Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Pháp luật về bảo mật thông tin khách hàng ở NH hay nhất năm 2025 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thạc sĩ thì với đề tài Luận văn: Thực thi pháp luật về bảo mật thông tin khách hàng trong hoạt động ngân hàng ở Việt Nam dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
TÓM TẮT LUẬN VĂN
Tiêu đề: Thực thi pháp luật về bảo mật thông tin khách hàng trong hoạt động ngân hàng ở Việt Nam.
Cùng với sự bùng nổ và phát triển công nghệ số, dữ liệu lớn, thông tin trên không gian số, các tổ chức HĐNH cũng đang đứng trước những thử thách rất lớn liên quan đến việc BMTT khách hàng. Mặc dù hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đã tương đối đầy đủ để điều chỉnh về BMTT nhưng vẫn chưa đáp ứng kịp thời với những yêu cầu thực tiễn. Trong luận văn tác giả đã sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp xuyên suốt nhằm làm sáng tỏ thực thi pháp luật về bảo mật thông tin khách hàng do đó tất cả các chủ thể liên quan trong hoạt động ngân hàng cần có nghĩa vụ tuân thủ, chấp hành, sử dụng và áp dụng các quy định pháp luật. Ngoài ra, tác giả có sử dụng một số phương pháp khác như phương pháp Luật học so sánh nhằm đối chiếu quy định pháp luật về thực thi pháp luật bảo mật thông tin khách hàng trong HĐNH ở Việt Nam ở từng thời kì khác nhau đồng thời so sánh những quy định pháp luật tại một số quốc gia trên thế giới để từ đó nhận thấy những điểm bất cập, những khoản trống pháp lý cần khắc phục để đưa ra giải pháp bảo đảm thực thi pháp luật về bảo mật thông tin khách hàng trong hoạt động ngân hàng tại Việt Nam.
Để đạt được các mục tiêu trên, luận văn tập trung thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu sau: Một là, làm rõ một số vấn đề lý luận về thực thi pháp luật BMTT khách hàng trong HĐNH ở Việt Nam; Hai là, phân tích, so sánh, đánh giá những quy định pháp luật liên quan đến thực thi pháp luật về BMTT khách hàng trong HĐNH theo quy định của pháp luật Việt Nam trong sự so sánh với pháp luật một số nước trên thế giới; Ba là, phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn thực thi pháp luật về BMTT khách hàng trong HĐNH ở Việt Nam. Qua đó, phát hiện những hạn chế, bất cập; những khó khăn, vướng mắc; từ đó xác định phương hướng, đề xuất những giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về BMTT khách hàng ở Việt Nam.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có giá trị tham khảo đối với các tổ chức HĐNH và các chủ thể liên quan, góp phần nâng cao ý thức, trách nhiệm, nâng cao chất lượng dịch vụ, tránh rò rỉ thông tin khách hàng;
Từ khoá: bảo mật thông tin khách hàng; chuyển đổi số; pháp luật
ABSTRACT
Title: Law enforcement on customer information confidentiality in banking operations in Vietnam.
With the rapid growth and advancement of digital technology, big data, and information in the digital realm, banking institutions are also confronted with significant challenges pertaining to customer information confidentiality. While there exists a comprehensive framework of legal documents to govern information confidentiality, it is not always responsive to practical demands in a timely manner. In this thesis, the author has applied a method of analysis and summary to elucidate the law enforcement of customer information confidentiality; thereby all relevant entities involved in banking operations are obliged to comply with, observe, and effectively apply these legal regulations. In addition, the author utilizes various approaches, including comparative jurisprudence, to analyse the law enforcement of customer information confidentiality in banking operations in Vietnam from time to time. Furthermore, the author compares the legal regulations across multiple countries to identify any shortcomings and legal gaps to be improved to suggest the solutions helping the law enforcement concerning of customer information confidentiality in banking operations in Vietnam.
In order that the above objectives can be successfully obtained, the thesis focuses on carrying out the following research tasks: Firstly, clarify the theoretical issues related to the law enforcement of customer information confidentiality in banking operations in Vietnam; Secondly, analyze, compare, and review the legal regulations related to the law enforcement of customer information confidentiality in banking operations under Vietnamese law in comparison with the law in several countries in the world; Thirdly, analyze and review the current legal status and the law enforcement of customer information confidentiality in banking operations in Vietnam in order to detect the shortcomings and inadequacies; difficulties and problems; and to determine plansand suggest the solutions that contribute to perfecting the law and improving the effectiveness of law enforcement of customer information confidentiality in Vietnam.
The research findings of the thesis are used for the reference of banking institutions and other relevant entities and the findings also help raise awareness, promote accountability, enhance service quality, and prevent information leakage.
Keywords: customer information confidentiality; digital transformation; laws.
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, hệ thống ngân hàng có tầm quan trọng đặc biệt, là kênh dẫn vốn chủ yếu phục vụ sản xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, nâng cao đời sống nhân dân. Song, tổ chức tín dụng (TCTD) không trực tiếp làm ra của cải vật chất mà “sống” được nhờ khách hàng. Chính vì thế, giữ khách hàng là điều quan trọng nhất cho sự tồn tại của TCTD. Bảo mật thông tin (BMTT) khách hàng là tiêu chí không thể thiếu trong quá trình hoạt động của TCTD. Luận văn: Pháp luật về bảo mật thông tin khách hàng ở NH.
Hiện nay, Việt Nam có khoảng trên 100 triệu dân, là nước đông dân thứ 15 trên thế giới. Dân số đông và sự phát triển nhanh chóng của hệ thống siêu thị, trung tâm thương mại, trung tâm mua sắm, cửa hàng tiện lợi góp phần đưa hoạt động bán lẻ trở thành mối quan tâm hàng đầu của mọi doanh nghiệp, trong đó có các ngân hàng. Đây là cơ hội để ngân hàng cơ cấu lại nguồn thu, dịch chuyển dần từ thu dịch vụ tín dụng sang thu dịch vụ thông qua phát triển cung ứng sản phẩm dịch vụ ngân hàng tiện ích, đáp ứng nhu cầu thanh toán của người dân. Trong hoạt động ngân hàng (HĐNH), nguồn lực kinh doanh không chỉ dừng lại ở tiền tệ, dòng vốn, mà dữ liệu thông tin khách hàng cũng là một nguồn lực hoạt động, thông tin của khách hàng cũng là tài sản vô cùng quý giá. BMTT khách hàng được xem là cốt lõi đánh giá sự tin tưởng với doanh nghiệp nói chung và với ngân hàng thương mại (NHTM) nói riêng. Điều này sẽ giúp doanh nghiệp tăng trưởng doanh thu và xây dựng thương hiệu bền vững sau này.
Thời gian qua, cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật và truyền thông đã tạo ra những cơ hội mới để cơ sở hạ tầng tài chính hoạt động hiệu quả hơn. Tuy nhiên, điều này cũng đặt ra những thách thức liên quan đến BMTT của khách hàng bởi thông tin khách hàng của các ngân hàng không chỉ tồn tại trong mối quan hệ giữa chủ thể cung cấp thông tin và chủ thể được phép tiếp nhận thông tin mà còn có thể được tiết lộ cho chủ thể xử lý thông tin.
Khách hàng vốn là người yếu thế hơn so với TCTD trong quan hệ BMTT của mình trong HĐNH. Bởi khi cung cấp các thông tin liên quan cho TCTD, họ không có đầy đủ các công cụ để giám sát quá trình BMTT mà mình cung cấp theo luật định. Do đó, việc bảo đảm sự cân bằng về nghĩa vụ và quyền lợi của các bên tham gia vào quan hệ BMTT khách hàng trong HĐNH thông qua công cụ pháp lý của Nhà nước là cần thiết để nhằm khuyến khích khách hàng gửi tiền, thực hiện các giao dịch qua ngân hàng, thúc đẩy hiệu quả kinh doanh ngân hàng, từ đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
“Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 được phê duyệt tại Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 3/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ xác định chuyển đổi số trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng như sau: Xây dựng tài chính điện tử và thiết lập nền tảng tài chính số hiện đại, bền vững. Triển khai ứng dụng toàn diện công nghệ số trong các ngành thuế, hải quan, kho bạc, chứng khoán”. Luận văn: Pháp luật về bảo mật thông tin khách hàng ở NH.
Việc chuyển đổi số cũng đặt ra nhiều thách thức trong việc quản lý và bảo vệ dữ liệu khách hàng. Các TCTD phải đảm bảo rằng dữ liệu của khách hàng được lưu trữ và quản lý đúng cách để tránh các sai sót hoặc lỗ hổng bảo mật. Họ cũng cần đảm bảo rằng họ tuân thủ các quy định và quyền riêng tư đang áp dụng trong lĩnh vực của mình.
Có thể nhận thấy pháp luật về BMTT khách hàng trong HĐNH đã có những quy định ghi nhận rõ quyền và nghĩa vụ của các chủ thể và mối quan hệ tương quan quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể trong việc thực thi BMTT khách hàng. Bên cạnh đó, NHNNVN cũng đã có những nỗ lực trong tạo lập được hành lang pháp lý cho các chủ thể tham gia HĐNH thực thi pháp luật về BMTT, quy định các nguyên tắc, thủ tục để TCTD cung cấp thông tin khách hàng theo luật định và cả trách nhiệm liên quan trong quá trình này. Song, cùng với sự bùng nổ và phát triển công nghệ số, dữ liệu lớn, thông tin trên không gian số, các tổ chức HĐNH cũng đang đứng trước những thử thách rất lớn liên quan đến việc BMTT khách hàng.
Mặc dù hệ thống văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) đã tương đối đầy đủ để điều chỉnh hoạt động BMTT trong HĐNH nhưng vẫn chưa đáp ứng kịp thời với những yêu cầu thực tiễn. Việc phân tích một cách có hệ thống các quy định liên quan đến pháp luật BMTT khách hàng của các TCTD, kiến nghị các giải pháp hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực thi pháp luật về BMTT khách hàng trong HĐNH là nội dung vẫn rất cần thiết. Đây là lý do tác giả lựa chọn đề tài “Thực thi pháp luật về bảo mật thông tin khách hàng trong hoạt động ngân hàng ở Việt Nam” làm luận văn của mình.
2. Mục tiêu của đề tài
2.1. Mục tiêu tổng quát
Luận văn được nghiên cứu với mục tiêu là làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về thực thi pháp luật về BMTT khách hàng trong HĐNH; phân tích, đánh giá một số quy định pháp luật và tình hình thực thi pháp luật về BMTT khách hàng trong HĐNH ở Việt Nam; đề xuất các kiến nghị, giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về hoạt động này ở Việt Nam.
2.2. Mục tiêu cụ thể
Để đạt được các mục tiêu trên, luận văn tập trung thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu sau:
Một là, làm rõ một số vấn đề lý luận về thực thi pháp luật BMTT khách hàng trong HĐNH ở Việt Nam.
Hai là, phân tích, so sánh, đánh giá những quy định pháp luật liên quan đến thực thi pháp luật về BMTT khách hàng trong HĐNH theo quy định của pháp luật Việt Nam trong sự so sánh với pháp luật một số nước trên thế giới.
Ba là, phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn thực thi pháp luật về BMTT khách hàng trong HĐNH ở Việt Nam. Qua đó, phát hiện những hạn chế, bất cập; những khó khăn, vướng mắc; từ đó xác định phương hướng, đề xuất những giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về BMTT khách hàng ở Việt Nam.
3. Câu hỏi nghiên cứu Luận văn: Pháp luật về bảo mật thông tin khách hàng ở NH.
Câu hỏi nghiên cứu chung: Luận văn “Thực thi pháp luật về bảo mật thông tin khách hàng trong hoạt động ngân hàng ở Việt Nam” được tiến hành để trả lời cho câu hỏi: Pháp luật ngân hàng cần phải sửa đổi, bổ sung như thế nào để các TCTD và các chủ thể liên quan bảo đảm thực thi pháp luật về BMTT khách hàng trong HĐNH?.
Câu hỏi nghiên cứu cụ thể:
- Pháp luật ngân hàng hiện hành có tạo điều kiện để đảm bảo thực thi pháp luât BMTT khách hàng trong HĐNH không?
- Thực tiễn thực thi pháp luật về BMTT khách hàng trong HĐNH ở Việt Nam làm phát sinh những vướng mắc gì?
- Pháp luật ngân hàng hiện hành cần phải bổ sung những quy định gì để góp phần bảo đảm việc thực thi pháp luật và nâng cao hiệu quả việc thực thi pháp luật về BMTT khách hàng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Lý luận về bảo đảm bí mật thông tin khách hàng của các
- Các QPPL điều chỉnh hoạt động BMTT khách hàng trong HĐNH ở Việt Nam và một số nước trên thế giới.
- Diễn biến của thực tiễn thực thi liên quan đến hoạt động BMTT khách của các TCTD.
- Định hướng chiến lược phát triển ngành ngân hàng ở Việt
4.2. Phạm vi nghiên cứu
“Bí mật thông tin trong lĩnh vực ngân hàng bao gồm bí mật quốc gia trong ngành ngân hàng, bí mật kinh doanh ngân hàng, bí mật thông tin liên quan đến khách hàng. Trong khuôn khổ luận văn này, tác giả tâp trung nghiên cứu quy định pháp luật về bảo đảm bí mật thông tin của khách hàng trong HĐNH của TCTD”.
Đồng thời, tác giả cũng chỉ tâp trung nghiên cứu quy định pháp luật về thực thi pháp luật BMTT của khách hàng trong HĐNH của các TCTD là các NHTM trong các hoạt động nhận tiền gửi, cấp tín dụng và cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản.
5. Phương pháp nghiên cứu Luận văn: Pháp luật về bảo mật thông tin khách hàng ở NH.
- Để thực hiện đề tài này, luận văn sử dụng các phương pháp sau:
Luận văn vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác – Lênin. Ngoài ra, để giải quyết các nhiệm vụ đặt ra, luận văn còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khác như:
5.1. Phương pháp phân tích và phương pháp tổng hợp
Phương pháp này được sử dụng xuyên suốt luận văn để phân tích, bình luận, đánh giá và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về thực thi pháp luật BMTT khách hàng như khái niệm, đặc điểm thông tin khách hàng trong HĐNH, nghĩa vụ BMTT khách hàng, cơ sở pháp lý của nghĩa vụ BMTT khách hàng, bản chất của thực thi pháp luật về BMTT khách hàng trong HĐNH; phân tích quy định pháp luật về BMTT khách hàng trong HĐNH ở Việt Nam nhằm phát hiện các QPPL mà người làm luật muốn xây dựng và được thể hiện trong văn bản cũng như quá trình thực hiện các quy định về BMTT khách hàng trong HĐNH. Trên cơ sở đó, phương pháp tổng hợp được sử dụng nhằm đưa ra những nhận định, rút ra các kết luận, đề xuất các kiến nghị hoàn hiện pháp luật, các giải pháp thực thi pháp luật BMTT khách hàng trong HĐNH ở Việt Nam.
5.2. Phương pháp Luật học so sánh
Phương pháp này được sử dụng chủ yếu trong chương 1 và 2 để so sánh, đối chiếu, đánh giá các quan điểm khoa học. So sánh, đối chiếu những quy định pháp luật về thực thi pháp luật BMTT khách hàng trong HĐNH ở Việt Nam ở từng thời kì khác nhau. Từ đó có những góc nhìn một cách khách quan hơn các quy đinh pháp luật về BMTT khách hàng trong HĐNH, nhận diện những điểm bất cập, những khoảng trống pháp lý cần khắc phục để hoàn thiện hơn về thực thi pháp luật BMTT khách hàng trong HĐNH ở Việt Nam.
5.3. Phương pháp lịch sử
Phương pháp này được sử dụng chủ yếu trong chương 1 và 2 để xem xét, phân tích các tài liệu theo thời gian có liên quan đến nội dung nghiên cứu của đề tài để xây dựng tổng quan các vấn đề nghiên cứu, xác định các vấn đề nghiên cứu tiếp theo. Đồng thời phương pháp này cũng được sử dụng để xem xét, phân tích quá trình hình thành và ghi nhận việc thực thi pháp luật BMTT khách hàng trong các VBQPPL đã được ban hành trước đây với những thay đổi trong việc xác định và ghi nhận phạm vi, giới hạn, nội dung của việc thực thi pháp luật BMTT khách hàng trong bối cảnh sự phát triển khoa học công nghệ số, nền tảng số hóa các dữ liệu ngành ngân hàng.
Tuy nhiên, việc cụ thể các phương pháp nghiên cứu như trên chỉ mang tính chất tương đối bởi trong luận văn của mình, tùy vấn đề, nội dung nghiên cứu mà tác giả thường đan xen, kết hợp các phương pháp nghiên cứu nhằm đạt được mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của mình. Luận văn: Pháp luật về bảo mật thông tin khách hàng ở NH.
6. Nội dung nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn thực thi pháp luật về BMTT khách hàng trong HĐNH ở Việt Nam để từ đó làm rõ các quy định của PLVN hiện hành liên quan đến thực thi pháp luật về BMTT khách hàng trong HĐNH ở Việt Nam; đề xuất các kiến nghị, giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về BMTT khách hàng trong HĐNH ở Việt Nam trong bối cảnh số hóa và chuyển đổi số hiện nay.
7. Đóng góp của đề tài
7.1 Ý nghĩa khoa học
Luận văn góp phần làm sâu sắc hơn những vấn đề lý luận về thực thi pháp luật về BMTT khách hàng trong HĐNH như: phân tích, so sánh, đánh giá những vấn đề lý luận và thực tiễn thực thi pháp luật về BMTT khách hàng trong HĐNH ở Việt Nam làm cơ sở khoa học cho việc xác định nội dung cần thiết thực thi pháp luật về BMTT khách hàng, làm rõ những thiếu sót trong việc thực thi pháp luật BMTT khách hàng trong HĐNH ở Việt Nam; từ đó đề xuất các kiến nghị, giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về BMTT khách hàng trong HĐNH ở Việt Nam.
7.2 Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn đã phân tích thực tiễn thực thi pháp luật về BMTT khách hàng trong HĐNH ở Việt Nam, kết hợp với việc so sánh kinh nghiệm tại một số nước khác để từ đó, đưa ra những kiến nghị hoàn thiện pháp luật và đề xuất những giải pháp bảo đảm thực thi pháp luật về BMTT khách hàng trong HĐNH tại Việt Nam. Đồng thời, luận văn cũng góp phần nâng cao ý thức, trách nhiệm của các tổ chức HĐNH, khách hàng, các chủ thể liên quan trong quá trình thực thi pháp luật về BMTT khách hàng trong HĐNH ở Việt Nam.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có giá trị tham khảo đối với các tổ chức HĐNH và các chủ thể liên quan, góp phần nâng cao ý thức, trách nhiệm, nâng cao chất lượng dịch vụ, tránh rò rỉ thông tin khách hàng; Đối với khách hàng (người tiêu dùng tài chính) có thêm thông tin để tham khảo và bảo vệ thông tin của chính mình; Riêng đối với các nhà làm luật, hy vọng đây cũng là tài liệu tham khảo cho các cơ quan lập pháp trong quá trình nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện pháp luật về thực thi pháp luật BMTT khách hàng trong HĐNH ở Việt Nam. Luận văn: Pháp luật về bảo mật thông tin khách hàng ở NH.
8. Tổng quan về lĩnh vực nghiên cứu
Thực thi pháp luật về BMTT khách hàng trong HĐNH là nội dung được nhiều tác giả quan tâm, nghiên cứu. Trong quá trình nghiên cứu, tác giả luận văn nhận thấy có một số công trình nghiên cứu nổi bật, liên quan mật thiết đến đề tài, cụ thể như sau:
Bài viết “Nghĩa vụ bảo mật thông tin khách hàng theo quy định pháp luật một số nước trên thế giới và kinh nghiệm cho Việt Nam của tác giả Nguyễn Thị Kim Thoa (2016), Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam (7)”. Bài viết phân tích một số quy định về nghĩa vụ BMTT khách hàng của tổ chức HĐNH theo quy định pháp luật của một số nước trên thế giới và so sánh với pháp luật Việt Nam, từ đó đưa ra một vài khuyến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề này, đảm bảo cân bằng lợi ích của khách hàng và lợi ích của quốc gia trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Bài viết được tác giả luận văn kế thừa, tiếp tục nghiên cứu trong chương 2, 3 của luận văn.
Bài viết An toàn thông tin bảo mật tại các ngân hàng thương mại Việt Nam của Hạ Thị Thiều Dao (2019), Tạp chí Ngân hàng (12). Bài viết trình bày thực trạng đảm bảo an toàn, BMTT trong ngành ngân hàng dưới phương diện hạ tầng kỹ thuật, nhân lực và tổ chức, quản trị CNTT. Từ đó, tác giả đưa ra một số gợi ý đảm bảo an toàn bảo mật ngân hàng gắn với phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao cho NHTM. Dù vậy, đây là những thông tin mà tác giả luận văn cần tham khảo thêm khi nghiên cứu về giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật BMTT khách hàng trong HĐNH tại chương 3 của luận văn.
Bài viết Bàn về vấn đề bảo vệ thông tin cá nhân của người tiêu dùng trong thương mại điện tử (2019), của Nguyễn Thị Thu Hằng, Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam (2).
Bài viết chỉ dừng lại ở việc chứng minh sự cần thiết của việc bảo vệ thông tin cá nhân người tiêu dùng trong thương mại điện tử, làm rõ các yếu tố chi phối, khái quát khuynh hướng điều chỉnh của pháp luật đối với vấn đề này, từ đó đề xuất việc ban hành một đạo luật chung để bảo vệ thông tin, dữ liệu cá nhân người tiêu dùng, mà chưa phân tích mối quan hệ giữa thông tin cá nhân, dữ liệu cá nhân. Bài viết chưa làm rõ nghĩa vụ bảo vệ thông tin người tiêu dùng trong thương mại điện tử không chỉ là góp phần bảo vệ quyền riêng tư người tiêu dùng, quyền lợi của người tiêu dùng mà còn góp phần thúc đẩy hoạt động thương mại điện tử phát triển, từ đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển, Ngoài ra, bài viết cũng chưa làm rõ được nghĩa vụ bảo vệ thông tin người tiêu dùng, đó không chỉ là nghĩa vụ của người bán mà còn là nghĩa vụ của tổ chức cung cấp dịch vụ mạng, chủ sở hữu website thương mại điện tử và của chính người tiêu dùng. Dẫu vậy, nội dung bài viết cũng được tác giả luận văn tham khảo khi đề cập đến BMTT khách hàng trong ngân hàng số, khi phân tích các yếu tố chi phối, tác động đến việc thực thi pháp luật về BMTT khách hàng trong HĐNH được đề cập trong chương 2,3 của Luận văn. Luận văn: Pháp luật về bảo mật thông tin khách hàng ở NH.
Bài viết Nghĩa vụ bảo mật thông tin giai đoạn tiền hợp đồng trong pháp luật Việt Nam (2020) của Đinh Thị Tâm, Tạp chí Kinh tế Đối ngoại (122). Trong bài viết này, tác giả tập trung phân tích các quy định về nghĩa vụ BMTT giai đoạn tiền hợp đồng theo BLDS năm 2015 và một số quy định chuyên biệt như hoạt động nhượng quyền thương mại, HĐNH, hoạt động cung cấp dịch vụ pháp lý. Từ đó, đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luât liên quan đến nghĩa vụ BMTT giai đoạn tiền hợp đồng trong pháp luật Việt Nam. Bài viết trên đã giúp tác giả luận văn có thêm căn cứ để phân tích, khẳng định tính đúng đắn của quy định pháp luật về nghĩa vụ của TCTD là BMTT khách hàng trong HĐNH không chỉ khi đã thiết lập quan hệ hợp đồng mà TCTD còn phải có nghĩa vụ bảo mật trước khi giao kết hợp đồng và sự cần thiết phải quy định cụ thể về trách nhiệm pháp lý khi vi phạm nghĩa vụ BMTT giai đoạn tiền hợp đồng. Kết quả của bài viết có giá trị tham khảo được tác giả vận dụng khi nghiên cứu các nội dung tại chương 2 của luận văn.
Bài viết Bảo mật thông tin khách hàng khi sử dụng dịch vụ ngân hàng số của tác giả Nguyễn Thị Thái Hưng (2020), Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ số 3+4. Bài viết phân tích tác động của ngân hàng số, rủi ro khi sử dụng các dịch vụ của ngân hàng số, vấn đề BMTT khách hàng trong thời đại số hóa, từ đó đề xuất các giải pháp tăng cường quản trị rủi ro, đảm bảo an ninh mạng và bảo vệ thông tin của khách hàng. Kết quả của bài viết có giá trị tham khảo bổ ích được tác giả vận dụng khi nghiên cứu các nội dung tại chương 2 của luận văn đồng thời tác giả đưa ra những kiến nghị, những giải pháp BMTT của khách trong HĐNH ở Việt Nam.
Bài viết Bảo đảm an toàn, bí mật thông tin khách hàng trong ngân hàng điện tử tại Việt Nam- Nhìn từ góc độ pháp lý của Nguyễn Thị Kim Thoa (2021), Tạp chí Ngân hàng (16). Bài viết phân tích một số khía cạnh pháp lý liên quan đến an toàn, BMTT khách hàng của TCTD khi cung ứng dịch vụ ngân hàng điện tử theo quy định pháp luật Việt Nam, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm bảo đảm an toàn, BMTT khách hàng trong HĐNH điện tử ở Việt Nam. Bài viết được tác giả tham khảo khi phân tích thực trạng pháp luật về BMTT khách hàng trong HĐNH tại chương 2 của luận văn.
Bài viết Xử phạt vi phạm hành chính trong bảo mật thông tin khách hàng hiện nay và hướng hoàn thiện của Nguyễn Thị Kim Thoa (2021), Tạp chí Ngân hàng (19). Bài viết đề cập đến vai trò của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong BMTT khách hàng trong HĐNH, phân tích quy định của pháp luật về xử phạt hành vi vi phạm nghĩa vụ BMTT khách hàng trong HĐNH, từ đó đưa ra một vài khuyến nghị nhằm bảo đảm quyền được BMTT khách hàng. Bài viết có giá trị tham khảo khi tác giả nghiên cứu tại chương 3 của luận văn.
Luận án Pháp luật về bảo đảm bí mật thông tin khách hàng trong hoạt động ngân hàng ở Việt Nam của Nguyễn Thị Kim Thoa (2020), Luận án tiến sĩ, Trường Đại học Kinh tế – Luật (Đại học quốc gia TPHCM). Luận án đã: “i) Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận của pháp luật về bảo đảm bí mật thông tin khách hàng trong HĐNH). ii) Phân tích, so sánh, đối chiếu pháp luật Việt Nam với pháp luật của một số nước trên thế giới về những vấn đề pháp lý có liên iii) Phân tích, đánh giá thực trạng thực thi pháp luật về BMTT khách hàng trong HĐNH ở Việt Nam. iv) Đề xuất phương hướng, giải pháp, kiến nghị hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực thi pháp luật về BMTT khách hàng trong HĐNH ở Việt Nam”. Luận án mới chỉ tập trung phân tích, đánh giá những vấn đề BMTT khách hàng trong ngân hàng truyền thống. Dẫu vậy, một số kết quả nghiên cứu của luận án được tác giả tham khảo và kế thừa khi phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn thực thi pháp luật về BMTT khách hàng của các TCTD tại chương 2,3 của luận văn. Luận văn: Pháp luật về bảo mật thông tin khách hàng ở NH.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đã:
- Khai thác từng khía cạnh của pháp luật ngân hàng liên quan đến BMTT khách hàng và cũng đã giải quyết được một số vấn đề liên quan đến nghĩa vụ của các các chủ thể tham gia hoạt động này.
- Một số nghiên cứu khẳng định rằng sự can thiệp hợp lý của nhà nước vào quan hệ giữa người cung cấp sản phẩm, dịch vụ và khách hàng nói chung là cần thiết. Vai trò điều tiết, can thiệp, giám sát của nhà nước thông qua việc quy định chủ thể, phương thức thực thi và biện pháp bảo đảm an toàn dữ liệu, thông tin của người tiêu dùng với mục tiêu đảm bảo sự bình đẳng.
Đã có công trình nghiên cứu đã nghiên cứu một cách có hệ thống những nội dung liên quan đến lý luận của nghĩa vụ BMTT khách hàng, các giới hạn của nghĩa vụ này và cũng như đã tập trung nghiên cứu những nội dung liên quan đến thực thi nghĩa vụ BMTT khách hàng trong nhân hàng truyền thống.
Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả đã kế thừa, tiếp thu có chọn lọc từ các kết quả nghiên cứu nêu trên và đồng thời, tiếp tục triển khai, nghiên cứu các vấn đề sau:
Thứ nhất, tập hợp, phân tích, trình bày một cách có hệ thống một số vấn đề lý luận về thực thi pháp luật BMTT khách hàng trong HĐNH ở Việt Nam
Thứ hai, phân tích, đánh giá về thực tiễn quy định về ngân hàng số, một số thách thức liên quan.
Thứ ba, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật BMTT khách hàng trong ngân hàng số, trong bối cảnh số hóa một cách mạnh mẽ trong lĩnh vực ngân hàng, bảo đảm sự hài hòa về lợi ích giữa các TCTD, khách hàng, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước ở Việt Nam.
9. Bố cục tổng quát của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu bằng 03 chương, với các nội dung chính sau đây:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về thực thi pháp luật bảo mật thông tin của khách hàng trong hoạt động ngân hàng Luận văn: Pháp luật về bảo mật thông tin khách hàng ở NH.
- Chương 2: Thực tiễn thực thi pháp luật về bảo mật thông tin của khách hàng trong hoạt động ngân hàng ở Việt Nam
- Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về bảo mật thông tin của khách hàng trong hoạt động ngân hàng ở Việt Nam
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THỰC THI PHÁP LUẬT BẢO MẬT THÔNG TIN CỦA KHÁCH HÀNG TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG
Bảo đảm bí mật thông tin của khách hàng – thực thi pháp luật về BMTT khách hàng sẽ góp phần tạo được niềm tin của khách hàng đối với các TCTD. Đây là yếu tố cần thiết để đảm bảo sự an toàn trong hoạt động của các TCTD và sẽ tạo được lợi thế cạnh tranh so với các đối thủ khác trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay. Vấn đề đặt ra là cần bảo mật những thông tin nào của khách hàng và làm thế nào để thực thi pháp luật BMTT khách hàng trong HĐNH?
Mục đích nghiên cứu của chương này là:
- Làm rõ thông tin khách hàng trong HĐNH;
- Làm rõ nội hàm của khái niệm thực thi pháp luật về BMTT khách hàng trong HĐNH; Xác định nội dung thực thi pháp luật về BMTT khách hàng trong HĐNH;
- Phân tích sự cần thiết phải BMTT khách hàng trong bối cảnh số hóa.
1.1. Khái quát về thông tin và bảo mật thông tin khách hàng trong hoạt động ngân hàng
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm thông tin khách hàng trong hoạt động ngân hàng
Thông tin là khái niệm cơ bản của khoa học. Với mỗi lĩnh vực, góc tiếp cận khác nhau sẽ có những khái niệm và định nghĩa khác nhau về thông tin.
Từ điển Oxford Learner’s Dictionary đưa ra khái niệm thông tin như sau: “thông tin là điều người ta đánh giá hoặc nói đến; là tri thức, tin tức” Luận văn: Pháp luật về bảo mật thông tin khách hàng ở NH.
Theo Từ điển tiếng Việt, “thông tin là điều hoặc tin được truyền đi cho biết; sự truyền đạt, sự phản ánh tri thức dưới nhiều hình thức khác nhau, cho biết về thế giới xung quanh và những gì xảy ra trong nó”.
Dưới góc độ thông tin học, “thông tin là điều được nói đến, được đánh giá, là tri thức, tin tức; là những cái mới khác với những điều đã biết, là những dữ liệu dưới những hình thức khác nhau như các số liệu, hình ảnh, sự kiện… đã được xử lý thành một dạng dữ liệu thích hợp và có ý nghĩa nhất định nào đó với người sử dụng nó”.
Theo nghĩa thông thường trong cuộc sống thông tin là tất cả các sự việc, sự kiện, ý tưởng, phán đoán làm tăng thêm sự hiểu biết của con người.
Dưới góc độ pháp lý, khoản 1 Điều 2 Luật Tiếp cận thông tin năm 2016, “thông tin là tin, dữ liệu được chứa đựng trong văn bản, hồ sơ, tài liệu có sẵn, tồn tại dưới dạng bản viết, bản in, bản điện tử, tranh, ảnh, bản vẽ, băng, đĩa, bản ghi hình, ghi âm hoặc các dạng khác do CQNN tạo ra”.
Có thể thấy, các khái niệm, quan điểm về thông tin rất đa dạng. Nguyên nhân của việc này là bởi thông tin, với đặc điểm trừu tượng và vô hình, được nhìn nhận dưới nhiều góc nhìn khác nhau trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Vậy thông tin khách hàng của trong HĐNH bao gồm những gì?
Luật các TCTD năm 2010, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (Luật các TCTD) không ghi nhận thông tin khách hàng, tuy nhiên theo hướng dẫn tại Khoản 1 Điều 3 Nghị định số 117/2018/NĐ-CP ngày 11/9/2018 của Chính phủ về việc giữ bí mật, cung cấp thông tin khách hàng của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài (Nghị định số 117/2018/NĐ-CP) thì: “Thông tin khách hàng của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài (sau đây gọi là thông tin khách hàng) là thông tin do khách hàng cung cấp, thông tin phát sinh trong quá trình khách hàng đề nghị hoặc được tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cung ứng các nghiệp vụ ngân hàng, sản phẩm, dịch vụ trong hoạt động được phép, bao gồm thông tin định danh khách hàng và thông tin sau đây: thông tin về tài khoản, thông tin về tiền gửi, thông tin về tài sản gửi, thông tin về giao dịch, thông tin về tổ chức, cá nhân là bên bảo đảm tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và các thông tin có liên quan khác”.
Nghị định số 13/2023/NĐ-CP về Bảo vệ dữ liệu cá nhân tại khoản 3 Điều 2 cũng đã quy định khái niệm thông tin khách hàng của TCTD, CNNHNNg, tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán, các tổ chức được phép khác, theo đó “thông tin khách hàng của TCTD, CNNHNNg, tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán, các tổ chức được phép khác gồm thông tin định danh khách hàng theo quy định của pháp luật, thông tin về tài khoản, thông tin về tiền gửi, thông tin về tài sản gửi, thông tin về giao dịch, thông tin về tổ chức, cá nhân là bên bảo đảm tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng, tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán”. Luận văn: Pháp luật về bảo mật thông tin khách hàng ở NH.
Thông qua các khái niệm trên cho thấy, thông tin khách hàng là những thông tin mà các TCTD có được thông qua hoạt động nghiệp vụ của mình. Từ hoạt động nghề nghiệp của mình, TCTD đã thu thập và nắm giữ rất nhiều thông tin của khách hàng, bao gồm cả thông tin của khách hàng hiện hữu, khách hàng tiềm năng, những người đã từng là khách hàng và cả đối tác của khách hàng.
Cùng với sử phát triển của CNTT và tuyền thông, một khái niệm được sử dụng khá phổ biến và có mối liên hệ nhất định với thông tin khách hàng đó là dữ liệu cá nhân.
Dữ liệu cá nhân được hiểu là “bất kỳ thông tin nào liên quan đến hoặc cho phép xác định một cá nhân nhất định (data subject – chủ thể dữ liệu)”.
Dưới góc độ pháp lý, luật pháp một số nước đã ghi nhận khái niệm này như sau: Theo Điều 4.1 Luật Bảo vệ Dữ liệu châu Âu năm 2016 (General Data Protection Regulation – GDPR), “dữ liệu cá nhân là bất kỳ thông tin nào liên quan đến một chủ thể dữ liệu (data subject) đã được nhận định danh tính, hoặc có thể được nhận định danh tính, dù trực tiếp hay gián tiếp, cụ thể là bằng cách chỉ ra một định danh như tên, số định danh, dữ liệu vị trí, định danh trên mạng, hay một hoặc nhiều yếu tố chỉ định danh tính của một cá nhân mang tính vật lý, sinh lý, sinh thực, tâm lý, kinh tế, văn hoá, hoặc xã hội”.
Ở Việt Nam, “khái niệm dữ liệu cá nhân được hiểu là: thông tin dưới dạng ký hiệu, chữ viết, chữ số, hình ảnh, âm thanh hoặc dạng tương tự trên môi trường điện tử gắn liền với một con người cụ thể hoặc giúp xác định một con người cụ thể. Dữ liệu cá nhân bao gồm dữ liệu cá nhân cơ bản và dữ liệu cá nhân nhạy cảm. Trong đó, dữ liệu cơ bản bao gồm những thông tin như: nơi sinh, nơi đăng ký khai sinh, nơi thường trú, nơi tạm trú, nơi ở hiện tại, quê quán, địa chỉ liên hệ;…hình ảnh của cá nhân; số điện thoại,… số định danh cá nhân, số hộ chiếu, số giấy phép lái xe, số biển số xe, số mã số thuế cá nhân, số bảo hiểm xã hội, số thẻ bảo hiểm y tế; thông tin về tài khoản số của cá nhân; dữ liệu cá nhân phản ánh hoạt động, lịch sử hoạt động trên không gian mạng. Dữ liệu cá nhân nhạy cảm là những dữ liệu cá nhân có liên quan đến nguồn gốc chủng tộc, nguồn gốc dân tộc; quan điểm chính trị, quan điểm tôn giáo;… Ngoài ra, dữ liệu cá nhân trong nhóm này còn bao gồm các thông tin về thuộc tính vật lý, đặc điểm sinh học riêng của cá nhân; các thông tin về tình trạng sức khỏe và đời tư được ghi trong hồ sơ bệnh án; thông tin về đời sống tình dục hoặc khuynh hướng tình dục; thông tin khách hàng của TCTD, CNNHNNg, tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán, các tổ chức được phép khác”. Luận văn: Pháp luật về bảo mật thông tin khách hàng ở NH.
Có thể nhận thấy, cách tiếp cận của Việt Nam đối với khái niệm dữ liệu cá nhân đã có sự thay đổi cho phù hợp với các quy định chung của quốc tế cũng như thực tiễn của thời đại kinh tế số. Về cơ bản, khái niệm này đã phản ánh sự tham khảo quy định chung được thừa nhận phổ quát trên thế giới.
Đồng thời, thông qua phân tích trên, có thể thấy, thông tin khách hàng và dữ liệu cá nhân có những điểm giao nhau dù mục đích điều chỉnh có sự khác nhau. Song, so với dữ liệu cá nhân, thông tin khách hàng trong HĐNH của các TCTD có những điểm khác biệt, có thể nhận diện những khác biệt đó thông qua các đặc điểm sau đây.
Thứ nhất, thông tin khách hàng của các TCTD là những thông tin được hình thành trong quá trình TCTD tiến hành các hoạt động kinh doanh của mình. Thông qua quá trình này, TCTD đã thu thập và lưu giữ nhiều thông tin, đó có thể lả các thông tin do khách hàng cung cấp, thông tin phát sinh trong quá trình khách hàng sử dụng dịch vụ của các TCTD. Ngoài ra, thông tin khách hàng cũng có thể là những thông tin mà TCTD thu thập được từ các nguồn khác như từ các công ty thông tin tín dụng, nghiên cứu các thông cáo báo chí của khách hàng,…nhằm phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình.
Thứ hai, nội dung thông tin khách hàng rất phong phú, đa dạng bao gồm cả những thông tin riêng tư cá nhân và gần như toàn bộ các thông tin liên quan đến tình trạng tài chính và hoạt động kinh doanh của khách hàng, kể cả những bí mật kinh doanh khác của khách hàng như “họ và tên, mẫu chữ ký, chữ ký điện tử, ngày, tháng, năm sinh, quốc tịch, nghề nghiệp, địa chỉ nơi đăng ký thường trú…..tên tài khoản, số hiệu tài khoản, số dư tài khoản, thông tin liên quan đến giao dịch nộp tiền, rút tiền, chuyển tiền, nhận tiền của khách hàng… chứng từ giao dịch, thời điểm giao dịch, số lượng giao dịch, giá trị giao dịch, số dư giao dịch và các thông tin có liên quan khác……”.
Thứ ba, thông tin của khách hàng do TCTD lưu giữ rất quan trọng đối với từng tồ chức và cá nhân khách hàng. Trong kinh doanh, ai nắm được thông tin nhanh chóng và chuẩn xác hơn sẽ có lợi thế dẫn dắt “cuộc chơi”, kịp thời điều chỉnh kế hoạch và sẵn sàng trước mọi thay đổi và là vũ khí lợi hại để đối thủ cạnh tranh trong kinh doanh khai thác. Đối với cá nhân, việc lộ bí mất thông tin cá nhân sẽ khiến họ đối mặt với vô số các nguy cơ, ảnh hưởng lớn đến cuộc sống, công việc của họ.
Tóm lại, có thể nhận thấy, do tính chất,vai trò quan trọng của thông tin khách hàng mà TCTD bên cạnh việc tăng cường cung ứng các dịch vụ đa dạng, tiện lợi, còn phải có nghĩa vụ BMTT khách hàng.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của bảo mật thông tin khách hàng trong hoạt động ngân hàng Luận văn: Pháp luật về bảo mật thông tin khách hàng ở NH.
Theo từ điển Chữ Nôm Việt Nam, “bảo mật là một động từ với ý nghĩa là không tiết lộ bí mật là một tính từ với nghĩa là được giữ kín không để lộ ra cho người ngoài biết hoặc là một danh từ với ý nghĩa là điều cần giữ bí mật hoặc điều khó hiểu chưa ai biết”. Như vậy, có thể hiểu bảo mật thông tin khách hàng là nghĩa vụ của TCTD trong việc giữ kín, không được tiết lộ cho người khác về “thông tin do khách hàng cung cấp, thông tin phát sinh trong quá trình khách hàng đề nghị hoặc được TCTD, CNNNNNg cung ứng các nghiệp vụ ngân hàng, sản phẩm, dịch vụ trong hoạt động được phép, trừ những trường hợp được pháp luật quy định”. Thông qua khái niệm trên, có thể nhận thấy, BMTT khách hàng trong HĐNH có một số đặc điểm dưới đây:
Thứ nhất, BMTT khách hàng là nghĩa vụ phát sinh từ hoạt động cung ứng dịch vụ cho khách hàng. Bảo đảm bí mật thông tin của khách hàng mà mình đang sở hữu, không để bên thứ ba (không thuộc phạm vi luật định) tiếp cận các thông tin này. TCDT không thể thu phí khách hàng từ việc bảo vệ bí mật thông tin của họ.
Thứ hai, các thông tin của khách hàng cần được TCTD bảo mật rất đa dạng, không chỉ hàm chứa trong nội dung thông tin mà còn bao hàm cả sự khẳng định có hay không (có hay không số dư trên tài khoản, tồn tại hay không các giao dịch thương mại giữa khách hàng với các đối tác của khách hàng…).
Tuy nhiên các thông tin mà TCTD có nghĩa phải bảo đảm bí mật không phải là toàn bộ các thông tin của khách hàng, Luật các TCTD và các VBQPPL hướng dẫn liên quan có quy định: “TCTD, CNNHNNg phải bảo đảm bí mật thông tin liên quan đến tài khoản, tiền gửi, tài sản gửi và các giao dịch của khách hàng tại TCTD, CNNHNNg”. “TCTD, CNNHNNg không được cung cấp thông tin xác thực khách hàng khi truy cập các dịch vụ ngân hàng bao gồm mã khóa bí mật, dữ liệu sinh trắc học, mật khẩu truy cập của khách hàng, thông tin xác thực khách hàng khác cho bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào, trừ trường hợp được sự chấp thuận của khách hàng đó bằng văn bản hoặc bằng hình thức khác theo thỏa thuận với khách hàng đó”.
Thứ ba, BMTT khách hàng là nghĩa vụ luật định, do vậy các bí mật thông tin khách hàng không thể được chuyển giao trên cơ sở thỏa thuận và hoàn trả bằng tiền. Các thông tin liên quan đến khách hàng chỉ được cung cấp theo “đúng mục đích, nội dung, phạm vi, thẩm quyền theo quy định của pháp luật hoặc khi được sự chấp thuận của khách hàng” mà hoàn toàn không có sự thỏa thuận và bồi hoàn ngang giá. Luận văn: Pháp luật về bảo mật thông tin khách hàng ở NH.
1.1.3. Cơ sở pháp lý của bảo mật thông tin khách hàng trong hoạt động ngân hàng
Theo tác giả Nguyễn Thị Kim Thoa, BMTT khách hàng trong HĐNH có thể phát sinh từ nhiều cơ sở pháp lý khác nhau:
- “Thứ nhất, BMTT của khách hàng trong HĐNH có thể phát sinh từ nguyên tắc bảo vệ quyền con người và quyền riêng tư cá nhân được ghi nhận trong Hiến pháp, luật chuyên ngành.
- Thứ hai, BMTT của khách hàng trong HĐNH có thể phát sinh từ nghĩa vụ bảo đảm bí mật nghề nghiệp.
- Thứ ba, BMTT của khách hàng trong HĐNH có thể phát sinh từ nghĩa vụ hợp đồng giữa ngân hàng và khách hàng”.
Tác giả luận văn nhận thấy rằng việc khẳng đinh và làm rõ các cơ sở của việc BMTT khách hàng trong HĐNH của tác giả Nguyễn Thị Kim Thoa là có cơ sở khoa học và khá xác đáng. Cụ thể:
Điều 21 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình. Thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình được pháp luật bảo đảm an toàn. Mọi người có quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác. Không ai được bóc mở, kiểm soát, thu giữ trái luật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư của người khác”.
Trên cơ sở quy định của Hiến pháp, Bộ luật Dân sự và các VBQPPL có liên quan đã xây dựng, định hướng hoặc cụ thể hóa nghĩa vụ này trong những quy định cụ thể sau đây:
BLDS năm 2015 đã ghi nhận một số nghĩa vụ chung về BMTT như: “đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ…Các bên trong hợp đồng không được tiết lộ thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình của nhau mà mình đã biết được trong quá trình xác lập, thực hiện hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác” (Điều 38 BLDS năm 2015) hoặc trong “nguyên tắc thiện chí và hợp tác, tôn trọng lợi ích của nhau trong giao dịch dân sự, thương mại” (Khoản 3 Điều 3 BLDS năm 2015).
Ngoài ra, vấn đề BMTT cũng được đề cập trong các quy định về giao kết hợp đồng, cung ứng dịch vụ. Cụ thể: “Điều 387 BLDS năm 2015 về thông tin trong giao kết hợp đồng: Trường hợp một bên nhận được thông tin bí mật của bên kia trong quá trình giao kết hợp đồng thì có trách nhiệm BMTT và không được sử dụng thông tin đó cho mục đích riêng của mình hoặc cho mục đích trái pháp luật khác. Nếu vi phạm, gây thiệt hại thì phải bồi thường”. Hoặc “Điều 517 BLDS năm 2015 cũng có quy định về nghĩa vụ của bên cung ứng dịch vụ: Giữ bí mật thông tin mà mình biết được trong thời gian thực hiện công việc, nếu có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định. Nếu tiết lộ bí mật thông tin của bên sử dụng dịch vụ thì phải bồi thường”. Ngoài ra, “Điều 565 BLDS năm 2015 cũng có quy định về nghĩa vụ của bên được ủy quyền: Giữ bí mật thông tin mà mình biết được trong khi thực hiện việc ủy quyền”. Luận văn: Pháp luật về bảo mật thông tin khách hàng ở NH.
Đây là các quy định tạo nền tảng cho việc ban hành các QPPL điều chỉnh hoạt động BMTT đối với các loại chủ thể, trong từng lĩnh vực khác nhau của đời sống kinh tế – xã hội, trong đó có BMTT khách hàng trong HĐNH. Trong lĩnh vực HĐNH, Luật các TCTD, Luật NHNNVN và các VBQPPL có liên quan đã cụ thể hóa các quy định này như sau: “nghĩa vụ BMTT của khách hàng được quy định như sau: TCTD, CNNHNNg phải bảo đảm bí mật thông tin liên quan đến tài khoản, tiền gửi, tài sản gửi và các giao dịch của khách hàng tại TCTD, CNNHNNg; không được cung cấp thông tin này cho tổ chức, cá nhân khác, trừ trường hợp có yêu cầu của CQNN có thẩm quyền theo quy định của pháp luật hoặc được sự chấp thuận của khách hàng” (Khoản 2, 3 Điều 14 Luật các TCTD). “TCTD, CNNHNNg có trách nhiệm từ chối việc điều tra, phong tỏa, cầm giữ, trích chuyển tiền gửi của khách hàng, trừ trường hợp có yêu cầu của CQNN có thẩm quyền theo quy định của pháp luật hoặc được sự chấp thuận của khách hàng” (Khoản 3 Điều 10 Luật các TCTD). Bên cạnh đó, pháp luật cũng ghi nhận nghĩa vụ của các chủ thể có thẩm quyền tương ứng: “cán bộ, công chức NHNN có nghĩa vụ giữ bí mật thông tin hoạt động nghiệp vụ của NHNN, của các TCTD và bí mật tiền gửi của tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật” ( Khoản 3 Điều 38 Luật NHNNVN năm 2010). “Nhân viên, người quản lý, người điều hành TCTD, CNNHNNg” (Khoản 2 Điều 14 Luật các TCTD), các TCTD khác có nghĩa vụ BMTT khách hàng tại các TCTD, CNNHNNg.
Như vậy, theo quy định của pháp luật Việt Nam, BMTT khách hàng là nghĩa vụ buộc các TCTD phải triệt để tuân thủ. TCTD không được để cho thông tin liên quan đến “tài khoản, tiền gửi, tài sản gửi và các giao dịch của khách, các thông tin xác thực khách hàng như mã khóa bí mật, dữ liệu sinh trắc học, mật khẩu truy cập của khách hàng, thông tin xác thực khách hàng khác” cho chủ thể khác tự do tiếp cận, khai thác nếu những thông tin có được này là do khách hàng cung cấp hoặc thông tin phát sinh trong quá trình giao dịch, cung ứng các nghiệp vụ ngân hàng, sản phẩm, dịch vụ cho khách hàng của mình.
1.2. Khái luận thực thi pháp luật về bảo mật thông tin khách hàng trong hoạt động ngân hàng Luận văn: Pháp luật về bảo mật thông tin khách hàng ở NH.
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm thực thi pháp luật về bảo mật thông tin khách hàng
Thực thi pháp luật được hiểu chung nhất là hoạt động thực hiện và thi hành pháp luật. Theo nghĩa hẹp, thực thi pháp luật chỉ là hoạt động của riêng cơ quan quản lý nhà nước trong việc áp dụng, thi hành pháp luật. Nhưng cách hiểu đó là phiến diện và chưa đầy đủ vì pháp luật là chuẩn mực chung và bất cứ ai trong xã hội đều phải tuân theo. Vì vậy, thực thi pháp luật phải là hoạt động thực hiện và tuân theo pháp luật của tất cả mọi người. Đây là hoạt động chuyển hóa quy định pháp luật được ghi nhận trong các VBQPPL (luật trên giấy, trong trạng thái tĩnh, chứa đựng các quy tắc xử sự cần thiết theo ý định của người ban hành pháp luật) thành các hành vi pháp lý cụ thể của tổ chức, cá nhân là đối tượng chịu tác động của văn bản pháp luật đó.
Thực thi pháp luật luôn mang tính hệ thống, gắn liền với quyền, nghĩa vụ của chủ thể pháp luật cũng như các công cụ, biện pháp, trong đó quan trọng nhất là hệ thống chế tài, các công cụ hỗ trợ triển khai quy định pháp luật vào thực tiễn đời sống. Tính hệ thống của thực thi pháp luật được thể hiện ở chỗ, thực thi pháp luật không thể là các hành vi pháp lý đơn lẻ của các chủ thể pháp luật mà luôn được triển khai trong mối tương quan với nhà nước (trực tiếp hoặc gián tiếp) nhằm đạt được các mục tiêu đề ra khi ban hành pháp luật. Về bản chất, thực thi pháp luật luôn là các hành vi hợp pháp của chủ thể – đối tượng chịu sự tác động của VBQPPL và của các CQNN có thẩm quyền nhằm hỗ trợ các chủ thể trong việc hiểu và vận dụng quy định pháp luật đối với hoàn cảnh, tình huống của mình. Thực thi pháp luật được nhìn nhận là toàn bộ hành vi của các chủ thể có tính hệ thống, tính mục đích nhằm triển khai các quy định pháp luật vào thực tiễn đời sống thông qua việc tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật, sử dụng pháp luật, áp dụng pháp luật. Nói cách khác, “thực thi pháp luật được nhìn nhận không chỉ bao gồm các phương thức thực hiện hành vi – là quá trình triển khai các quy định pháp luật vào thực tiễn đời sống thông qua việc tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật, sử dụng pháp luật, áp dụng pháp luật mà còn bao hàm cả nội dung về chủ thể và biện pháp bảo đảm thực thi pháp luật”.
Như vậy, “thực thi pháp luật về BMTT khách hàng trong HĐNH là tổng thể các hành vi hợp pháp, có mục đích của các chủ thể có liên quan đến hoạt động BMTT khách hàng trong HĐNH để cụ thể hóa quy định pháp luật về BMTT khách hàng vào thực tiễn HĐNH nhằm bảo vệ quyền lợi của khách hàng, tăng cường trách nhiệm của TCTD; tạo cơ chế giám sát thực thi pháp luật về BMTT khách hàng của các chủ thể có liên quan theo luật định trong việc BMTT của khách hàng”.
Theo cách hiểu này, thực thi pháp luật về BMTT khách hàng trong HĐNH có các đặc điểm sau:
- Thứ nhất, về chủ thể thực thi. Luận văn: Pháp luật về bảo mật thông tin khách hàng ở NH.
Thực thi pháp luật về BMTT của khách hàng không chỉ là hành vi pháp lý đơn lẻ của TCTD – chủ thể trực tiếp nắm giữ bí mật thông tin của khách hàng, mà luôn được triển khai trong mối quan hệ tương quan giữa NHNN – với tư cách là chủ thể thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, HĐNH và các CQNN khác có liên quan trong quá trình thực hiện nghĩa vụ giữ bí mật thông tin của khách hàng và của cả khách hàng, nhằm bảo đảm rằng các thông tin bí mật của khách hàng chỉ được tiếp cận với những người có thẩm quyền tương ứng, đồng thời ngăn chặn và chống lại người thứ ba tiết lộ thông tin bí mật của khách hàng.
- Thứ hai, hình thức thực thi
Đây là quá trình triển khai các QPPL về BMTT của khách hàng vào thực tiễn đời sống thông qua các hành vi pháp lý: tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật, sử dụng pháp luật, áp dụng pháp luật.
- Thứ ba, nội dung thực thi
Chủ thể thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, HĐNH; TCTD; khách hàng và các chủ thể có liên quan phải thực hiện những quyền và nghĩa vụ theo luật định nhằm bảo đảm thực hiện hiệu quả việc BMTT liên quan đến khách hàng trong quá trình nhận tiền gửi, cấp tín dụng và cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản.
- Thứ tư, hậu quả pháp lý của việc không thực thi hoặc thực thi không phù hợp với quy định pháp luật
Các chủ thể trong QHPL về BMTT khách hàng nếu không thực hiện các nghĩa vụ theo theo cam kết hoặc theo luật định sẽ phải gánh chịu những trách nhiệm pháp lý nhất định.
1.2.2. Nội dung thực thi pháp luật về bảo mật thông tin khách hàng trong hoạt động ngân hàng Luận văn: Pháp luật về bảo mật thông tin khách hàng ở NH.
- Chủ thể thực thi pháp luật về bảo mật thông tin của khách hàng
Một là, thực thi pháp luật về bảo mật thông tin khách hàng của cơ quan quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng
Nhận thức rõ vai trò quan trọng của hoạt động BMTT khách hàng trong sự phát triển của các TCTD và của nền kinh tế, cơ quan quản lý nhà nước về tiền tệ và HĐNH đã không ngừng “chi tiết điều, khoản, điểm được giao trong luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước, nghị định của Chính phủ, quyết định của Thủ tướng Chính phủ” (Khoản 1 Điều 24 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2020); đồng thời “thực hiện quyền thanh tra, giám sát các TCTD nhằm góp phần bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của hệ thống các TCTD và hệ thống tài chính; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền và khách hàng của TCTD; duy trì và nâng cao lòng tin của công chúng đối với hệ thống các TCTD; bảo đảm việc chấp hành chính sách, pháp luật về tiền tệ và ngân hàng; góp phần nâng cao hiệu quả và hiệu lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng” (Điều 50 Luật NHNNVN năm 2010).
Bên cạnh đó, “cán bộ, công chức NHNN – với tư cách là chủ thể có liên quan trong quá trình thực hiện hoạt động quản lý nghiệp vụ của mình phải giữ bí mật thông tin hoạt động nghiệp vụ của NHNN, của các TCTD và bí mật tiền gửi của tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật” (Khoản 3 Điều 38 Luật NHNNVN năm 2010). Việc thực thi nghĩa vụ BMTT khách hàng của chủ thể này được thực hiện thông qua việc tuân thủ các nghĩa vụ pháp lý liên quan đến BMTT của khách hàng đã được quy định trong pháp luật ngân hàng, đồng thời phải chịu trách nhiệm về các hành vi pháp lý do mình thực hiện.
- Hai là, thực thi pháp luật về bảo mật thông tin khách hàng của TCTD
Khi khách hàng thực hiện các giao dịch với các TCTD thì nhân viên, người quản lý, người điều hành TCTD, CNNHNNg sẽ sở hữu nhiều thông tin quan trọng về khách hàng. Do đó, thực thi pháp luật BMTT khách hàng của chủ thể này cũng được thể hiện ở việc thi hành (chấp hành), tuân thủ các quy định pháp luật ngân hàng về bảo mật. Nghĩa là, các chủ thể này khi thực hiện nhiệm vụ của mình, phải kiềm chế, không hành động, thỏa thuận trái pháp luật; không thực hiện những điều mà pháp luật nghiêm cấm; việc thực hiện luôn phải tự giác, kiềm chế thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật về bảo mật.
Ngoài ra, các TCTD thông qua hoạt động chấp hành pháp luật, tích cực thực hiện các quy định pháp luật bằng việc cụ thể hóa hoặc quy định các văn bản nội bộ như cẩm nang tín dụng hoặc sổ tay tín dụng; quy định nghĩa vụ bảo mật này trong các hợp đồng hoặc cam kết với khách hàng trong các hợp đồng mẫu phù hợp với quy định của pháp luật để thực thi pháp luật BMTT của khách hàng. Luận văn: Pháp luật về bảo mật thông tin khách hàng ở NH.
- Ba là thực thi pháp luật về bảo mật thông tin khách hàng đối với chủ thể thứ ba có liên quan
Trong quá trình HĐNH, ngoài TCTD nắm giữ thông tin bí mật của khách hàng con có các chủ thể khác vì những lý do khác nhau như: “được pháp luật cho phép quyền yêu cầu cung cấp thông tin hoặc được sự chấp thuận của khách hàng” (Khoản 3 Điều 14 Luật các TCTD); “được khách hàng ủy quyền; do hoạt động nghề nghiệp…. cũng có được các thông tin của khách hàng”. Các chủ thể này có thể là các tổ chức kiểm toán và kiểm toán viên thực hiện kiểm toán độc lập (Khoản 1 Điều 42 Luật các TCTD); “các cá nhân được chủ tài khoản ủy quyền được quyền yêu cầu cung cấp thông tin trong phạm vi ủy quyền; Tổng giám đốc tổ chức bảo hiểm tiền gửi khi tổ chức này thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình; CQNN được quyền yêu cầu cung cấp thông tin để thực hiện nhiệm vụ trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, thừa phát lại” (Khoản 1 Điều 4 Thông tư liên tịch số 03/2014/TTLT-BTP-NHNNVN ngày 17/1/2014 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp và Thống đốc NHNNVN hướng dẫn việc xác minh điều kiện thi hành án của Thừa phát lại tại các tổ chức tín dụng) và những chủ thể khác được quy định tại Điều 10 Nghị định số 117/2018/NĐ-CP – nhóm chủ thể thứ ba này cũng phải thực thi nghĩa vụ BMTT khách hàng thông qua việc chấp hành nghĩa vụ BMTT mà mình biết được trong hoạt động nghiệp vụ của mình, thực hiện những công việc do chủ thể sở hữu thông tin ủy quyền. Nghĩa là các chủ thể bằng hành vi tích cực, chủ động của mình thực hiện các nghĩa vụ pháp lý theo quy định của pháp luật. Chẳng hạn, chấp hành pháp luật về trình tự, thủ tục yêu cầu cung cấp thông tin và phải tích cực, tự giác thực hiện những nghĩa vụ mà mình theo thỏa thuận hoặc luật định.
- Bốn là, thực thi pháp luật về bảo mật thông tin đối với khách hàng của các tổ chức tín dụng
“Khách hàng thực thi pháp luật BMTT của mình thông qua việc sử dụng quyền công bố hoặc chia sẻ các thông tin hoặc thỏa thuận những thông tin cần được giữ bí mật; Bên cạnh đó, chủ thể này còn có thể sử dụng quyền khiếu nại, khởi kiện khi các TCTD vi phạm quyền được BMTT của mình; đồng thời khách hàng cũng phải thực hiện các nghĩa vụ, các thỏa thuận trong việc giữ bí mật thông tin của chính mình. Đây là nội dung cũng có tác động đến hiệu quả thực thi nghĩa vụ BMTT của khách hàng, bởi lẽ bản thân khách hàng khi giao dịch với các TCTD cũng phải thực thi nghĩa vụ BMTT liên quan đến tiền gửi, giao dịch của mình, đồng thời khách hàng phải thận trọng hơn trong việc sử dụng quyền của mình liên quan đến việc cung cấp thông tin bí mật cho chủ thể được ủy quyền thực hiện các giao dịch với các TCTD; khách hàng phải có ý thức chủ động giữ bí mật thông tin của mình”.
Tóm lại, thực thi pháp luật về BMTT khách hàng là một hoạt động phức hợp do nhiều chủ thể thực hiện với những hình thức thực hiện khác nhau nhằm bảo đảm cho thông tin khách hàng được bảo mật tốt nhất và phù hợp với các quy định của pháp luật.
- Biện pháp thực thi pháp luật về bảo mật thông tin của khách hàng
Biện pháp thực thi pháp luật về BMTT khách hàng là các cách thức, thủ tục mà các chủ thể liên quan phải thực hiện nhằm bảo đảm thực thi hiệu quả pháp luật BMTT khách hàng trong HĐNH trên thực tế. Biện pháp này có thể gồm:
- Ban hành các quy định thống nhất để điều chỉnh nghĩa vụ BMTT khách hàng trong HĐNH.
Đây là biện pháp có ý nghĩa tạo một cơ sở pháp lý thống nhất để tránh tình trạng xung đột các QPPL về BMTT khách hành trong HĐNH ở nhiều văn bản. Luận văn: Pháp luật về bảo mật thông tin khách hàng ở NH.
Việc quy định cách thức thực thi pháp luật BMTT khách hàng phải có sự kết hợp với quyền và lợi ích của các chủ thể khác trong xã hội. Vì thế, trong việc quy định nội dung, những quy định về hạn chế quyền phải phù hợp, cân xứng và rõ ràng.
- Quy định các biện pháp thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực thi pháp luật về BMTT khách hàng.
Hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát là hoạt động xem xét, đánh giá việc thực hiện pháp luật về BMTT khách hàng, phát hiện những hạn chế, thiếu sót trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị các biện pháp khắc phục. Đây là các biện pháp góp phần ngăn ngừa, phát hiện và kịp thời xử lý các vi phạm nghĩa vụ bảo mật, bảo đảm cho các TCTD thực hiện quy định pháp luật về BMTT khách hành một cách nghiêm túc.
- Quy định các biện pháp mang tính chất khuyến khích chủ thể trực tiếp nắm giữ thông tin khách hàng thực thi tốt nghĩa vụ của mình.
Việc ban hành các quy định nội bộ nhằm cụ thể hóa các quy định pháp luật về BMTT khách hàng sẽ giúp TCTD, nhân viên các tổ chức này thực thi tốt nghĩa vụ của mình. Vì thế, ngoài các quy định mang tính định hướng, các nhà lập pháp cũng cần quy định các biện pháp khuyến khích để các TCTD quy định thêm hoặc cụ thể hóa các quy định pháp luật nhằm thực thi hiệu quả các quy định của pháp luật liên quan đến hoạt động này.
- Quy định thủ tục khiếu nại, khởi kiện liên quan đến hành vi vi phạm pháp luật BMTT khách hàng.
Một khi thông tin của khách hàng bị rò rỉ sẽ kéo theo nhiều hệ lụy, chính vì vậy việc thiết lập một cơ chế khiếu nại, khởi kiện để bảo đảm quyền được BMTT khách hàng trên thực tế là cần thiết; đồng thời việc minh định về thủ tục khiếu nại, khởi kiện sẽ tạo ra một cơ chế để kiểm tra, theo dõi các chủ thể có nghĩa vụ BMTT khách hàng, buộc các chủ thể đó phải thực thi nghĩa vụ của mình theo luật định.
- Quy định các biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế cũng như chế tài xử lý hành vi vi phạm pháp luật BMTT khách hàng.
Việc quy định các biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế cũng như chế tài xử lý vi phạm là một trong những cách thức bảo đảm thực hiện các quy định pháp luật về BMTT khách hàng mang tính răn đe, trừng phạt đối với người vi phạm. Việc áp dụng các biện pháp này góp phần ngăn ngừa, hạn chế tình trạng vi phạm nghĩa vụ BMTT gây tổn hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của khách hàng và sự an toàn của HĐNH. Luận văn: Pháp luật về bảo mật thông tin khách hàng ở NH.
1.3. Sự cần thiết phải bảo mật thông tin khách hàng trong hoạt động ngân hàng
Bảo mật thông tin khách hàng trong HĐNH là một vấn đề rất phức tạp, song hết sức cần thiết vì:
Một là, đối với khách hàng
- Bảo vệ thông tin, dữ liệu liên quan đến cá nhân
Khi khách hàng mở một tài khoản tại TCTD, TCTD bắt đầu thu thập thông tin liên quan đến khách hàng để kiểm tra thông tin định danh và các giao dịch của khách hàng theo yêu cầu “nhận biết khách hàng”. Nếu thông tin này không được bảo vệ, khách hàng sẽ dễ bị “tổn thương” nếu xảy ra hành vi vi phạm, điều này càng nguy hiểm khi khoa học công nghệ và thông tin ngày càng phát triển vượt bật.
- Giữ trạng thái riêng tư về tài chính
Các thông tin riêng tư về tài chính như số dư từ tài khoản, giao dịch của khách hàng có thể phản ánh mức độ giàu có của khách hàng. Sự giàu có cũng có thể mang lại sự chú ý từ những người khác, những người mong muốn người đó chia sẻ tài chính với họ hoặc quyên góp cho một tổ chức từ thiện hoặc mục đích khác. Do đó, khách hàng luôn mong muốn giữ bí mật những thông tin này. Bên cạnh đó, việc giữ bí mật những thông tin này cũng có nhiều ý nghĩa trong việc ngăn ngừa các tranh chấp xảy ra giữa các thành viên trong gia đình họ.
- Bảo vệ thông tin nhạy cảm về thương mại
Để duy trì lợi thế cạnh tranh thì việc giữ bí mật thông tin doanh nghiệp (thông tin khác như doanh số hoạt động, kết quả kinh doanh của khách hàng, các dữ liệu, số liệu có giá trị khác…) là một chiến lược quan trọng trong kinh doanh. Việc các thông tin này bị rò rỉ có thể dẫn đến những nguy hiểm từ đối thủ cạnh tranh.
Như vậy, có thể nhận thấy, thực hiện tốt nghĩa vụ BMTT khách hàng sẽ giúp các chủ thể kinh doanh cạnh tranh lành mạnh, bảo đảm được lợi ích chính đáng của khách hàng, từ đó góp phần đảm bảo trật tự và thúc đẩy xã hội phát triển.
- Hai là, đối với các tổ chức tín dụng Luận văn: Pháp luật về bảo mật thông tin khách hàng ở NH.
Với TCTD, việc giữ khách hàng là điều quan trọng nhất cho sự tồn tại của TCTD, trong đó tạo sự tin tưởng của khách hàng là tiêu chí tối quan trọng. Bảo mật được thông tin khách hàng sẽ giúp các TCTD được đạt các mục đích sau:
- Khuyến khích tiền gửi ngân hàng
TCTD “sống được” là vì được khách hàng tin tưởng, nếu TCTD thực hiện tốt nghĩa vụ BMTT khách hàng sẽ khuyến khích mọi người gửi tiền, từ đó ngăn cản việc tích trữ tiền cá nhân. Ngược lại, nếu thông tin về khách hàng và giao dịch của họ bị rò rỉ, điều này có thể khuyến khích họ giữ tiền ở nhà hoặc thậm chí có thể chuyển sang các khoản đầu tư tài chính thay thế. Song, việc khách hàng tích trữ cá nhân sẽ ảnh hưởng đến cả TCTD và tác động tiêu cực đến nền kinh tế.
- Thúc đẩy hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng
Các TCTD không thể hoạt động hiệu quả nếu không có thông tin đầy đủ về khách hàng, những thông tin này được sử dụng ở nhiều khía cạnh trong hoạt động kinh doanh của các TCDT. Chẳng hạn, giúp đánh giá chính xác khách hàng, đánh giá các mức độ rủi ro và cân nhắc khi cung ứng các sản phẩm, dịch vụ của mình hoặc thực hiện các hoạt động quảng bá, tiếp thị các sản phẩm, dịch vụ mới sau này.
- Ba là, đối với nền kinh tế
Bảo mật thông tin khách hàng sẽ tạo được lòng tin của khách hàng, từ đó có thể làm gia tăng các giao dịch tại các TCTD, khi đó TCTD sẽ có lượng vốn dồi dào để cấp tín dụng, tận dụng được nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư thúc đẩy phát triển kinh tế. Đồng thời, các chủ thể kinh doanh, khi có lòng tin vào TCTD, sẽ tăng cường sử dụng các dịch vụ của ngân hàng, tận dụng được nguồn vốn do TCTD cấp tín dụng, tiến hành các hoạt động sản xuất, tạo ra việc làm cho người lạo động, tạo ra của cải vật chất, góp phần ổn định và phát triển nền kinh tế.
Tóm lại, việc BMTT khách hàng đem nhiều lợi ích cho các bên tham gia QHPL này. Do vậy, BMTT khách hàng trong HĐNH của các TCTD là một nghĩa vụ hết sức cần thiết mà TCTD, các chủ thể tham gia QHPL này phải triệt để tuân thủ.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 Luận văn: Pháp luật về bảo mật thông tin khách hàng ở NH.
Thông qua các phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp luật học so sánh, tại chương 1 tác giả đã làm rõ những vấn đề lý luận về BMTT khách hàng trong HĐNH. Các kết quả nghiên cứu cụ thể sau đây:
Thứ nhất, làm rõ thông tin khách hàng trong HĐNH, có sự phân tích, so sánh với dữ liệu cá nhân.
Thứ hai, làm rõ nội hàm của BMTT khách hàng, cơ sở pháp lý làm phát sinh BMTT khách hàng trong HĐNH. Từ các quy định nền tảng đó, tác giả đã phân tích QPPL chuyên ngành để làm sáng tỏ nghĩa vụ của các chủ thể tham gia QHPL này.
Thứ ba, làm rõ nội dung thực thi pháp luật (xác định từng chủ thể, hình thức thực thi pháp luật của các chủ thể này); xác định các biện pháp, sự cần thiết phải bảo đảm thực thi thực thi pháp luật BMTT khách hàng trong HĐNH.
Những phân tích và nhận định trên sẽ là nền tảng để tác giả tiếp tục phân tích thực tiễn thực thi pháp luật về BMTT khách hàng trong HĐNH, từ đó đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật pháp luật về BMTT khách hàng trong HĐNH tại chương 2 và chương 3 của luận văn. Luận văn: Pháp luật về bảo mật thông tin khách hàng ở NH.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Luận văn: Thực tiễn PL về bảo mật thông tin của khách hàng NH

Dịch Vụ Viết Luận Văn Ngành Luật 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://vietluanvanluat.com/ – Hoặc Gmail: vietluanvanluat@gmail.com


 
					
Pingback: Luận văn: Hoàn thiện PL về bảo mật thông tin của khách hàng NH