LDN năm 2020 quy định Cty TNHH và Cty CP có thể lựa chọn mô hình chỉ một NĐDTPL hay mô hình đa NĐDTPL. Và điều lệ công ty sẽ thể hiện chi tiết về NĐDTPL như tổng số, vị trí, quyền hạn, nghĩa vụ. Hơn hết, điều lệ công ty cũng là giấy tờ pháp lý xác định quyền, nghĩa vụ của từng NĐDTPL nếu công ty có nhiều hơn một NĐDTPL. Nếu việc phân chia quyền, nghĩa vụ của mỗi NĐDTPL không được thể hiện rõ trong điều lệ công ty thì mỗi NĐDTPL có toàn quyền ĐD cho công ty như nhau và phải liên đới chịu trách nhiệm đối với tổn thất gây ra cho công ty theo luật định. Quy định này nhằm hướng tới tôn trọng quyền tự quyết trong kinh doanh của DN, cho phép DN quyền tự chủ quyết định tổng số NĐDTPL có thể nhân danh DN tiến hành các hoạt động kinh doanh cần thiết.
Như vậy so với LDN năm 2014, LDN năm 2020 giữ nguyên quy định một CTTNHH, CTCP có thể có nhiều hơn một NĐDTPL đã tạo sự chủ động, thuận lợi cho DN trong quá trình hoạt động kinh doanh, trong việc lựa chọn mô hình tổ chức của mình đồng thời giải toả được vướng mắc, bất cập về thẩm quyền của từng người ĐD mà LDN năm 2014 gặp phải. Tuy nhiên quy định này chỉ được áp dụng đối với loại hình DN là CTTNHH một thành viên, CTTNHH 2 thành viên trở lên, CTCP mà không áp dụng đối với CTHD hoặc DNTN. Sở dĩ như vậy là do đặc thù về tính chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của thành viên CTHD và chủ DNTN. Chủ DNTN, mỗi thành viên CTHD là NĐDTPL của DN. Vì thế CTHD, DNTN không thể tự do lựa chọn mô hình tổ chức có một NĐDTPL hay mô hình có nhiều NĐDTPL. Đây cũng là điểm hạn chế của Luật doanh nghiệp hiện nay.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Tổng kết chương này, những vấn đề lý luận chung về chế định NĐDTPL của DN đã được trình bày, bao gồm: khái niệm, đặc điểm NĐDTPL của DN; bản chất pháp lý của việc ĐDTPL của DN; vai trò của NĐDTPL của DN.
Bên cạnh đó, tác giả cũng chỉ ra những nguyên tắc chính yếu điều chỉnh quan hệ ĐDTPL của DN, cụ thể là các nguyên tắc: cân bằng, minh bạch và tự chủ.
Qua phân tích, có thể khẳng định NĐDTPL là chức danh không thể thiếu trong cơ cấu tổ chức nhân sự của DN. Với vai trò quan trọng như thế, cần xây dựng cơ chế giám sát cụ thể và chặt chẽ NĐDTPL của DN trong quá trình thực hiện nhiệm vụ được DN, chủ sở hữu giao. Luận văn: Pháp luật về người đại diện của doanh nghiệp.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Luận văn: Thực trạng về người đại diện theo pháp luật của DN

Dịch Vụ Viết Luận Văn Ngành Luật 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://vietluanvanluat.com/ – Hoặc Gmail: vietluanvanluat@gmail.com


 
					
Luận văn: Pháp luật về người đại diện của doanh nghiệp
Pingback: Luận văn: Hoàn thiện về người đại diện theo pháp luật của DN