Luận văn: Pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm hay nhất năm 2025 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thạc sĩ thì với đề tài Luận văn: Pháp luật Việt Nam về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm khoa học tại các trường đại học dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.

TÓM TẮT LUẬN VĂN

Tiêu đề: Pháp luật Việt Nam về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm khoa học tại các trường Đại học.

Tóm tắt: Tại Việt Nam, Luật Sở hữu trí tuệ được ra đời năm 2005, sửa đổi bổ sung qua các năm 2009, năm 2019 và gần nhất là năm 2022 đã bảo đảm thúc đẩy phát triển khoa học công nghệ, văn học – nghệ thuật và hỗ trợ cho việc phát triển kinh tế – xã hội mà không bị xâm phạm đến Quyền tác giả (QTG). Luận văn phân tích rõ các quy định pháp luật về bảo hộ QTG, cũng như trong thực tế hoạt động thực thi pháp luật về bảo hộ QTG đối với các tác phẩm khoa học tại các cơ sở giáo dục, trường đại học. Qua đó, tác giả đề xuất xây dựng quy chế bảo hộ QTG đối với tác phẩm khoa học hiệu quả tại các trường đại học nói riêng, cũng như có một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về bảo hộ QTG và hài hòa với lợi ích và nhu cầu của xã hội.

Trong chương 1, tác giả đã trình bày những lý luận chung về bảo hộ QTG đối với tác phẩm khoa học tại trường Đại học ở Việt Nam và quy định của một số quốc gia trên thế giới về bảo hộ quyền tác giả. Cũng trong chương 1, tác giả đã trình bày những quy định của pháp luật Việt Nam về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm khoa học tại các trường đại học

Trong chương 2, thông qua đánh giá thực tiễn thực thi pháp luật Việt Nam về bảo hộ quyền tác giả, tác giả đưa ra những định hướng, giải pháp, kiến nghị giúp hoàn thiện khung pháp luật đối với QTG và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về bảo hộ đối với tác phẩm nghiên cứu khoa học tại các trường đại học.

Từ khoá: Quyền tác giả, Luật Sở hữu trí tuệ, Nghiên cứu khoa học. Tác phẩm khoa học

ABSTRACT

Subject: Vietnamese law on protection of copyright for scientific works at universities

Abstract: In Vietnam, the Intellectual Property Law was established in 2005, with subsequent amendments and supplements in 2009, 2019, and most recently in 2022, ensuring the promotion of scientific and technological development, literature, and the arts, and supporting socio-economic growth without infringing upon the rights of authors. The thesis provides a detailed analysis of legal provisions regarding copyright protection, both in theory and in the practical enforcement of copyright protection for scientific works in educational institutions and universities. In this context, the author proposes the establishment of an effective copyright protection framework specifically for universities. Additionally, the author makes several recommendations aimed at refining Vietnam’s legal framework for copyright protection to harmonize with the interests and needs of society.

Chapter 1 outlines general theories regarding copyright protection for scientific works at the university level and presents the legal provisions concerning copyright protection for scientific works at universities.

Chapter 2 through an assessment of the practical implementation of Vietnam’s laws on copyright protection, the author provides directions, solutions, and recommendations to improve the legal framework for intellectual property rights. The goal is to enhance the effectiveness of applying copyright protection laws to research works at universities.

Keywords: Author’s Rights, Intellectual Property Law, Scientific Research. scientific

MỞ ĐẦU Luận văn: Pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm.

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu

Hiện nay, trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng thì vai trò khoa học công nghệ (KHCN) trong việc phát triển kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia được xem là một trong những ưu tiên hàng đầu. Cùng với sự giao thoa văn hóa cũng như học hỏi công nghệ của nhiều quốc gia trên thế giới, việc tôn trọng và đảm bảo quyền tác giả (QTG) càng được chú trọng bởi đây là một trong những quyền dễ bị xâm phạm trong bối cảnh cách mạng khoa học công nghệ ngày càng đa dạng và hiện đại.

Tại Việt Nam, Luật Sở hữu trí tuệ đã được ban hành từ năm 2005 và đến nay thực thi gần 20 năm, đã có nhiều quy định, sửa đổi bổ sung thể hiện một sự đổi mới đáng kể trong hoạt động tiếp cận với lập pháp quốc tế. Bên cạnh những thành tựu đạt được thì vẫn cần phải nghiên cứu và học tập những kinh nghiệm quốc tế nhằm tạo môi trường pháp lý bảo vệ quyền tác giả của các tác phẩm hiệu quả. Đặc biệt, tại các cơ sở giáo dục ĐH thì vấn đề bảo vệ QTG đang nhận được sự quan tâm của nhiều người bởi đây là nơi hình thành rất nhiều các tác phẩm khoa học đã đầu tư nhiều sáng tạo cũng như đây cũng là môi trường cần thiết để tiếp cận các tài sản trí tuệ. Vì vậy cần có sự quản lý hiệu quả cũng như những biện pháp cụ thể để đảm bảo việc bảo hộ QTG được tốt nhất.

Bảo hộ QTG là một nhân tố quan trọng trong việc khẳng định chất lượng của tác phẩm khoa học (TPKH). Thực trạng xâm phạm QTG trong hoạt động nghiên cứu khoa học (NCKH) là vấn đề không mới nhưng chưa bao giờ mất đi tính thời sự và cũng có những ảnh hưởng nhiều đến chất lượng của TPKH. Bên cạnh đó, QTG chưa được bảo vệ đúng mức làm ảnh hưởng đến quyền lợi, gây tâm lý không muốn thực hiện nghiên cứu, không còn nhiều động lực cho tác giả công trình khoa học, thậm chí người nghiên cứu không muốn công khai các kết quả công trình nghiên cứu của mình do quyền lợi không được đảm bảo. Chính vì vậy đã ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển trình độ khoa học và kinh tế, xã hội của quốc gia.

Nhận thức rõ được vấn đề bảo vệ tài sản trí tuệ, những năm qua tại các cơ sở giáo dục ĐH ở Việt Nam bước đầu đã có những tiến bộ các nhà khoa học trong việc được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) nói chung và QTG nói riêng. Tuy nhiên, tổ chức hoạt động trong lĩnh vực quản lý SHTT tại các trường còn chưa được đồng bộ, thiếu tính hệ thống.Thực tế cho thấy, việc xác định chủ sở hữu quyền tác giả không đơn giản, tuy được quy định tại Điều 41, Điều 42 Luật Khoa học và Công nghệ năm 2018 quy định “ Tổ chức, cá nhân đầu tư tài chính, cơ sở vật chất – kỹ thuật cho việc thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ là chủ sở hữu kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ”, tuy nhiên đối với kết quả nghiên cứu do nhiều người đầu tư tài chính để thực hiện hay kết quả nghiên cứu vừa được bảo hộ theo pháp luật về quyền tác giả, vừa được bảo hộ theo pháp luật về quyền sở hữu công nghiệp. Việc xác định bảo hộ chưa rõ ràng dẫn tới những kết quả nghiên cứu đề tài khoa học công nghệ đã được nghiệm thu nhưng không được đưa vào sử dụng, khai thác nên nhóm nghiên cứu toàn sử dụng hay chuyển giao mà không thông qua chủ sở hữu quyền tác giả. Như vậy, nhà nước tốn một khoản ngân sách hàng năm rất lớn cho nghiên cứu khoa học nhưng thực sự chưa mang lại hiệu quả. Nhằm phát triển hoạt động sáng tạo, thúc đẩy quá trình khai thác, chuyển giao quyền SHTT trong các cơ sở giáo dục ĐH thì các trường cần phải có sự quan tâm hơn nữa. Đó là lý do để tác giả chọn đề tài “Pháp luật Việt Nam về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm khoa học tại các trường đại học” để làm luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Luật Kinh tế.

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu Luận văn: Pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm.

Ở Việt Nam, nhiều công trình nghiên cứu về bảo hộ QTG theo nhiều khía cạnh khác nhau. Trong đó, các công trình NCKH rất đa dạng và phong phú và đã giải quyết khá nhiều vấn đề về bảo hộ QTG đáng kể đến như:

Đề tài nghiên cứu khoa học của tác giả Vũ Thị Hải Yến (2010), “Bảo hộ quyền tác giả và quyền liên quan ở Việt Nam trước yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế”, Trường ĐH Luật Hà Nội. Nội dung đề tài chủ yếu nghiên cứu vấn đề bảo hộ QTG và quyền liên quan tại Việt Nam trước yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Trong đó tác giả đã đánh giá hiện trạng bảo hộ QTG và quyền liên quan tại Việt Nam trước năm 2010 và xác định những hạn chế, thách thức mà Việt Nam phải đối mặt trong việc hội nhập kinh tế quốc tế. Từ đó tác giả cũng đề xuất các giải pháp để cải thiện bảo hộ QTG và quyền liên quan ở Việt Nam.

Luận án tiến sĩ của tác giả Võ Trung Hậu (2020), “ Pháp luật về bảo hộ quyền tác giả trong môi trường internet”, Trường ĐH Kinh tế – Luật. Luận án đã nghiên cứu và hoàn thiện pháp luật Việt Nam về bảo hộ quyền tác giả trong môi trường internet nhằm đạt được sự cân bằng hợp lý giữa quyền của người sáng tạo tác phẩm và quyền tiếp cận tri thức, tận hưởng văn hoá nghệ thuật của người dùng internet. Luận án đã làm rõ nội dung về những vấn đề internet đặt ra đối với bảo hộ quyền tác giả, giải thích quyền sao chép trong môi trường vật chất hữu hình khác biệt so với quyền sao chép trong môi trường Cuối cùng, luận án phân tích sự bất hợp lý của các quy định pháp luật về ngoại lệ quyền tự bảo vệ bằng biện pháp công nghệ nhằm đảm bảo cân bằng giữa lợi ích người sáng tạo và người dùng internet.

Luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn Huy Hoàng (2022), “ Bảo vệ quyền tác giả qua thực tiễn xét xử của tòa án nhân dân ở Việt Nam hiện nay”, Học viện Khoa học Xã hội. Luận án đã nghiên cứu những vấn đề lý luận về bảo vệ quyền tác giả thông qua xét xử tại toà án. Từ đó, đánh giá những vướng mắc, bất cập trong quy định của pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền tác giả thông qua xét xử dân sự tại Tòa án ở Việt Cuối cùng, thông qua những phân tích trên, tác giả đã đưa ra một số định hướng hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền tác giả thông qua xét xử tại Tòa án ở Việt Nam.

Luận văn thạc sĩ của tác giả Phạm Hùng (2012), “Pháp luật về quyền tác giả ở Việt Nam thực trạng và hướng hoàn thiện”, Trường ĐH Kinh tế – Luật. Đề tài nghiên cứu và giải thích về pháp luật về QTG tại Việt Nam. Từ đó, giúp hiểu rõ hơn về những nội dung liên quan đến bản quyền và các khía cạnh cần hoàn thiện. Bằng cách như vậy, có thể giúp cho việc bảo vệ QTG trở nên hiệu quả hơn. Luận văn: Pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm.

Bài báo của tác giả Vũ Thị Hồng Yến (2019) “Quyền tác giả đối với tác phẩm trong môi trường công nghiệp 4.0 tại các cơ sở giáo dục đại học” đăng trên tạp chí nghiên cứu lập pháp số 21 (397), tháng 11/2019 đã phân tích về sự ảnh hưởng mạnh mẽ của cuộc cách mạng 4.0 đến việc bảo vệ QTG nói chung cũng như việc bảo vệ QTG đối với các tác phẩm tại các cơ sở giáo dục ĐH nói riêng. Cụ thể bài viết phân biệt sơ bộ các loại tác phẩm thuộc quyền sở hữu của nhà trường, xác định phạm vi QTG của cơ sở GDĐH với người học; phân tích đánh giá những đặc thù, giới hạn của hành vi trích dẫn, sao chép tác phẩm. Từ đó tránh tình trạng “đạo văn”, đánh giá các hành vi quản trị QTG đối với tác phẩm của nhà trường và cuối cùng bài viết rút ra các bài học cho cơ sở GDĐH trong việc bảo vệ tốt nhất QTG đối với tác phẩm.

Bài viết của tác giả Phạm Thị Thúy Hằng, Nguyễn Thanh Hùng (2018), “Mô hình quản lý sở hữu trí tuệ ở trường ĐH – bài học kinh nghiệm từ ĐH Thanh Hoa, Trung Quốc ”đăng trên Tạp chí KH&GD, số 03(47). Bài viết đã giới thiệu về một số mô hình quản lý SHTT đã mang lại hiệu quả to lớn cho ĐH Thanh Hoa tại Trung Quốc trong việc bảo vệ quyền SHTT, chuyển giao công nghệ và phát triển kinh tế. Thông qua nghiên cứu, học hỏi được cách quản lý tiên tiến của ĐH Thanh Hoa, có thể rút ra nghĩa về lý luận và thực tiễn đối với các trường ĐH tại Việt Nam hiện nay. Từ đó, có những định hướng vận dụng, rút kinh nghiệm phù hợp trong thực tiễn quản lý hoạt động SHTT ở các cơ sở giáo dục ĐH.

Bài viết của tác giả Lê Thị Nam Giang (2016) “ Quyền tác giả trong hoạt động thư viện tại các trường ĐH” đăng trên tạp chí Khoa học pháp lý Việt Bài viết trình bày về QTG trong hoạt động sao chép, số hoá tại TV hiện nay tại các trường ĐH dựa trên những quy định về QTG theo pháp luật Việt Nam và một số nước trên thế giới. Từ đó, tác giả đưa ra những đề xuất hoàn thiện khung pháp lý.

Bài viết của tác giả Phạm Minh Huyền (2021) “Xâm phạm quyền tác giả trong hoạt động học tập, nghiên cứu của người học tại các cơ sở giáo dục ĐH từ thực tiễn trường ĐH Luật Hà Nội và một số giải pháp” đăng trên tạp chí Luật học. Tác giả đã phân tích các hành vi xâm phạm QTG trong hoạt động học tập và nghiên cứu của người học tại trường ĐH Luật Hà Nội, đưa ra một số nguyên nhân dẫn đến việc xâm phạm và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả bảo vệ QTG tại các trường ĐH trên cả nước nói chung và trường ĐH Luật Hà Nội nói riêng.

Những công trình, bài viết trên đã nghiên cứu và giải quyết việc bảo hộ QTG cho tất cả các tài sản trí tuệ chung và chỉ phản ảnh một số khía cạnh như bàn về cách khai thác, sử dụng, trích dẫn tác phẩm hay vai trò của thư viện, một bộ phận không thể thiếu trong môi trường giáo dục ĐH mà chưa đi sâu vào phân tích, nghiên cứu, đánh giá vai trò của trường học trong bảo hộ QTG. Trong luận văn này, tác giả muốn đi sâu vào nghiên cứu những quy định của pháp luật về bảo hộ QTG đối với TPKH tại các trường ĐH thông qua thực tiễn áp dụng pháp luật. Trên cơ sở đó đề xuất một số ý kiến nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật về bảo hộ QTG nhằm bảo vệ tốt hơn quyền lợi cho chủ sở hữu QTG trong môi trường giáo dục và hạn chế những tranh chấp phát sinh liên quan đến QTG. Luận văn: Pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm.

3. Mục tiêu nghiên cứu

3.1. Mục tiêu tổng quát

Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn bảo hộ quyền tác giả đối với TPKH tại các trường ĐH ở Việt Nam nhằm đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật về bảo hộ quyền tác giả.

3.2. Mục tiêu cụ thể

Để đạt được mục tiêu tổng quát nêu trên, tác giả đặt ra các nghiên cứu cụ thể sau đây:

  • Thứ nhất: Làm sáng tỏ lý luận chung về bảo hộ quyền tác giả đối với TPKH tại các trường ĐH, đồng thời nêu lên những quy định pháp luật về QTG của một số quốc gia trên thế giới
  • Thứ hai: Phân tích, đánh giá những quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam hiện hành về bảo hộ Qua đó, tác giả đánh giá thực trạng thực thi bảo hộ QTG đối với TPKH tại các trường ĐH.
  • Cuối cùng: Luận văn đưa ra một số kiến nghị và đề xuất các giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về bảo hộ QTG đối với TPKH tại các trường ĐH ở Việt Nam hiện nay.

4. Câu hỏi nghiên cứu

  • Một là, quyền SHTT đóng vai trò gì trong nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ tại các cơ sở giáo dục?
  • Hai là, chủ thể nào được bảo hộ QTG đối với TPKH?
  • Ba là, quy định của pháp luật Việt Nam trong việc bảo hộ QTG đối với TPKH tại các trường ĐH hiện nay như thế nào?
  • Bốn là, thực trạng thực hiện quy định pháp luật Việt Nam về bảo hộ QTG đối với TPKH tại các trường ĐH như thế nào?
  • Năm , làm thế nào để bảo hộ QTG trong các tác phẩm NCKH tại các trường ĐH?

5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Luận văn: Pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm.

5.1. Đối tượng nghiên cứu

Trong luận văn chủ yếu tác giả nghiên cứu, phân tích, đánh giá các quy phạm pháp luật về bảo hộ QTG đối với TPKH dựa trên những quy định của pháp luật Việt Nam. Luận văn làm rõ những đặc thù về quyền tác giả, cơ chế bảo hộ quyền tác giả đối với các TPKH trong trường ĐH là tác phẩm giáo trình, các loại sách chuyên khảo, công trình nghiên cứu khoa học, luận văn, luận án.

5.2. Phạm vi nghiên cứu

Về mặt nội dung: trong khuôn khổ của Luận văn thạc sĩ, tác giả giới hạn phạm vi nghiên cứu ở các nội dung cụ thể sau:

Đối với phần lý luận, tác giả nghiên cứu phân tích, tổng hợp và đưa ra các quan điểm lý luận về bảo hộ QTG đối với TPKH, đồng thời nêu những quy định pháp luật về QTG của một số quốc gia trên thế giới như Hoa Kỳ, Vương Quốc Anh, Nhật Bản để làm kinh nghiệm cho Việt Nam học hỏi.

Đối với phần thực trạng pháp luật, tác giả tập trung bình luận, đánh giá các quy định cơ bản nhất của pháp luật về QTG đối với TPKH theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay ở các trường ĐH.

Về không gian: Luận văn giới hạn đánh giá thực trạng pháp luật thông qua thực tiễn bảo hộ QTG đối với các TPKH tại một số trường ĐH ở Việt Nam từ khi Luật SHTT có hiệu lực.

6. Phương pháp nghiên cứu

Để đạt được mục tiêu và nội dung, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu linh hoạt, đan xen để phù hợp với bài nghiên cứu nhằm đạt được kết quả cuối cùng gồm:

Chương 1: Sử dụng kết hợp phương pháp phân tích và tổng hợp để làm rõ các vấn đề lý luận pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với TPKH

Chương 2: Sử dụng phương pháp thu thập tài liệu, phương pháp hệ thống hóa nhằm kế thừa và tổng hợp các kết quả nghiên cứu đã công bố nhằm đánh giá thực trạng xâm phạm quyền tác giả tại một số trường ĐH tại Việt Nam. Từ đó, áp dụng phương pháp phân tích đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật Việt Nam về bảo hộ quyền tác giả đối với TPKH tại các trường ĐH. Luận văn: Pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm.

7. Nội dung nghiên cứu

  • Luận văn gồm các nội dung sau:

Chương 1: Tác giả nghiên cứu lý luận chung thông qua việc khái quát về khái niệm, đặc điểm về bảo hộ QTG đối với TPKH. Bên cạnh đó, luận văn đã phân tích quy định Pháp luật về bảo hộ QTG đối với TPKH tại một số nước trên thế giới như Hoa Kỳ, Vương Quốc Anh, Nhật Bản và quy định của pháp luật Việt Nam về bảo hộ QTG đối với TPKH tại các trường ĐH.

Chương 2: Thông qua việc phân tích pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật, luận văn đã đánh giá một số ưu điểm, hạn chế về bảo hộ QTG đối với TPKH tại các trường ĐH ở Việt Nam hiện Từ đó, đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật.

8. Đóng góp của đề tài

Ý nghĩa khoa học: nghiên cứu đã góp phần hoàn thiện lý luận và thực trạng trong việc xây dựng, hoàn thiện pháp luật bảo hộ QTG đối với TPKH trong các trường ĐH hiện nay. Luận văn có thể là nguồn tham khảo cần thiết và đáng tin cậy đối với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong hoạt động ban hành, sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật về lĩnh vực này.

Đồng thời, luận văn còn có thể là tài liệu tham khảo hữu ích trong công tác giảng dạy và học tập môn học Luật Sở hữu trí tuệ tại các cơ sở đào tạo cũng như trong hoạt động tuyên truyền về ý thức đối với tác phẩm NCKH cũng như việc tuân thủ pháp luật về quyền SHTT.

Về ý nghĩa thực tiễn: luận văn cũng sẽ là tài liệu hữu ích, phục vụ cho công tác hiện nay của tác giả và đồng nghiệp. Bên cạnh đó, các giải pháp mà tác giả đưa ra có thể được các cơ quan, tổ chức và cá nhân có thẩm quyền tham khảo và ứng dụng vào thực tiễn.

9. Bố cục Luận văn

Luận văn được thực hiện với ba nội dung chính như sau:

  • Chương 1: Lý luận chung về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm khoa học tại các trường đại học.
  • Chương 2: Thực tiễn thực hiện và kiến nghị nâng cao hiệu quả bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm khoa học tại các trường đại học Luận văn: Pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm.

CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM KHOA HỌC TẠI CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC

1.1. Khái quát chung về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm khoa học tại các trường đại học

1.1.1. Khái niệm. đặc điểm của quyền tác giả đối với tác phẩm khoa học tại các trường đại học

  • Khái niệm quyền tác giả đối với tác phẩm khoa học tại các trường đại học
  • Khái niệm khoa học, nghiên cứu khoa học

Khoa học được hiểu là một quá trình thực hiện nghiên cứu nhằm tìm kiếm và sáng tạo ra những phát kiến mới, kiến thức mới, định lý mới về tự nhiên, xã hội. Tại Điều 40 Hiến pháp năm 2013 quy định “ Mọi người đều có quyền nghiên cứu khoa học và công nghệ, sáng tạo văn học, nghệ thuật và thụ hưởng lợi ích từ các hoạt động đó”. Đặc biệt, trong môi trường giáo dục đại học thì nghiên cứu khoa học trở thành một nhiệm vụ quan trọng bởi hoạt động này gắn kết chặt chẽ với quá trình đào tạo.

Tại các trường ĐH thì hoạt động nghiên cứu khoa học được quản lý bởi đơn vị chủ quản của trường và trường ĐH đó. “Sứ mệnh của một trường ĐH là tạo ra, quảng bá và chuyển giao tri thức cho xã hội. Nếu một trường ĐH mà không có hoạt động nghiên cứu sẽ không hoàn thành được nhiệm vụ của mình, trở thành một trường “dạy nghề” hay nôm na là “trường phổ thông cấp bốn”. Chủ trương của nhiều trường ĐH là phát triển NCKH, tuy nhiên hoạt động NCKH cũng có sự kiểm tra, giám sát các hoạt động NCKH bởi các công trình NCKH phải cần nguồn tài chính để thực hiện. Mỗi đề tài nghiên cứu khoa học ở các cấp khác nhau thì cũng có chất lượng khác nhau, và nguồn tài chính cung cấp cho các đề tài nghiên cứu khoa học cũng ở các cấp khác nhau.

Hiện nay, có nhiều quan niệm về định nghĩa hoạt động nghiên cứu khoa học. Theo Luật Khoa học Công nghệ năm 2013 quy định như sau: “Nghiên cứu khoa học là hoạt động khám phá, phát hiện, tìm hiểu bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư duy; sáng tạo giải pháp nhằm ứng dụng được vào trong thực tiễn. Theo Vũ Cao Đàm thì NCKH là một hoạt động tìm kiếm, phát hiện bản chất sự vật, phát triển nhận thức khoa học về thế giới hoặc là sáng tạo phương pháp mới và phương tiện kỹ thuật mới để làm biến đối sự vật phục vụ cho mục tiêu hoạt động của con người. Theo tác giả Nguyễn Ngọc Hùng và Nguyễn Trường Giang thì nghiên cứu khoa học là quá trình khám phá, phát hiện, nhận thức và phản ánh những thuộc tính bản chất của sự vật, hiện tượng trong thực tại theo mục đích của con người. Ngoài ra, có thể hiểu hoạt động nghiên cứu khoa học là tiến trình khám phá ra các thuộc tính bản chất của sự vật hiện tượng, định hướng vào các vấn đề của hiện thực khách quan nhằm thỏa mãn nhu cầu nhận thức và khám phá thế giới. Luận văn: Pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm.

  • Các loại hình nghiên cứu khoa học bao gồm hai loại hình là nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng.

Nghiên cứu cơ bản là hoạt động nghiên cứu được thực hiện nhằm phát hiện bản chất và quy luật của các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội, tư duy nhờ đó làm thay đổi nhận thức của con người.

Nghiên cứu ứng dụng là sự là sự vận dụng quy luật được phát hiện từ nghiên cứu cơ bản để giải thích một sự vật hoặc tạo ra những nguyên lý mới về các giải pháp. Nếu kết quả của nghiên cứu ứng dụng và triển khai thuộc lĩnh vực khoa học xã hội thì nó được xem như một TPKH và được bảo hộ theo pháp luật QTG, nhưng nếu kết quả nghiên cứu được triển khai thực nghiệm thuộc lĩnh vực công nghệ thì ngoài việc bản viết của chúng là TPKH được bảo hộ theo pháp luật QTG thì sản phẩm của các tác phẩm này còn được bảo hộ theo pháp luật sở hữu công nghiệp.

Mặc khác, khi thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học thì bảo hộ QTG đóng vai trò hết sức quan trọng bởi nhà khoa học cần phải có lợi ích từ hoạt động nghiên cứu và công nghệ do mình tạo ra. Tình trạng vi phạm QTG gây ra tâm lý chán nản, mất động lực cho người nghiên cứu và ảnh hưởng đến việc phát triển công nghệ, kinh tế – xã hội nói chung và tại các trường ĐH nói riêng. Các chuyên gia của tổ chức SHTT thế giới (WIPO) đã đưa ra nhận định rằng khi bảo hộ tốt các quyền thuộc SHTT thì sẽ giúp phát triển kinh tế, tạo ra của cải chưa được sử dụng với hiệu quả tối ưu tại tất cả các nước, đặc biệt là các nước đang phát triển.

Tóm lại, hoạt động nghiên cứu khoa học có thể được hiểu là sự vận dụng trí tuệ, lao động sáng tạo để tìm ra các phương pháp mới hay phát minh ra tri thức mới của con người. Hoạt động nghiên cứu khoa học sẽ tạo ra các TPKH có giá trị cho việc phát triển công nghệ, kinh tế – xã hội, do đó, pháp luật của các quốc gia nói chung và pháp luật Việt Nam nói riêng đã có những quy định nhằm điều chỉnh về lĩnh vực này.

  • Khái niệm quyền tác giả đối với tác phẩm khoa học tại các trường đại học

Quyền tác giả là một bộ phận của quyền SHTT (Intellectual Property Rights). QTG có được từ kết quả của hoạt động sáng tạo, hoạt động NCKH trong nhiều lĩnh vực khác nhau như: kiến trúc, hội hoạ, âm nhạc, khoa học. Trong hoạt động NCKH tại các cơ sở giáo dục ĐH thì tôn trọng QTG là một trong những yêu cầu cơ bản khi các TPKH đã nghiệm thu và được công bố. Việc bảo vệ và thực thi QTG không chỉ đáp ứng các quy định của pháp luật mà còn đáp ứng được những yêu cầu từ thông lệ quốc tế trong quá trình hội nhập và còn bảo vệ được quyền lợi, động viên các cá nhân sáng tạo, tạo ra các giá trị lợi ích cho tác giả, đơn vị chủ quản nói riêng và kinh tế xã hội cho đất nước nói chung. Luận văn: Pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm.

Theo tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) thì QTG “Quyền tác giả là một thuật ngữ pháp lý chỉ quyền của người sáng tác đối với tác phẩm văn học và nghệ thuật của họ”. Như vậy, QTG đem đến cho người sáng tạo, chủ sở hữu những TPKH các quyền pháp lý nhằm ngăn chặn hoặc cho phép những người khác sử dụng các tác phẩm sáng tạo của họ trong một khoảng thời gian được quy định. Nếu ai đó vi phạm QTG thì tác giả hoặc chủ sở hữu QTG có thể khởi kiện ra Tòa án đề yêu cầu người vi phạm thực hiện trách nhiệm bồi thường, qua đó bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Với nhu cầu quan hệ kinh tế và thương mại với các nước tổ chức thương mại thế giới, quan hệ trong khu vực, Việt Nam đã xây dựng một hệ thống bảo hộ quyền SHTT để đáp ứng nhu cầu hội nhập thế giới. Kể từ việc Chính phủ ban hành các Nghị định điều chỉnh từng nhóm đối tượng riêng của quyền SHTT vào năm 1995, Bộ Luật Dân sự đầu tiên của Việt Nam được ban hành về quyền SHTT và quy định về QTG là Điều 745 đến Điều 779. Sau đó vào năm 2005, để đáp ứng kịp thời yêu cầu phát triển đất nước và hội nhập quốc tế thì Luật SHTT năm 2005 được ban hành. Cùng với việc ban hành Luật SHTT, các văn bản quy phạm dưới luật cũng được quy định kịp thời để hướng dẫn chi tiết việc thực hiện các quy định của pháp luật, từ đó khuyến khích mọi người tham gia vào lĩnh vực văn hoá, nghệ thuật, khoa học kỹ thuật. Theo pháp luật Việt Nam thì QTG được hiểu “Quyền tác giả là quyền của các cá nhân, tổ chức đối với các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học do họ sáng tạo ra hoặc là chủ sở hữu”. Như vậy, có thể thấy khái niệm về QTG mà pháp luật Việt Nam đưa ra khá tương đồng, qua đó thấy được sự tuân thủ pháp luật quốc tế của Việt Nam trong lĩnh vực SHTT. QTG được pháp luật Việt Nam ghi nhận gồm quyền nhân thân và quyền tài sản, chủ sở hữu QTG cũng như các nghĩa vụ khi các chủ thể khác muốn sử dụng hay khai thác tác phẩm. Khái niệm này đã đưa ra được tiêu chí để xác định chủ thể được xem là có QTG vì chủ thể đó phải trực tiếp tạo ra tác phẩm hoặc có quyền sở hữu đối với tác phẩm đó. Như vậy, căn cứ vào những quy định của Luật SHTT về QTG và các quyền liên quan thì được xác định rằng:

  • Thứ nhất, QTG là tổng hợp các quy phạm pháp luật quy định về quyền của người đã trực tiếp sáng tạo ra TPKH, được hưởng các quyền nhân thân và quyền tài sản từ kết quả sáng tạo đó và quyền tự ngăn chặn hoặc yêu cầu toà án bảo vệ khi có các hành vi xâm phạm đến QTG.
  • Thứ hai, QTG có thể được hiểu theo nghĩa chủ quan là quyền dân sự của tác giả và tác giả có quyền chiếm hữu, sử dụng tác phẩm theo ý chí của mình trong phạm vi luật định.

TPKH là một loại hình tác phẩm được bảo hộ QTG theo pháp luật SHTT. Pháp luật về QTG là cơ sở pháp lý nhằm bảo vệ quyền nhân thân, quyền tài sản của tác giả, quyền của CSH tác phẩm, tạo điều kiện cho mọi người tích cực sáng tạo ra tác phẩm, công trình khoa học có chất lượng cao phục vụ cho sự nghiệp giáo dục và phát triển khoa học – kỹ thuật, công nghệ của đất nước. QTG còn được hiểu là “Quyền cho phép tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả được độc quyền khai thác tác phẩm chống lại việc sao chép bất hợp pháp” . Khái niệm này còn chung chung khi chỉ đưa ra quyền sao chép mà một trong các quyền mà tác giả hay chủ sở hữu QTG được bảo hộ. Luận văn: Pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm.

Từ một số phân được trình bày ở trên có thể hiểu QTG đối với TPKH là quyền pháp lý của chủ thể đối với các tác phẩm khoa học do mình sáng tạo ra.

  • Đặc điểm quyền tác giả đối với tác phẩm khoa học tại các trường đại học
  • Một là, QTG bảo hộ hình thức thể hiện của TPKH, không bảo hộ nội dung, ý tưởng sáng tạo.

Tác phẩm khoa học phải được thể hiện dưới dạng hình thức vật chất mà con người có thể tiếp cận được. Theo quy định của pháp luật “Tác phẩm văn học, khoa học, sách giáo khoa, giáo trình và tác phẩm khác được thể hiện dưới dạng chữ viết hoặc ký tự khác”. TPKH phải được thể hiện dưới một hoặc sự kết hợp các hình thức như từ ngữ, hình ảnh, âm thanh, chữ viết, màu sắc và được định hình trên giấy, trên các chất liệu tương tự, trên các thiết bị phương tiện kỹ thuật số,…Các TPKH tuy có cùng nội dung nhưng có sự sáng tạo trong hình thức thể hiện đều được bảo hộ pháp lý. Ví dụ, cùng một nội dung môn học về pháp luật đại cương thì không được bảo hộ nhưng khi giáo trình môn pháp luật đại cương được viết ra, thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định thì được bảo hộ. Do vậy, cùng một nội dung nhưng sẽ có rất nhiều sách giáo trình của các cá nhân, tập thể được viết ra và được bảo hộ QTG.

  • Hai là, QTG được bảo hộ không phụ thuộc và nội dung và giá trị của tác phẩm đó

TPKH được tác giả sáng tạo ra bằng lao động trí tuệ của mình sẽ được bảo hộ mà không dựa trên sự đánh giá tác phẩm đó đẹp hay xấu, có giá trị hay không có giá trị, đơn giản hay phức tạp. Đối với các TPKH tại trường ĐH như khóa luận tốt nghiệp, luận văn, luận án dù tác phẩm có số điểm cao hay điểm thấp thì đều được bảo hộ QTG. Tuy nhiên, theo pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam và một số nước trên thế giới thì có một số kết quả lao động sáng tạo như văn bản pháp luật, bản án của toà, tin tức thời sự,… không được bảo hộ QTG. Bên cạnh đó, những nội dung thể hiện trong tác phẩm đi ngược lại lợi ích dân tộc, bôi nhọ vĩ nhân, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác, có nội dung trái pháp luật, đạo đức xã hội, ảnh hưởng trật tự xã hội, an ninh quốc gia,… cũng sẽ không được bảo hộ. Đây là các yêu cầu và giới hạn mà TPKH phải tuân thủ để đảm bảo rằng không gây ảnh hưởng tiêu cực đến xã hội, trật tự. Có nghĩa là bảo hộ QTG đối với TPKH không phân biệt nội dung chứ không phải tất cả nội dung đều được bảo hộ.

  • Ba là, QTG phát sinh một cách tự động từ khi tác phẩm được sáng tạo

Giống như QTG đối với các loại tác phẩm văn học, nghệ thuật khác thì QTG đối với TPKH được phát sinh một cách mặc nhiên từ thời điểm tác phẩm đó được thể hiện dưới hình thức nhất định QTG phát sinh kể từ khi tác phẩm được sáng tạo và được thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định, không phân biệt nội dung, chất lượng, hình thức…, không phụ thuộc vào việc tác giả đã công bố hay chưa công bố, đã đăng ký hay chưa đăng ký. Như vậy, pháp luật về QTG không quy định bắt buộc đối với các tác giả nghĩa vụ đăng kí và nộp đơn yêu cầu bảo hộ QTG, bởi quyền này tự động phát sinh khi ý tưởng, của tác giả đã được thể hiện dưới hình thức nhất định – tác phẩm. Việc đăng kí QTG không phải là căn cứ làm phát sinh QTG, mà chỉ có giá trị là chứng cứ chứng minh của đương sự khi có tranh chấp về QTG và một bên khởi kiện tại tòa án nhân dân hoặc yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết.

  • Bốn là, TPKH được bảo hộ QTG phải có tính nguyên gốc

TPKH phải là một sản phẩm sáng tạo, ở đây là sản phẩm trí tuệ của con người. Tác giả phải tự mình sáng tạo ra, có dấu ấn cá nhân của tác giả thông qua quá trình hoạt động nghiên cứu của bản thân mà không được sao chép từ các tác phẩm khác. Tính nguyên gốc của bản viết TPKH thể hiện thông qua cách tác giả sắp xếp nội dung, cách sử dụng ngôn từ để biểu đạt ý tưởng, thông điệp mà tác giả muốn truyền tải đến mọi người. Tính nguyên gốc không loại trừ khả năng kế thừa của một tác phẩm khác. Ví dụ tại các trường ĐH, sinh viên sẽ thực hiện nghiên cứu khoa học cùng một chủ đề về “quyền tác giả” nhưng cách thể hiện tác phẩm của mỗi người nghiên cứu là khác nhau thì đều được công nhận là tác giả. Đối với những tác phẩm sáng tạo mà do trí tuệ nhân tạo tự sáng tác ra thì không được bảo hộ QTG mặc dù là một sản phẩm trí tuệ.

1.1.2. Khái niệm, đặc điểm bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm khoa học tại các trường đại học Luận văn: Pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm.

  • Khái niệm về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm khoa học tại các trường đại học

Bảo hộ QTG đối với TPKH đem lại sự bù đắp vật chất cho người nghiên cứu nhằm khuyến khích các hoạt động sáng tạo tại các trường ĐH. Bảo hộ QTG đối với TPKH sẽ đảm bảo khả năng khai thác các tác phẩm từ đó khuyến khích tác giả đưa sản phẩm do mình sáng tạo lưu hành trong công chúng.

Theo Hiệp định TRIPS tại Điều 3 và Điều 4 thì khái niệm “bảo hộ” được giải thích như sau “ Bảo hộ phải bao gồm các vấn đề ảnh hưởng đến khả năng đạt được, việc đạt được, phạm vi, việc duy trì hiệu lực và việc thực thi các quyền SHTT được quy định trong hiệp định”. Như vậy, theo Hiệp định TRIPS thì bảo hộ là bao gồm tất cả các hoạt động mà nhà nước thực hiện nhằm công nhận, bảo hộ và quản lý đối với các quyền SHTT nói chung và QTG nói riêng. Từ việc xác lập, công nhận quyền, đảm bảo thực hiện, khai thác quyền và bảo vệ nhằm chống lại các hành vi xâm phạm. Theo từ điển Luật học thì “Bảo hộ QTG là tổng hợp các chế định pháp lý nhằm bảo hộ bằng pháp luật quyền và lợi ích hợp pháp của tác giả, chủ sở hữu tác phẩm đối với toàn bộ hoặc một phần tác phẩm văn học nghệ thuật, khoa học”. Theo tác giả Nguyễn Huy Hoàng thì “Bảo hộ QTG là hoạt động của các cơ quan nhà nước, chủ thể quyền tác giả và các chủ thể liên quan sử dụng các biện pháp được pháp luật công nhận để phát hiện, ngăn chặn và xử lý các hành vi xâm phạm quyền tác giả”.

Như vậy, bảo hộ QTG đối với các tác phẩm nghiên cứu khoa học là việc các cơ quan có thẩm quyền của nhà nước đảm bảo ghi nhận QTG, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người tạo ra các TPKH hay chủ sở hữu QTG tránh các hành vi xâm phạm làm tổn thất lợi ích bởi người khác. Hoạt động bảo hộ QTG đối với TPKH tại các trường ĐH phải dựa trên những căn cứ pháp lý và phải tuân thủ các trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Bảo hộ được QTG sẽ tạo ra sự cân bằng lợi ích giữa một bên là những cá nhân, tổ chức đầu tư công sức, trí tuệ, vật chất để tạo ra các TPKH tại các trường ĐH và một bên là người thụ hưởng thành quả sáng tạo. Luận văn: Pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm.

Tóm lại, thông qua các quy định của pháp luật, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định cá nhân, tổ chức là tác giả hay chủ sở hữu QTG đối với các TPKH tại các trường ĐH và từ đó có các cơ chế bảo hộ quyền đối với họ khi có các hành vi được xem là xâm phạm QTG. Qua việc này, sẽ mang lại lợi ích chung giữa người thực hiện công việc nghiên cứu và lợi ích chung của xã hội.

  • Đặc điểm về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm khoa học tại các trường đại học

Khác với các loại tài sản mang tính chất hữu hình khác thì TPKH mang tính chất vô hình. Do đó, có một số đặc điểm của bảo hộ QTG đối với TPKH tại các trường ĐH như sau:

Thứ nhất, chủ thể bảo hộ QTG là sự bảo hộ dành cho tác giả và chủ sở hữu QTG hoặc người có quyền sử dụng tác phẩm thông qua hợp đồng. Cụ thể là tác giả, trường ĐH hay các cơ quan, doanh nghiệp đã tổ chức và đầu tư kinh phí để tác giả thực hiện nghiên cứu khoa học. Như vậy, giảng viên là tác giả, còn chủ sở hữu thuộc về nhà trường hoặc các doanh nghiệp đã đầu tư kinh phí thông qua hợp đồng để có quyền sở hữu tác phẩm nghiên cứu.

Thứ hai, đối tượng bảo hộ QTG là bảo hộ quyền sở hữu đối với một tài sản vô hình được tạo ra từ hoạt động sáng tạo trí tuệ thông qua việc nghiên cứu khoa học. Hiện nay, khi mạng internet phát triển mạnh mẽ thì các TPKH tại các trường ĐH mang lại giá trị thương mại rất lớn, dẫn đến các TPKH dễ bị các chủ thể khác xâm phạm, chiếm đoạt.

Thứ ba, theo phạm vi bảo hộ QTG. Một đặc điểm nổi bật của bảo hộ quyền SHTT chính là “tính quốc gia, lãnh thổ”. Việc bảo hộ QTG trong phạm vi biên giới và theo pháp luật của mỗi quốc gia. QTG được bảo hộ theo pháp luật quốc gia, nơi tác phẩm được công bố lần đầu tiên hoặc đăng ký bảo hộ. Ví dụ như các tác phẩm được hình thành trên lãnh thổ Việt Nam sẽ được bảo hộ trên lãnh thổ đất nước Việt Nam và tại các quốc gia tham gia điều ước quốc tế về bảo hộ QTG mà Việt Nam là thành viên (Công ước Berne, Hiệp định TRIPs,….).

Thứ tư, bảo hộ QTG đối với TPKH tại các trường ĐH đề cao ý thức phòng ngừa, mang tính giáo dục. Trong môi trường giáo dục, hành vi xâm phạm QTG chủ yếu xuất phát từ nhu cầu học tập, nghiên cứu của giảng viên, sinh viên. Do đó, các biện pháp bảo vệ QTG tại các trường ĐH thường chủ yếu mang tính giáo dục, tác động đến nhận thức của mỗi cá nhân. Trong môi trường giáo dục ĐH cần có những hướng dẫn cụ thể để người học có nhận thức đúng đắn về QTG cũng như rèn luyện các kỹ năng trong học tập, giảng dạy, nghiên cứu. Luận văn: Pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm.

1.1.3. Ý nghĩa của việc bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm khoa học tại các trường đại học

Việc bảo hộ QTG đối với tác phẩm khoa học tại các trường ĐH góp phần phát triển khoa học – công nghệ và kinh tế của đất nước, nâng cao năng lực cạnh tranh của Việt Nam trên thế giới. Các doanh nghiệp hiện nay, không ngừng đầu tư tài chính nhằm tìm kiếm các giải pháp, công nghệ cao nhằm tối ưu hoá lợi nhuận, nâng cao lợi thế cạnh tranh trên thị trường. Thông qua các trường ĐH là nơi có rất nhiều nhà khoa học, có đủ kiến thức để thực hiện nghiên cứu nhằm tạo ra các sản phẩm công nghệ hoặc quy trình nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, tối ưu hoá quy trình sản xuất, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường.

  • Thứ nhất, bảo hộ QTG đối với TPKH giúp bảo vệ lợi ích kinh tế của tác giả.

Khi tác giả có quyền sở hữu và kiểm soát tác phẩm của mình, họ có thể sử dụng tác phẩm đó để tạo ra thu nhập, từ các nguồn như bản quyền, quyền sử dụng, bán tác phẩm hoặc tạo ra sản phẩm mới từ tác phẩm đó. Việc đảm bảo quyền SHTT và bảo hộ QTG sẽ giúp tác giả có khả năng bảo vệ lợi ích kinh tế của mình và tạo động lực để tiếp tục sáng tạo. Bên cạnh đó, việc bảo hộ QTG sẽ khuyến khích các tác giả và nhà nghiên cứu tiếp tục sáng tạo và NCKH. Khi tác giả được đảm bảo QSH và kiểm soát tác phẩm của mình, họ sẽ có động lực từ lợi ích kinh tế để tiếp tục sáng tạo và nghiên cứu. Điều này sẽ dẫn đến sự phát triển của các lĩnh vực KH&CN, cải thiện chất lượng cuộc sống và cung cấp cơ hội kinh doanh mới.

Bảo hộ QTG cũng giúp tôn trọng công lao và nỗ lực của các tác giả. Việc công nhận và bảo vệ QTG sẽ giúp đảm bảo rằng các tác giả nhận được sự đánh giá và đánh giá công bằng cho các tác phẩm của họ, tạo động lực và động viên cho các nhà nghiên cứu và tác giả tiếp tục phát triển và đóng góp cho sự phát triển KH&CN.

  • Thứ hai, bảo hộ QTG sẽ giúp khuyến khích cho đầu tư và hợp tác góp phần vào việc phát triển tri thức.

Việc đảm bảo quyền SHTT và bảo hộ QTG cũng sẽ kích thích cho các nhà đầu tư và tổ chức để đầu tư và hợp tác trong các lĩnh vực nghiên cứu khoa học. Khi quyền SHTT được bảo vệ, các nhà đầu tư sẽ có động lực để đầu tư vào nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới, cũng như các tổ chức sẽ có động lực để phối hợp tham gia NCKH cũng các trường ĐH và viện nghiên cứu trong các dự án nghiên cứu chung. Bên cạnh đó, việc đảm bảo QTG sẽ khuyến khích các nhà nghiên cứu và tác giả tìm kiếm và khai thác nhiều những ý tưởng mới, đột phá trong các lĩnh vực NCKH. Bảo hộ QTG sẽ giúp tác giả tự tin trong việc đưa ra ý tưởng mới và độc đáo, cũng như đảm bảo rằng những ý tưởng này được bảo vệ và giữ bí mật cho đến khi được công bố. Các tác phẩm nghiên cứu khoa học được bảo hộ và công bố hợp pháp sẽ được phổ biến rộng rãi hơn, giúp cho các nhà nghiên cứu và tác giả khác có thể truy cập và sử dụng chúng để phát triển các tác phẩm và nghiên cứu mới.

  • Thứ ba, bảo hộ QTG giả góp phần phát triển kinh tế- xã hội cũng như đáp ứng được nhu cầu tiếp cận tác phẩm của cộng đồng. Luận văn: Pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm.

Sản phẩm từ các kết quả nghiên cứu khoa học là một phần quan trọng của đời sống xã hội. Do đó, việc bảo hộ QTG ngoài việc ưu tiên đảm bảo quyền và lợi ích kinh tế của tác giả, còn phải quy định để cân bằng nhu cầu của xã hội. Khi một tác phẩm được pháp luật bảo hộ QTG thì sẽ phát sinh mối quan hệ về lợi ích giữa tác giả, chủ sở hữu QTG và công chúng. Vì vậy, pháp luật đã đề ra những quy định cụ thể nhằm giải quyết mâu thuẫn nhằm hướng đến sự hài hoà, cân bằng lợi ích giữa các bên. Qua đó, vừa thúc đẩy được hoạt động nghiên cứu khoa học, tạo ra những công nghệ, giải pháp mới và đồng thời cũng tạo điều kiện cho việc khai thác giá trị của tác phẩm nhằm góp phần phát triển kinh tế – xã hội cũng như đáp ứng được nhu cầu tiếp cận tác phẩm của cộng đồng.

Sẽ không thể có tiến bộ khoa học kỹ thuật nếu mọi người không được phép phát triển ý tưởng sáng tạo trên cơ sở phát triển ý tưởng trong tác phẩm của tác giả khác. Do đó, pháp luật về bảo hộ QTG đã có những ngoại lệ cho phép một người được sử dụng tác phẩm mà không cần phải trả tiền thù lao. Mỗi bên sẽ phải hy sinh một phần quyền lợi của mình để hướng tới lợi ích chung lớn hơn, mà sâu xa hơn chính là tạo ra một xã hội phát triển bền vững, công bằng và bình đẳng. Việc giới hạn QTG đem lại ý nghĩa vô cùng quan trọng trong quá trình bảo vệ và khai thác QTG, nhằm hướng tới mục đích bảo vệ lợi ích cho cả hai bên để hướng tới xã hội tri thức. Nhà nước không có cơ chế bảo hộ thích hợp quyền của chủ sở hữu trí tuệ thì không thể khuyến khích sự sáng tạo; tuy nhiên nếu chỉ hướng tới bảo vệ tác giả thì có thể dẫn đến sự lạm dụng độc quyền và ảnh hưởng đến việc tiếp cận tri thức của đông đảo công chúng. Công ước Berne, Hiệp định TRIPS, Hiệp ước WCT cũng cho phép các quốc gia tùy thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội mà xây dựng những quy định về ngoại lệ hoặc giới hạn về QTG. Việc xác định việc khai thác tác phẩm có được xem là hợp lý hay không thì còn phải đánh giá dựa trên các yếu tố như sau:

  • Việc sử dụng tác phẩm phục vụ cho giáo dục phi lợi nhuận;
  • Bản chất của tác phẩm;
  • Ảnh hưởng của việc sử dụng đối với giá trị của tác phẩm có bản quyền. Nghĩa là cân đối lợi nhuận chủ sở hữu QTG sẽ nhận được và lợi ích mà công chúng có được từ việc khai thác tác phẩm;

Mặc dù có những ngoại lệ, QTG vẫn cần tuân thủ nguyên tắc ưu tiên bảo đảm quyền lợi của tác giả, chủ sở hữu QTG, các trường hợp ngoại lệ về quyền khai thác tác phẩm không được đặt cao hơn quyền lợi của tác giả.

1.2. Kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm khoa học. Luận văn: Pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm.

QTG là một trong các đối tượng được bảo hộ theo quy định của pháp luật quyền Sở hữu trí tuệ. Cũng như các lĩnh vực khác của quyền SHTT, QTG bảo hộ các sản phẩm trí tuệ của con người. QTG đã có lịch sử hình thành từ hàng thế kỷ và là tiền đề cho sự ra đời và phát triển của các quyền liên quan. Vào thế kỷ thứ XV, hệ thống pháp luật ở một số quốc gia đã bắt đầu ghi nhận về QTG, tuy nhiên ở giai đoạn này pháp luật chỉ mới ghi nhận quyền sở hữu đối với những vật mang tác phẩm trí tuệ (ví dụ như sách, báo,…) chứ không bảo hộ nội dung chứa đựng trong đó, do đó việc TPKH của một tác giả dễ dàng bị sao chép và thay đổi. Đến giữa thế kỷ XVI, với sự phát triển của phong trào phục hưng thì QTG được chính quyền nhiều nước quan tâm hơn để khuyến khích sự sáng tạo cá nhân, do đó, đặc điểm QTG trong thời kỳ này hướng đến bảo vệ quyền nhân thân của tác giả mà chưa đảm bảo cho tác giả các quyền tài sản đối với tác phẩm trí tuệ. Vào đầu thế kỷ XVIII với sự ra đời của Luật bản quyền ở nước Anh. Sau đó, là một loạt những quy định tương tự được đưa vào đạo luật của các nước như Pháp, Đức, Hoa Kỳ,….Cho đến nay, QTG đã được ghi nhận một cách rộng rãi ở hầu hết các quốc gia trên khắp thế giới. Tiêu biểu như ở các quốc gia sau:

1.2.1. Hoa Kỳ

Hiến pháp của Hoa Kỳ có quy định “ Quốc hội có quyền khuyến khích, thúc đẩy sự phát triển của khoa học và nghệ thuật hữu ích bằng cách đảm bảo trong một thời gian nhất định những quyền đặc biệt cho tác giả và nhà phát minh đối với các tác phẩm và sáng chế của họ”. Trước đó, Hoa Kỳ đã ban hành Đạo luật Bản quyền năm 1909, sau đó năm 1955 khi Ủy ban Cải cách Luật Bản quyền được thành lập để xem xét sửa đổi luật bản quyền. Luật Bản quyền Hoa Kỳ hiện hành (Title 17 of the United States Code) được Quốc hội Hoa Kỳ thông qua vào ngày 19 tháng 10 năm 1976 dưới thời Tổng thống Gerald Ford. Sau hơn 20 năm tham vấn và soạn thảo, dự luật bản quyền mới đã được Quốc hội thông qua vào năm 1976. Luật Bản quyền 1976 được coi là một bước tiến quan trọng, đánh dấu sự thay đổi lớn về chính sách bản quyền của Hoa Kỳ, hướng tới mở rộng quyền và bảo vệ cho các tác giả, nghệ sĩ. Luật có hiệu lực từ ngày 1/1/1978. Kể từ đó đến nay, Luật Bản quyền Hoa Kỳ 1976 đã được sửa đổi nhiều lần để đáp ứng yêu cầu bảo hộ trong bối cảnh phát triển công nghệ số. Tuy nhiên, văn bản luật gốc 1976 vẫn giữ vai trò là nền tảng pháp lý cho hệ thống bản quyền Hoa Kỳ.

Luật Bản quyền Hoa Kỳ (Title 17 of the United States Code) được thông qua năm 1976 quy định các tác phẩm được bảo hộ bản quyền bao gồm: Tác phẩm văn học như sách, tạp chí, báo, thơ, kịch bản; Tác phẩm âm nhạc như bài hát, giai điệu, lời bài hát; Tác phẩm điện ảnh như phim, chương trình truyền hình; Tác phẩm mỹ thuật như tranh vẽ, điêu khắc, nhiếp ảnh; Phần mềm máy tính và cơ sở dữ liệu. Pháp luật về bảo hộ SHTT của Hoa Kỳ không bảo hộ các ý tưởng mà chỉ bảo hộ cách trình bày các ý tưởng đó. Các tác phẩm trên được bảo hộ kể từ khi được thể hiện dưới dạng cụ thể có thể sao chép được. Những tác phẩm không được bảo hộ QTG theo quy định của pháp luật Hoa Kỳ là tin tức sự thật về khoa học, về lịch sử, về sinh học, các tin tức hàng ngày,… bởi theo quan niệm của các nhà lập pháp thì bất kỳ một sự thật nào được tác giả tìm ra trong quá trình nghiên cứu đều thuộc về công chúng, mọi người đều có quyền sử dụng miễn phí. Quan điểm này phù hợp với Công ước Berne là các tin tức và các dữ kiện hỗn hợp không được hưởng quy chế bảo hộ. Luận văn: Pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm.

Nội dung pháp luật về QTG ở Hoa Kỳ quy định QTG nói chung và QTG đối với TPKH nói riêng tách biệt với quyền sở hữu tài sản hữu hình, đó là sự phân biệt giữa quyền tài sản và QTG đối với tác phẩm đó. Theo Văn phòng SHTT Hoa Kỳ thì “bản quyền” là một loại hình bảo hộ được quy định bởi hiến pháp Hoa Kỳ và được pháp luật thừa nhận cho những tác phẩm nguyên gốc của tác giả được định hình dưới một hình thức hữu hình nhất định. QTG bao gồm quyền sao chép, phân phối, biểu diễn tác phẩm. Thời hạn bảo hộ QTG ở Mỹ là trong suốt cuộc đời tác giả cộng thêm 70 năm sau khi tác giả qua đời. Đối với tác phẩm do nhiều tác giả cùng sáng tác thì thời hạn là 70 năm sau khi tác giả cuối cùng qua đời.

Ở Hoa Kỳ thì điều kiện để TPKH được bảo hộ phải thoả mãn những điều kiện cần thiết để được bảo hộ QTG là: Thứ nhất, tác phẩm đó được tạo ra và được thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định; Thứ hai, tác phẩm đó phải là một sáng tạo mới. Như vậy, tác phẩm phải được biểu hiện bằng sự cố gắng sáng tạo của tác giả tạo ra nó. Tính sáng tạo không phải chỉ là liệt kê những chữ – số đơn thuần mà ai biết chữ cũng có thể thực hiện được.

Bên cạnh đó, đối với những TPKH được tạo ra bởi trí tuệ nhân tạo thì nước này vẫn duy trì quan điểm không bảo hộ bản quyền. Các lý do được đưa ra là: Hoa Kỳ cho rằng tác giả sáng tạo phải là con người. Giới hạn phạm vi tác giả trong pháp luật bản quyền của Hoa Kỳ chỉ là “con người” phục vụ cho mục đích lớn nhất là thúc đẩy và khuyến khích sự lao động trí óc và sáng tạo. Các tác phẩm do động vật, trí tuệ nhân tạo tạo ra, hoặc các vết cắt, khuyết tật có trong đá tự nhiên…sẽ không được Văn phòng Bản quyền Hoa Kỳ cho đăng ký bảo vệ bản quyền.

Theo Điều 501-513 của Luật Bản quyền Hoa Kỳ, các hành vi vi phạm QTG đối với TPKH đều có thể bị xử lý dân sự và hình sự. Cụ thể, chủ sở hữu QTG có thể khởi kiện dân sự đối với các hành vi xâm phạm QTG như sao chép, phân phối trái phép tác phẩm. Nếu thắng kiện, bị đơn sẽ phải bồi thường thiệt hại cho nguyên đơn và có thể bị tước bỏ lợi nhuận thu được từ hành vi vi phạm. Mức bồi thường có thể lên đến 150.000 USD cho mỗi tác phẩm bị vi phạm. Ngoài ra, Luật Bản quyền Hoa Kỳ cũng quy định xử lý hình sự đối với các trường hợp vi phạm nghiêm trọng với mục đích thương mại. Cụ thể: Phạt tiền từ 250.000 USD đến 500.000 USD hoặc tù từ 1-5 năm với tội danh xâm phạm QTG lần đầu; Phạt tiền từ 500.000 USD đến 1 triệu USD hoặc tù từ 5-10 năm nếu phạm tội lần thứ 2 hoặc nhiều hơn.Khung phạt vi phạm bản quyền ở Mỹ khá nặng, đủ sức răn đe các hành vi xâm phạm QTG. Điều này thể hiện sự quyết liệt trong việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ tại quốc gia này.

Như vậy, luật bản quyền Hoa Kỳ bao quát hầu hết các loại hình sáng tạo có giá trị thương mại, đồng thời có chế tài mạnh mẽ để bảo vệ quyền lợi cho các chủ sở hữu tác phẩm. Đây là một trong những hệ thống pháp luật bảo hộ QTG chặt chẽ và hiệu quả nhất thế giới.

1.2.2. Anh Luận văn: Pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm.

Nước Anh dưới triều đại Nữ hoàng Anne là nước đầu tiên công nhận độc quyền của tác giả – “Đạo luật của Nữ hoàng Anne” năm 1709 là đạo luật về QTG sớm nhất của nước Anh và cũng là đạo luật về QTG đầu tiên trong lịch sử thế giới, chính là được ban hành dựa vào các tiền đề lớn là quan niệm kinh tế của chủ nghĩa trọng thương và quan niệm về quyền lợi tài sản tư hữu, mục đích là “trao cho tác giả, nhà xuất bản có quyền sao chép, để khuyến khích sáng tạo”, bảo đảm việc thực hiện đầy đủ chức năng truyền bá văn hoá.

Luật QTG của nước Anh quy định QTG tự động phát sinh kể từ thời điểm cá nhân hay pháp nhân sáng tạo nên TPKH. Với quan điểm xây dựng pháp luật trên cơ sở về giá trị tài sản. Luật QTG của nước Anh thực hiện thuyết về QTG thương mại, cho rằng thực chất của QTG chính là quyền lợi sao chép tác phẩm vì mục đích thương mại. Quy định nước này nhấn mạnh đến bảo hộ yếu tố kinh tế mà ít quan tâm đến quyền tinh thần của tác giả.

Khi các TPKH, văn học và các bản in của các sách đã xuất bản đáp ứng những yêu cầu về việc bảo vệ thì các tác phẩm đó được tự động bảo vệ bản quyền ở nước Anh. Trong các điều khoản chung, việc bảo vệ bản quyền vẫn được dành cho những tác phẩm xuất bản đầu tiên. Tại Anh, các quyền sử dụng và quyết định về một tác phẩm thường không dành cho tác giả mà lại dành cho những người khai thác các quyền này về mặt kinh tế. Tác giả chỉ giữ lại các quyền phủ quyết có giới hạn nhằm để ngăn cản việc lạm dụng từ phía những người khác thác các quyền này.

Quy định về thời hạn của bản quyền ở nước Anh như sau, thời hạn của bản quyền đối với các TPKH, văn học, kịch, âm nhạc và mỹ thuật thường là suốt cuộc đời của tác giả và một khoảng thời gian khoảng 70 năm kể từ khi người đó qua đời. Đối với phim, thời hạn thường là 70 năm, các bản thu và truyền hình được bảo vệ trong khoảng thời gian 50 năm.

Khác với quan điểm ở một số nước như Hoa Kỳ, Nhật Bản thì tại Anh, khái niệm về bảo hộ các tác phẩm nói chung hay TPKH nói riêng được tạo ra từ AI đã được nhắc đến rất sớm, điều này đã được ghi nhận trong Đạo luật Bản quyền, Kiểu dáng và Bằng sáng chế năm 1988 nêu rõ: “Trong trường hợp tác phẩm văn học, kịch, âm nhạc hay nghệ thuật được tạo ra từ máy tính, tác giả sẽ là người sắp xếp cần thiết cho việc tạo ra tác phẩm được thực hiện”, cách tiếp cận này hướng đến nội dung ghi nhận QTG cho người đã tạo nên các chương trình máy tính (cụ thể là lập trình viên) để chương trình đó tạo ra các tác phẩm. Bên cạnh đó, tác phẩm do máy tính tạo ra (computer-generated) được định nghĩa là “một tác phẩm được tạo ra bằng máy tính trong những trường hợp không có tác giả là con người”. Việc làm rõ khái niệm trên tạo ra tiền đề cho việc giải quyết các yêu cầu bảo hộ QTG đối với các TPKH được tạo ra bởi AI tại đất nước này. Có thể thấy rằng, cách tiếp cận QTG này của Vương quốc Anh là một cách tiếp cận khá rộng mở khi đã tạo ra một ngoại lệ để công nhận QTG đối với các tác phẩm được tạo ra bởi một loại “tác giả” không phải là con người. Như vậy, mặc dù Mỹ và Anh đều theo hệ thống pháp luật Common Law nhưng khác với Mỹ thì Vương Quốc anh đã thừa nhận và bảo hộ các TPKH được tạo ra bởi trí tuệ nhân tạo AI. Luận văn: Pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm.

1.2.3. Nhật Bản

Nhật Bản có Luật Bản quyền riêng được ban hành lần đầu năm 1899. Luật Bản quyền Nhật Bản hiện hành được sửa đổi năm 1970 và bổ sung năm 2018 nhằm khuyến khích sáng tạo và bảo vệ tài sản trí tuệ. Ngoài ra, Nhật Bản còn có Luật Cơ bản về Tài sản trí tuệ năm 2021 có những phạm vi điều chỉnh đến hoạt động tạo ra tài sản trí tuệ mới và sử dụng có hiệu quả tài sản trí tuệ nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh quốc tế ở giai đoạn mới. Luật Bản quyền Nhật Bản bảo hộ các loại hình tác phẩm:

  • Tác phẩm văn học: tiểu thuyết, thơ ca, kịch bản, tiểu luận phê bình. Nhật Bản có nền văn học lâu đời với các tác phẩm kinh điển như Truyện Genji, Truyện kể Heike.
  • Tác phẩm âm nhạc: bài hát, giai điệu. Thể loại nhạc pop Nhật Bản (J- pop) là một hiện tượng văn hóa ảnh hưởng đến giới trẻ toàn cầu.
  • Tác phẩm nghệ thuật: hội họa, điêu khắc, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng. Nghệ thuật Nhật Bản nổi tiếng với các thể loại truyền thống như Ukiyo-e, Ikebana,
  • Tác phẩm điện ảnh: phim điện ảnh, phim truyền hình, phim hoạt hình (anime). Phim hoạt hình Nhật có ảnh hưởng văn hóa lớn tại Châu Á và thế giới.

TPKH: các tác phẩm được viết lên giấy trắng , bài giảng hay diễn thuyết bằng miệng thì được bảo hộ theo pháp luật Nhật Bản, do đó không phân biệt loại hình tác phẩm viết với tác phẩm không biểu hiện dưới hình thức viết. Bên cạnh đó, Nhật Bản còn bảo hộ tác phẩm là phần mềm máy tính. Cho đến thời điểm hiện tại, hầu hết các nước trên thế giới đều công nhận một chương trình thuộc phần mềm máy vi tính như một tác phẩm và người sáng tạo có QTG đối với phần mềm đó.

Để được bảo hộ QTG thì các tác phẩm phải đáp ứng được các điều kiện như (1) Chứa đựng những suy nghĩ hoặc xúc cảm; (2) được định hình cụ thể (3) có tính sáng tạo (4)Thuộc các lĩnh vực văn học, khoa học, mỹ thuật hay âm nhạc.

Theo quan điểm của nhà làm luật Nhật Bản thì nội dung của những tác phẩm trên phải được diễn tả một cách sáng tạo thì được pháp luật bảo hộ. Tuy nhiên, các ngôn ngữ được sử dụng để lập trình hay các giải pháp về toán học không được xem là đối tượng bảo hộ theo quy định pháp luật về QTG ở nước này. Bên cạnh đó, Nhật Bản đã rất tích cực trong việc cân nhắc phát triển trí tuệ nhân tạo song song với hoàn thiện pháp luật về SHTT. Năm 2017, một trí tuệ nhân tạo có tên Shibuya Mirai được nước này cấp quyền công dân và có thẻ cư trú tại Tokyo. Tuy nhiên, Nhật Bản vẫn từ chối bảo hộ QTG cho các sản phẩm từ trí tuệ nhân tạo bởi theo pháp luật QTG hiện hành ở nước này không xem sản phẩm do trí tuệ nhân tạo tạo ra là một tài sản, bên cạnh đó như phân tích các điều kiện để được bảo hộ ở trên thì các sản phẩm từ trí tuệ nhân tạo không có đủ điều kiện bới nó không chứa đựng “suy nghĩ” và “xúc cảm”. Luận văn: Pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm.

Những tác phẩm không được bảo hộ theo quy định của pháp luật về QTG ở Nhật Bản là Hiến Pháp và các luật, đạo luật, nghị định của Chính phủ, các thông tư của các Bộ,… và những bản dịch của các văn bản trên. Nhưng vẫn bảo hộ các tác phẩm báo chí hay công báo của nhà nước phát hành.

Bên cạnh đó, Luật Bản quyền Nhật Bản cho phép một số trường hợp sử dụng tác phẩm mà không cần xin phép như: Sử dụng vào mục đích giảng dạy, nghiên cứu tại trường học, thư viện; Trích dẫn hợp lý phục vụ bình luận, giới thiệu tác phẩm; Sao chép tác phẩm cho người khuyết tật.

Thời hạn bảo hộ QTG ở Nhật là trong suốt cuộc đời cộng thêm 50 năm sau khi tác giả qua đời, ngắn hơn so với mức 70 năm theo chuẩn quốc tế.

Nhật Bản có hệ thống luật pháp điều chỉnh chặt chẽ về QTG, góp phần thúc đẩy sự phát triển văn hóa sáng tạo trong nền kinh tế tri thức hiện đại.Theo Luật Bản quyền của Nhật Bản, hành vi vi phạm bản quyền có thể bị xử lý ở cả cấp độ dân sự và hình sự:

  • Về dân sự: Người vi phạm có thể bị buộc bồi thường thiệt hại cho chủ sở hữu bản quyền. Mức bồi thường có thể lên tới 10 triệu Yên (khoảng 000 USD).
  • Về hình sự: Người vi phạm có thể bị phạt tiền từ 2 triệu đến 10 triệu Yên (khoảng 14.600 – 73.000 USD) hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 10 năm, tùy theo mức độ vi phạm.
  • Ngoài ra, tòa án cũng có thể ra lệnh tịch thu tiêu hủy hàng hóa vi phạm và cấm tiếp tục kinh doanh liên quan đến hành vi xâm phạm bản quyền.

Có thể thấy khung hình phạt vi phạm bản quyền ở Nhật Bản khá nghiêm khắc, với mức phạt tiền và tù cao. Điều này nhằm mục đích răn đe và ngăn chặn các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ nghiêm trọng. Nhật Bản luôn coi trọng việc bảo hộ sở hữu trí tuệ và thực thi pháp luật một cách triệt để. Như vậy, các quốc gia trên thế giới đều có những quy định cơ bản tương tự để bảo vệ quyền lợi của người sáng tạo, khuyến khích sự phát triển văn hóa, khoa học. Tuy nhiên, vẫn có những điểm khác biệt nhất định về phạm vi, thời hạn bảo hộ và các trường hợp ngoại lệ.

1.3. Quy định pháp luật Việt Nam về bảo hộ quyền tác giả đối với các tác phẩm khoa học tại các trường đại học Luận văn: Pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm.

1.3.1. Chủ thể của quyền tác giả đối với tác phẩm khoa học tại các trường đại học

  • Tác giả sáng tạo ra các tác phẩm khoa học tại các trường đại học

Ngày nay, với sự phát triển nhanh chóng của KHCN thì nhu cầu trao đổi công trình NCKH, TPKH diễn ra hết sức phổ biến. Bên cạnh đó thì nhu cầu quảng cáo, truyền bá và kế thừa công trình NCKH ngày càng lớn. Do đó, cần xác định rõ tác giả của công trình NCKH là việc làm cần thiết đối với hoạt động NCKH ở hiện tại và về sau này.

Trước đây căn cứ theo Điều 736, Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Thứ nhất, người sáng tạo tác phẩm văn học, khoa học và nghệ thuật chính là tác giả của tác phẩm đó. Tuy nhiên, nếu có 2 người hoặc nhiều hơn 2 người cũng sáng tạo ra tác phẩm thì những người đó là đồng tác giả. Thứ hai, là người sáng tạo ra tác phẩm phái sinh từ tác phẩm của một người khác, trong đó bao gồm các tác phẩm mà được dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác, tác phẩm cải biên, tác phẩm phóng tác hoặc chuyển thể, chú giải và biên soạn hoặc được tuyển chọn là tác giả của tác phẩm phái sinh đó”.

Hiện nay, theo Luật SHTT hiện hành có bổ sung quy định về tác giả, đồng tác giả như sau: Theo quy định thì “Tác giả là người trực tiếp sáng tạo tác phẩm. Trong trường hợp có từ hai người trở lên trực tiếp cùng nhau thực hiện sáng tạo tác phẩm với chủ ý là đóng góp của họ được kết hợp thành một tổng thể hoàn chỉnh thì trong trường hợp này những người đó được quy định là các đồng tác giả”. Quy định này giúp khái niệm về tác giả được mở rộng hơn khi pháp luật thừa nhận vai trò của người cùng thực hiện, ở đây được gọi là đồng tác giả trong tác phẩm. Qua đó, xác định chính xác hơn về quyền và nghĩa vụ của tác giả, đồng tác giả trong các kết quả nghiên cứu khoa học đồng thời là căn cứ pháp lý cụ thể để bảo vệ quyền của tác giả và đồng tác giả.

Trong môi trường giáo dục hiện nay, tác giả có thể là giảng viên, sinh viên, học viên thực hiện nghiên cứu để tạo ra các TPKH thông qua giao kết hợp đồng. Việc giao kết hợp đồng này có thể là hợp đồng lao động, hợp đồng dịch vụ, hợp đồng giao việc,.. Đối với giảng viên, căn cứ theo quy định tại Điều 55 Luật Giáo dục ĐH năm 2012 và khoản 30 Điều 1 Luật Giáo dục ĐH sửa đổi năm 2018 thì Giảng viên có nhiệm vụ giảng dạy, phát triển chương trình đào tạo, nghiên cứu, phát triển ứng dụng khoa học và chuyển giao công nghệ. Đối với giảng viên tại trường ĐH, nghiên cứu khoa học là nhiệm vụ cơ bản. Do đó, việc NCKH lâu nay luôn được các trường ĐH đề cao như một nhiệm vụ bắt buộc, thường xuyên và là một tiêu chuẩn quan trọng hàng đầu để đánh giá khả năng toàn diện của giảng viên. Đối với sinh viên, việc nghiên cứu khoa học của sinh viên đã được cụ thể hóa tại Thông tư số 19/2012/TT- BGDĐT ngày 01 tháng 6 năm 2012 của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Quy định về hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên trong các cơ sở giáo dục ĐH. Như vậy, tác giả của tác phẩm NCKH có thể là một cá nhân hoặc một nhóm tác giả (đồng tác giả) thực hiện công trình NCKH. Vai trò của tác giả trong hoạt động nghiên cứu khoa học có thể được phân chia khác nhau: Luận văn: Pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm.

  • Chủ nhiệm công trình NCKH: Là người nghiên cứu chính đồng thời là người điều hành trong quá trình thực hiện TPKH
  • Thư ký: là người phụ trách các công việc chuyên môn cũng như công việc hành chính liên quan đến TPKH
  • Người tham gia: Là những thành viên có chuyên môn trong lĩnh vực nghiên cứu và thực hiện các nhiệm vụ theo sự điều phối của chủ nhiệm đề tài.

Theo Luật SHTT hiện hành thì “ … Trường hợp có từ hai người trở lên cùng trực tiếp sáng tạo tác phẩm với chủ ý là sự đóng góp của họ được kết hợp thành một tổng thể hoàn chỉnh thì những người đó là các đồng tác giả”. Đồng tác giả được hiểu là có nhiều cá nhân cùng tham gia thực hiện nghiên cứu để tạo ra TPKH hoàn chỉnh Điều này có nghĩa là người trực tiếp thực hiện các nội dung công việc, tham gia sáng tạo để tạo ra tác phẩm bằng lao động trí tuệ. Người làm công việc hỗ trợ, đóng góp ý kiến hoặc cung cấp tư liệu để người khác tạo ra sản phẩm thì không được công nhận là tác giả hay đồng tác giả theo khoản 2 Điều 12a Luật SHTT. Ví dụ, đối với đề tài nghiên cứu khoa học của sinh viên tại Trường ĐH Nông Lâm TP.HCM thì giảng viên hướng dẫn không được xem là tác giả hay đồng tác giả của TPKH đó, bởi giảng viên hướng dẫn không trực tiếp thực hiện các nội dung công việc để sáng tạo ra tác phẩm mà chỉ định hướng, cung cấp tài liệu, góp ý cho sinh viên thực hiện nghiên cứu và hoàn thành đề tài đó.

Tóm lại, những người tham gia trực tiếp sáng tạo ra toàn bộ hoặc một phần của TPKH bằng lao động trí tuệ thì được xem là tác giả hoặc đồng tác giả đối với TPKH.

  • Chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm khoa học tại các trường Đại học

Với xu thế phát triển của xã hội, các tổ chức, đơn vị đánh giá được giá trị kinh tế, khai thác tốt giá trị kinh tế (thương mại hoá tài sản trí tuệ) của TPKH thông qua hợp đồng chuyển giao. Vì vậy, việc xác định chủ sở hữu của kết quả NCKH có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định quyền nhân thân và quyền tài sản theo quy định của pháp luật.

Theo Luật KHCN năm 2013 có quy định: “Tổ chức, cá nhân đầu tư tài chính, cơ sở vật chất – kỹ thuật cho việc thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ là chủ sở hữu kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác trong hợp đồng nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ”.

Theo Luật SHTT năm 2005 thì “Chủ thể quyền sở hữu trí tuệ là chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ hoặc tổ chức, cá nhân được chủ sở hữu chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ”. Do đó chủ sở hữu QTG là chủ thể của QTG hoặc tổ chức cá nhân được chủ thể này chuyển giao một, một số hoặc toàn bộ các quyền tài sản, quyền công bố tác phẩm.

Trường hợp tác giả là giảng viên đang công tác tại trường ĐH, thực hiện sáng tạo ra các TPKH như giáo trình, bài giảng, đề tài nghiên cứu khoa học và được nhà trường cấp kinh phí để thực hiện và nghiệm thu thì chủ sở hữu QTG theo quy định tại khoản 1 Điều 39 Luật SHTT là nhà trường (Hiệu trưởng trường ĐH là Đại diện). Nếu sau đó, công trình NCKH được ứng dụng theo hợp đồng của doanh nghiệp thì thực hiện theo thoả thuận của các bên trong hợp đồng. Tương tự, nếu một TPKH là đề tài nghiên cứu khoa học của sinh viên được trường cấp kinh phí thực hiện thì nhà trường là chủ sở hữu QTG đối với TPKH, còn sinh viên là tác giả sáng tạo nên tác phẩm đó. Luận văn: Pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm.

Như vậy, có thể hiểu rằng Chủ sở hữu QTG đối với TPKH tại các trường ĐH là tổ chức hoặc cá nhân đầu tư về tài chính, cơ sở vật chất – kỹ thuật,… để ra được kết quả NCKH sẽ là chủ sở hữu của kết quả NCKH đó. CSH của kết quả NCKH có quyền công bố TPKH cùng với toàn bộ nhóm quyền tài sản được quy định tại Điều 20 Luật SHTT. Lý do pháp luật dành cho các đối tượng chủ thể này tư cách chủ sở hữu QTG nhằm khuyến khích sự đầu tư tài chính và tạo điều kiện vật chất cho hoạt động sáng tạo.

1.3.2. Nội dung bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm khoa học tại các trường đại học

Quyền của tác giả là quyền của người trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm. Chủ thể của QTG không phụ thuộc vào độ tuổi, trình độ và phương thức tạo ra tác phẩm, công trình khoa học. Vậy QTG là quyền người sáng tạo ra tác phẩm được hưởng các quyền nhân thân và quyền tài sản do pháp luật quy định. Tác giả được phân loại theo các quan hệ pháp luật gồm tác giả đồng thời là chủ sở hữu tác phẩm và tác giả không phải là chủ sở hữu tác phẩm. Việc phân loại như vậy là cơ sở để QTG đươc bảo hộ đầy đủ nhất hoặc sẽ bị hạn chế trong từng quan hệ cụ thể liên quan đến việc sử dụng và khai thác tác phẩm.

  • Quyền của tác giả đồng thời là chủ sở hữu tác phẩm khoa học tại các trường đại học

Quyền của tác giả là chủ sở hữu TPKH tại các trường ĐH được hiểu là cá nhân, tổ chức sử dụng thời gian, tài chính và vật chất, trí tuệ của chính mình để tạo ra TPKH. Trong trường hợp này TPKH có thể là tiểu luận, khóa luận tốt nghiệp, luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ của người học trong trường ĐH.

  • Quyền nhân thân đối với tác giả là chủ sở hữu được phân chia làm hai trường hợp là có thể chuyển giao và không thể chuyển giao.

Thứ nhất, quyền nhân thân không thể chuyển giao theo quy định tại khoản 1, khoản 2, khoản 4 của Điều 19 Luật SHTT và Nghị định số 17/2023/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Sở hữu trí tuệ về QTG, quyền liên quan bao gồm: Luận văn: Pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm.

  • Quyền đặt tên cho tác phẩm (không áp dụng tác phẩm dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác). Hiện nay, theo quy định mới của Luật SHTT tại khoản 1 Điều 20 thì tác giả có quyền chuyển quyền đặt tên tác phẩm cho tổ chức, cá nhân nhận chuyển giao quyền tài sản thông qua thoả thuận bằng văn bản.
  • Quyền được đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm được công bố, sử dụng. Thông thường đối với các TPKH tại các trường ĐH thì tác giả sẽ sử dụng tên thật khi công bố các tác phẩm.
  • Quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm và không cho người khác xuyên tạc, sửa đổi, cắt xén tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.

Như vậy, đây là những quyền nhân thân của tác giả không chịu ảnh hưởng của quyền tài sản (bởi quyền tài sản trong trường hợp này thuộc về chủ sở hữu QTG) và được pháp luật bảo hộ vĩnh viễn kể cả sau khi tác giả qua đời.

Thứ hai, trường hợp quan hệ nhân thân theo tính chất có thể chuyển giao, đây là nhóm quan hệ nhân thân có mối liên hệ với tài sản như quyền công bố, phổ biến hoặc cho những người khác công bố phổ biến tác phẩm của mình, cho hoặc không cho người khác sử dụng tác phẩm của mình được quy định tại khoản 3 Điều 19 Luật SHTT. Việc chuyển giao các quyền nhân thân thuộc nhóm này được thực hiện thông qua văn bản hoặc hợp đồng. Tuy nhiên, khác với các quyền nhân thân còn lại được bảo hộ vô thời hạn thì quyền công bố tác phẩm hay cho phép người khác công bố tác phẩm chỉ được bảo hộ trong một khoảng thời gian nhất định. Sẽ được bảo hộ suốt đời tác giả và năm mươi năm sau khi tác giả chết.

  • Quyền tài sản đối với tác giả là chủ sở hữu tác phẩm khoa học

Quyền này phát sinh khi tác giả thực hiện công bố tác phẩm khoa học của mình, được nhận lợi ích từ việc người khác sử dụng tác phẩm (trừ trường hợp tác phẩm không được nhà nước bảo hộ). Các quyền tài sản trong trường hợp này bao gồm: Quyền làm tác phẩm phái sinh, quyền biểu diễn tác phẩm trước công chúng, quyền sao chép tác phẩm, quyền phân phối bản gốc hoặc bản sao tác phẩm, quyền truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng phương tiện kỹ thuật, cho thuê bản gốc, bản sao TPKH. Cụ thể như sau:

Quyền làm tác phẩm phái sinh đối với các TPKH. Tác phẩm phái sinh (derivatives) là các tác phẩm mới được tạo ra dựa trên tác phẩm gốc (original work). Tác phẩm phái sinh có thể bao gồm sự thay đổi, mở rộng, hoặc biến đổi tác phẩm gốc, tạo ra một tác phẩm mới có sự sáng tạo hay đặc trưng riêng. Trong môi trường giáo dục ĐH thì phẩm phái sinh có thể xuất hiện trong nhiều hình thức như sửa đổi, biên soạn tác phẩm, mở rộng hoặc phát triển một tác phẩm hiện tại để bao gồm thêm thông tin, chi tiết, hay phần nội dung mới. Luận văn: Pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm.

Quyền biểu diễn tác phẩm trước công chúng. Đây là độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện trước công chúng một cách trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các bản ghi âm, ghi hình hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào.

Quyền sao chép tác phẩm bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào (kể cả tạo ra bản sao dưới hình thức điện tử). Thông thường tài liệu học tập do tác giả tự biên soạn bằng chính công sức, trí tuệ, nguồn tài chính của mình và xuất bản thì tác giả được tự sao chép thành nhiều bản khác nhau.

Độc quyền phân phối, nhập khẩu TPKH. Tác giả có thể tự thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện việc phân phối, xuất bản đối với bản gốc hoặc bản sao của TPKH đến công chúng bằng việc bán hoặc chuyển hình thức chuyển giao quyền sở hữu khác. Tuy nhiên, một điểm mới trong Luật SHTT được sửa đổi bổ sung năm 2022 là quyền phân phối lần tiếp theo, nhập khẩu để phân phối đối với bản gốc, bản sao tác phẩm đã được chủ sở hữu QTG thực hiện hoặc cho phép thực hiện việc phân phối. Nghĩa là, kể từ khi bản gốc, bản sao của tác phẩm đã được chủ sở hữu QTG thực hiện hoặc cho phép thực hiện việc phân phối trên thị trường thì chủ sở hữu QTG không có quyền ngăn cấm người khác thực hiện phân phối lần tiếp theo.

Quyền phát sóng, truyền đạt tác phẩm đến công chúng. Đây là việc chủ sở hữu QTG cung cấp tác phẩm đến công chúng bằng nhiều phương tiện kỹ thuật khác nhau để công chúng có thể tiếp cận được tại bất kỳ thời điểm, thời gian nào do họ lựa chọn.

Quyền cho thuê bản gốc hoăc bản sao TPKH cho cá nhân, tổ chức khác. Đây là độc quyền mà tác giả đồng thời là chủ sở hữu QTG sẽ có. Đối với TPKH là chương trình máy tính thì chủ sở hữu QTG có quyền cho thuê có thời hạn để khai thác lợi ích kinh tế đối với loại hình tác phẩm này, ngoại trừ trường hợp chương trình máy tính không phải là đối tượng chính của việc cho thuê (ví dụ như chương trình máy tính gắn với việc vận hành các thiết bị máy móc). Quy định này phù hợp với Điều 7 Hiệp ước WIPO về Việc cho thuê các tác phẩm này do thoả thuận giữa các bên theo hợp đồng.

Như vậy, khi tác phẩm của tác giả được người khác sử dụng thì tác giả hay đồng tác giả sẽ nhận được một khoản thù lao. Tác giả có quyền trực tiếp thực hiện các quyền tài sản hoặc chuyển giao cho người khác để nhận thù lao tương xứng.

  • Quyền của chủ sở hữu quyền tác giả của tác phẩm khoa học không phải là tác giả

Chủ sở hữu QTG không phải là người sáng tạo ra tác phẩm nhưng có quyền sở hữu TPKH. Bằng cách giao nhiệm vụ cho tổ chức, cá nhân thực hiện nghiên cứu đề tài để tạo ra TPKH thông qua việc đầu tư tài chính, các cơ sở vật chất cần thiết để tác giả thực hiện. Do đó, TPKH tại các trường ĐH thông thường sẽ bao gồm các đề tài nghiên cứu khoa học các cấp, các dự án nghiên cứu, sách giáo trình được thực hiện thông qua nhiệm vụ được giao trong hợp đồng lao động. QTG đối với các TPKH tại các trường ĐH sẽ bao gồm: Luận văn: Pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm.

  • Quyền nhân thân của chủ sở hữu quyền tác giả không phải là tác giả

Quyền nhân thân trong trường hợp này là quyền công bố TPKH hoặc cho người khác công bố TPKH đến công chúng. Các trường ĐH có quyền công bố các TPKH đến người học thông qua thư viện hoặc các phương tiện kỹ thuật khác. ( theo khoản 3 Điều 19 Luật SHTT hiện hành)

  • Quyền tài sản của chủ sở hữu quyền tác giả không phải là tác giả

Quyền tài sản được liệt kê tại Điều 20 Luật SHTT. Quyền này gắn với tác phẩm và được bảo hộ trong một thời hạn nhất định. Sau khi kết thúc thời hạn này thì việc sử dụng quyền tài sản thuộc về mọi người. Các quyền tài sản của chủ sở hữu QTG là:

Quyền làm tác phẩm phái sinh đối với các TPKH. Tác phẩm phái sinh từ tác phẩm gốc bao gồm: dịch ra ngôn ngữ khác của tác phẩm gốc: là tác phẩm được dịch sang ngôn ngữ khác một cách sát nghĩa, không diễn đạt sai nội dung dựa trên nội dung của tác phẩm gốc; Tác phẩm phóng tác: là tác phẩm phỏng theo tác phẩm gốc, nhưng có sự sáng tạo về nội dung, tư tưởng… Tác phẩm phóng tác thường mang sắc thái mới, khác biệt so với tác phẩm gốc. Tác phẩm biên soạn: là việc tổng hợp thông tin, thu thập và chọn lọc các tài liệu tham khảo để viết lại thành một tác phẩm mới có sự trích dẫn những nguồn thông tin đã tham khảo. – Bản chú giải: là tác phẩm thể hiện quan điểm, lời bình của người soạn bản chú giải đó, giải thích ý nghĩa để làm rõ hơn nội dung trong tác phẩm gốc.- Tác phẩm tuyển chọn: được hiểu là một tập hợp các tác phẩm được lựa chọn bởi người biên soạn. Tác phẩm cải biên: là tác phẩm được sáng tạo ra trên cơ sở tác phẩm gốc bằng cách thay đổi hình thức diễn đạt. – Tác phẩm chuyển thể: có thể hiểu là tác phẩm dựa trên tác phẩm gốc nhưng không làm thay đổi nội dung của tác phẩm gốc. Hiện nay, hình thức chuyển thể phổ biến là việc chuyển thể một tác phẩm văn học, câu chuyện… thành tác

Quyền biểu diễn tác phẩm trước công chúng bao gồm: Biểu diễn, đọc, trưng bày, triển lãm, trình chiếu, trình diễn tác phẩm tại nơi công cộng mà không được sự đồng ý của chủ sở hữu QTG; Biểu diễn, đọc, trưng bày, triển lãm, trình chiếu, trình diễn tác phẩm nơi bán vé, thu tiền vào cửa mà không được sự đồng ý của chủ sở hữu QTG.

Chủ sở hữu có quyền sao chép tác phẩm bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào (kể cả tạo ra bản sao dưới hình thức điện tử). Tại các trường ĐH thông thường sau khi giáo trình được biên soạn, nghiệm thu và xuất bản thì sẽ được sao chép để đưa vào thư viện. Được in thành nhiều bản để chuyển đến Sinh viên cho việc nghiên cứu và học tập

Chủ sở hữu được độc quyền phân phối, nhập khẩu để phân phối của Các trường ĐH có quyền cấm người khác bán, cho thuê, chuyển giao, thuê những bản sao tác phẩm mà không được phép của trường. Nói cách khác, chủ sở hữu QTG có thể quản lý gần như mọi chi tiết của “lần bán hàng đầu tiên” của tác phẩm, kể cả thời gian, giá cả và các điều kiện bán tác phẩm.

Chủ sở hữu QTG có quyền phát sóng, truyền đạt tác phẩm đến công chúng. Đây là việc chủ sở hữu QTG cung cấp tác phẩm đến công chúng bằng nhiều phương tiện kỹ thuật khác Việc này bao gồm nhà trường truyền tải bằng các hình thức biểu diễn, kể lại, trưng bày, phát sóng hoặc truyền tải qua đài phát thanh, cáp hữu tuyến, vệ tinh hoặc Internet.

Chủ sở hữu QTG có quyền cho thuê bản gốc hoăc bản sao TPKH cho cá nhân, tổ chức khác. Quyền này chỉ được áp dụng đối với một số loại tác phẩm nhất định, như TPKH liên quan đến điện ảnh, tác phẩm âm nhạc, hay chương trình máy tính ( ví dụ như TPKH của một số trường ĐH đào tạo về âm nhạc, mỹ thuật,…). Luận văn: Pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm.

Như vậy, pháp luật Việt Nam công nhận hai nhóm quyền cơ bản cho tác giả và chủ sở hữu QTG là nhóm quyền về nhân thân và nhóm quyền về tài sản. Khi nhà trường ra quyết định giao nhiệm vụ nghiên cứu và kinh phí thực hiện NCKH cho giảng viên, sinh viên của trường thì tác giả không được hưởng đầy đủ các quyền nhân thân và quyền tài sản được quy định tại Điều 19, 20 Luật SHTT. Quyền được hưởng những lợi ích, vật chất từ việc khai thác sản phẩm thuộc về nhà trường. Trên thực tế, mỗi trường ĐH có cách xác định phần quyền tài sản là khác nhau, tùy theo quy chế của mỗi trường. Chủ sở hữu TPKH phải có nghĩa vụ trả chi phí nhuận bút cho tác giả. Có thể thấy rằng những quy định trên cho thấy quyền của tác giả không phải là chủ sở hữu kết quả NCKH bị hạn chế do tác giả công trình không được thực hiện quyền xuất bản, tái bản, trưng bày, triển lãm hoặc cho dịch, cải biên,….để có lợi ích kinh tế. Sự hạn chế này do quan hệ phụ thuộc của tác giả đã xác lập theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật khi giảng viên hay sinh viên thực hiện công trình NCKH nhằm sáng tạo ra các TPKH.

1.3.3. Đối tượng được bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm khoa học tại trường đại học

Mọi cá nhân đều có quyền tự do lao động sáng tạo bằng trí tuệ của mình nhằm ra các TPKH, nghệ thuật và được thể hiện dưới dạng hình thức vật chất thì giá trị nội dung được pháp luật bảo hộ QTG đối với tác phẩm đó. các tác phẩm hình thành trong khuôn khổ hoạt động của trường ĐH là kết quả của hoạt động nghiên cứu khoa học theo chuẩn mực kiến thức nhất định, nhằm phục vụ hoạt động đào tạo của nhà trường và thực hiện sứ mệnh đối với xã hội. Kết quả của các công trình nghiên cứu trong nhà trường là cơ sở lý luận và khoa học vững chắc cho việc thay đổi định hướng đào tạo nói riêng và góp phần vào công cuộc xây dựng, phát triển kinh tế, xã hội nước nhà nói chung. TPKH tại các trường ĐH bao gồm:

Giáo trình, sách tham khảo được thể hiện dưới dạng chữ viết hoặc ký tự khác. Theo điểm a khoản 4 Điều 2 Quyết định 37/2018/QĐ-TTg có quy định: Giáo trình là tài liệu giảng dạy, học tập có nội dung phù hợp với chương trình đào tạo, bồi dưỡng được người đứng đầu cơ sở giáo dục ĐH duyệt, lựa chọn hoặc được Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo phê duyệt. Đây là tài liệu học tập được sử dụng trong quá trình giảng dạy và học tập tại các trường ĐH. Thường được biên soạn bởi giảng viên hoặc các chuyên gia trong lĩnh vực bao gồm lý thuyết và bài tập. Giúp Sinh viên học tập theo một kế hoạch có tổ chức, cung cấp các kiến thức cơ bản và thường được Sinh viên sử dụng như nguồn tham khảo chính trong học tập và nghiên cứu.

Bài giảng, bài nói khác được thể hiện bằng ngôn ngữ nói và được định hình dưới một hình thức vật chất nhất định

Khóa luận tốt nghiệp đại học, luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ…của sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh. Đây là một bài nghiên cứu chi tiết và có tính chất chuyên sâu hơn, mà sinh viên/học viên/nghiên cứu sinh thường phải thực hiện vào cuối giai đoạn học tập ĐH hay sau đại học để hoàn thành chương trình đào tạo. Các loại công trình nghiên cứu này chứng minh khả năng nghiên cứu chất lượng, sự sáng tạo và khả năng tự quản lý công việc nghiên cứu, giúp phát triển kỹ năng nghiên cứu và kiến thức chuyên sâu trong lĩnh vực mà tác giả thực hiện nghiên cứu quan tâm.

  • Các đề tài nghiên cứu khoa học của giảng viên và sinh viên trong trường ĐH. Gồm đề tài nghiên cứu khoa học được phân chia thành các cấp như sau: Luận văn: Pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm.

Thứ nhất, Đề tài khoa học cấp Nhà nước là nhiệm vụ KHCN cấp quốc gia nhằm thực hiện yêu cầu của lãnh đạo Đảng, Nhà nước hoặc đáp ứng được những đòi hỏi trong thực tiễn từ hoạt động quản lý, hoạt động phát triển kinh tế – xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng và phát triển KHCN;

Thứ hai, Đề tài NCKH cấp Bộ nhằm giải quyết các vấn đề KHCN nhằm phục vụ Giáo dục – Đào tạo, hoạt động NCKH cấp Bộ, phát triển kinh tế – xã hội theo các chương trình tại các địa phương trên cả nước;

Thứ ba, đề tài NCKH cấp Tỉnh/Thành phố: Các đề tài giúp giải quyết các nhu cầu cấp thiết tại địa phương, giúp người dân được tiếp cận với các chuyên gia, nhà khoa học trong việc chuyển giao, ứng dụng KHCN.

Cuối cùng, Đề tài NCKH cấp Cơ sở (giảng viên, người học). là những dự án nghiên cứu đặc biệt được thực hiện để đạt được mục tiêu nghiên cứu cụ thể phục vụ yêu cầu của đời sống thực hoặc trong sản xuất góp phần nâng cao chất lượng đào tạo và xây dụng nền khoa học kỹ thuật tiên tiến hiện đại. Các dạng đề tài NCKH trong trường ĐH gồm các bước như xác định đề tài nghiên cứu, xây dựng thuyết minh, tổ chức và thực hiện nghiên cứu, báo cáo kết quả. Các sản phẩm của dạng đề tài này thường sẽ có các sản phẩm kèm theo như kết quả nghiên cứu, bài báo được chấp thuận đăng trên tạp chí chuyên ngành, bản vẽ, quy trình công nghệ,..

Như vậy, các TPKH ở trên là loại hình tác phẩm thường được thể hiện trên văn bản giấy, văn bản điện tử được sử dụng phổ biến trong nhà trường. Để được bảo hộ thì các tác phẩm trên phải đảm bảo được các nội dung:

  • Thứ nhất, thể hiện một nội dung kỹ thuật hoặc khoa học. Ví dụ như quy trình, bản đồ quy hoạch, sơ đồ thiết kế, các ảnh minh hoạ mà tác giả tự chụp trong nghiên cứu của mình,..
  • Thứ hai, thể hiện hoạt động tinh thần của riêng tác giả. Những sản phẩm này phải thể hiện được tư duy của tác giả thông qua việc trình bày các quan điểm về khoa học – kỹ thuật. Các bức ảnh khoa học, đặc biệt là các bức ảnh y học, chỉ có thể được bảo hộ khi chúng tái hiện được quan điểm của nhà nghiên cứu. Các bức ảnh do nhà nghiên cứu tự thiết kế để chụp ảnh chứng minh cho nghiên cứu của mình là những bức ảnh được bảo hộ.
  • Thứ ba, tác phẩm phải là sự sáng tạo trực tiếp của con người.

1.3.4. Giới hạn bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm khoa học tại trường Đại học Luận văn: Pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm.

Giới hạn QTG là những hạn chế về QTG và chủ sở hữu QTG (ngoại lệ QTG). Giới hạn này liên quan đến việc sử dụng và khai thác tác phẩm, bản ghi âm, ghi hình để nhằm đáp ứng các nhu cầu chính đáng phục vụ công tác thông tin, công tác NCKH và phục vụ ngay cả công tác giảng dạy. Việc giới hạn QTG nhằm mục đích giúp công chúng được phép khai thác, sử dụng các tác phẩm văn học, nghệ thuật, hội hoạ và khoa học vào mục đích phi lợi nhuận được dễ dàng hơn.

Điều 25 Luật SHTT hiện hành có quy định rõ về việc mặc dù không phải trả tiền bản quyền, tuy nhiên phải để thông tin tên tác giả và nguồn gốc xuất xứ của tác phẩm. Để phù hợp với nhu cầu phát triển thực tế của xã hội hiện nay thì năm 2022 Luật SHTT hiện hành đã có bổ sung về ngoại lệ QTG như sau: “Việc tự sao chép một bản để NCKH với mục đích phục vụ cho việc học tập của cá nhân mà không nhằm mục đích thương mại thì quy định này không áp dụng trong trường hợp sao chép bằng thiết bị sao chép”. Trước đây được phép sao chép phục vụ mục đích giảng dạy của cá nhân, nhưng hiện nay đã được thay bằng mục đích học tập cá nhân. Thiết bị sao chép ở đây có thể được hiểu là máy scan, máy photocopy. Như vậy, pháp luật Việt Nam không cho phép sử dụng các thiết bị sao chép (máy photocopy, máy scan) nhằm mục đích học tập hoặc NCKH. Vì nếu cho phép hành vi này thì một lượng lớn Sinh viên sẽ sử dụng sách photocopy thay vì mua sách chính gốc. Điều này sẽ làm ảnh hưởng đến sự khai thác kinh tế tác phẩm của chủ sở hữu QTG.

Theo quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành luật SHTT về QTG và quyền liên quan trong đó có cho phép việc sao chép tác phẩm thì không bị cấm:

Cho phép sao chép hợp lý một phần tác phẩm bằng thiết bị sao chép cho người khác phục vụ NCKH hoặc học tập được quy định tại Điều Được phép sao chép hoặc truyền tác phẩm được lưu giữ để sử dụng liên thông trong các thư viện thông qua mạng máy tính theo điều kiện số lượng người đọc tại cùng một thời điểm không vượt quá số lượng bản sao của tác phẩm (trong thư viện quản lý, nắm giữ). Mục đích của việc được sao chép này nhằm đảm bảo quyền tiếp cận tri thức của mỗi người cũng như là lưu trữ tác phẩm của trung tâm thư viện hoặc trung tâm lưu trữ nhà nước. Việc cho phép được sao chép tác phẩm trong 2 trường hợp trên là hoàn toàn hợp lý và có những lý do phù hợp trong điều kiện pháp luật về QTG hiện nay.

Sử dụng hợp lý tác phẩm nhằm minh hoạ trong bài giảng, cuộc biểu diễn, chưa được định hình nhằm mục đích giảng dạy hoặc sử dụng tác phẩm trong hoạt động công vụ của cơ quan nhà nước được quy định tại Điều 26, Điều 27 của nghị định này. Thứ nhất, hoạt động tổ chức phát sóng có sử dụng tác phẩm đã công bố để phát sóng có hoạt động như tài trợ, quảng cáo hoặc thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào không phải xin phép, nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao cho chủ sở hữu QTG kể từ khi sử dụng. Thứ hai, hoạt động tổ chức phát sóng khi sử dụng tác phẩm đã được công bố để phát sóng không có việc tài trợ và quảng cáo hoặc cũng không thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào mà không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút hoặc tiền thù lao cho chủ sở hữu QTG. Trong các quy định trên thì tiền nhuận bút và thù lao cũng là các quyền lợi về vật chất khác và hình thức thanh toán tự các bên thỏa thuận theo pháp luật dân sự. Nếu trường hợp không thỏa thuận được hoặc xảy ra tranh chấp thì được thực hiện theo quy định của Chính phủ hoặc khởi kiện tại Tòa án.

Trích dẫn tác phẩm hợp lý là trích dẫn tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để bình luận hoặc minh họa trong tác phẩm của mình. Trong đó, phần trích dẫn chỉ nhằm mục đích giới thiệu, bình luận hoặc làm sáng tỏ vấn đề được đề cập trong tác phẩm của mình được quy định tại điển đ khoản 1 Diều 25 của Luật Sở hữu trí tuệ hiện hành.

Theo Điều 29 của nghị định, trong hoạt động tại thư viện khi sử dụng tác phẩm mà không nhằm mục đích thương mại trong đó bao gồm việc sao chép tác phẩm lưu trữ trong thư viện để bảo quản tác phẩm, công trình NCKH với điều kiện bản sao chép này phải được đánh dấu là bản sao lưu trữ trên tác phẩm sao chép. Trong đó cũng có sự giới hạn về đối tượng tiếp cận theo quy định của pháp luật của thư viện hoặc nơi lưu trữ. Luận văn: Pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm.

Đây là những quy định giới hạn QTG và những hạn chế được quy định trong hoạt động tổ chức thu phát sóng tác phẩm đã công bố. Nguyên tắc của luật SHTT nói riêng và pháp luật nói chung đều hướng tới việc đảm bảo cân bằng về quyền, lợi ích của các bên, trong luật SHTT thì chủ sở hữu QTG với lợi ích của xã hội. Vì vậy, ngoài quy định “độc quyền” sao chép của chủ sở hữu QTG thì pháp luật còn quy định những hạn chế về QTG đối với quyền sao chép. Theo quy định Công ước Berne: “ Luật pháp của các quốc gia khi là thành viên của Công ước Berne thì sẽ có quyền cho phép sao chép hoặc in các tác phẩm trong một số trường hợp đặc biệt. Tuy nhiên việc sao chép hoặc in các tác phẩm đó không được phương hại đến việc khai thác bình thường tác phẩm hoặc không gây ra thiệt hại cho những quyền lợi hợp pháp của tác giả.

Chính vì vậy thì đã hạn chế QTG phải thoả mãn một trong hai điều kiện sau: Sự sao in không gây hại đến việc khai thác tác phẩm và sự sao in không gây thiệt hại bất chính đến quyền lợi hợp pháp của chủ sở hữu QTG.

1.3.5. Các hành vi xâm phạm quyền tác giả đối với tác phẩm khoa học tại các trường đại học

Hành vi xâm phạm QTG được hiểu là hành vi không tôn trọng những quyền mà pháp luật đã quy định cho tác giả. Xác định các hành vi xâm phạm QTG và xử lý hành vi vi phạm đó là một nội dung quan trọng khi tiến hành bảo hộ QTG. Xâm phạm QTG là hành vi xâm phạm bất kỳ một quyền được bảo hộ của tác giả hoặc chủ sở hữu TPKH được bảo hộ. Hiện nay, trên thực tế tình trạng xâm phạm QTG tại các trường ĐH diễn ra khá phổ biến mà đặc biệt là các trường hợp sao chép, sử dụng tác phẩm mà không có sự cho phép của tác giả. Luật SHTT Việt Nam được sửa đổi, bổ sung năm 2022 đã làm rõ hơn các hành vi vi phạm đến QTG và các quyền liên quan. Theo Điều 28 Luật SHTT hiện hành có quy định về các hành vi xâm phạm QTG ban đầu có 16 khoản, sau đó được rút gọn cô đọng, súc tích thành 8 khoản nhưng vẫn đầy đủ và bao quát được nội dung. Ví dụ như tại khoản 1 “chiếm đoạt QTG đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học”, khoản 2 “mạo danh tác giả”, khoản 3 “Công bố, phân phối tác phẩm mà không được phép của tác giả”, … đều được gộp lại trong khoản 1 và 2 của luật mới là “xâm phạm quyền nhân thân và quyền tài sản của tác giả”. Bên cạnh đó, các điều khoản tại Điều 35 về hành vi xâm phạm quyền liên quan đều được bổ sung và giải thích cụ thể và rõ ràng hơn. Việc thể hiện sự phát triển và hoàn thiện của luật nhằm điều chỉnh kịp thời những vấn đề mới phát sinh. Trong môi trường giáo dục ĐH không thể tránh khỏi việc vi phạm QTG đối với các TPKH ở những mức độ và hình thức biểu hiện khác nhau. Có thể hiểu hành vi vi phạm QTG là những hành vi gây ra phương hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của tác giả hay chủ sở hữu QTG mà được pháp luật bảo vệ. Qua đó, đối với các TPKH thông thường sẽ có những hành vi vi phạm sau đây: Luận văn: Pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm.

  • Hành vi xâm phạm quyền nhân thân đối với tác phẩm khoa học trong trường đại học
  • Hành vi sửa chữa, cắt xén, xuyên tạc tác phẩm khoa học

Theo công ước Berne “Độc lập với quyền kinh tế của tác giả và cả sau khi quyền này đã được chuyển nhượng, tác giả vẫn giữ nguyên quyền được đòi thừa nhận mình là tác giả của tác phẩm và phản đối bất kỳ sự xuyên tạc, cắt xén hay sửa đổi hoặc những vi phạm khác đối với tác phẩm có thể làm phương hại đến danh dự và tiếng tăm tác giả”. Ngoài ra, tại khoản 4 Điều 19 Luật SHTT hiện hành có quy định “… không cho người khác xuyên tạc; không cho người khác sửa đổi, cắt xén tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.” Như vậy, mọi hành vi sửa chữa, cắt xén tác phẩm mà không có sự đồng ý của tác giả đều là hành vi xâm phạm đến quyền nhân thân của tác giả. Việc sửa chữa các TPKH như bài giảng, đề tài nghiên cứu khoa học là hành vi thay đổi câu từ hoặc có thể là một đoạn bằng việc sử dụng câu từ có nghĩa tương tự hoặc khác biệt hoàn toàn. Hiện nay, việc sao chép và tải lên mạng các TPKH của các trường ĐH có thể được thực hiện dễ dàng bởi sự phát triển mạnh mẽ của mạng internet. Mỗi bộ phận của TPKH khi được đăng tải đều có thể dễ dàng bị chỉnh sửa cả về nội dung lẫn hình thức của tác phẩm. Việc chỉnh sửa này, nhất là đối với các tác phẩm từ hoạt động nghiên cứu có thể sẽ ảnh hưởng đến nhận thức của công chúng về tác phẩm.,.

  • Hành vi công bố trái phép tác phẩm khoa học

Công bố là là việc phát hành tác phẩm đến công chúng với số lượng bản sao hợp lý để đáp ứng nhu cầu của công chúng tùy theo bản chất của tác phẩm, do tác giả hoặc chủ sở hữu QTG thực hiện hoặc do cá nhân, tổ chức khác thực hiện với sự đồng ý của tác giả hoặc chủ sở hữu QTG. Việc công bố trái phép TPKH có thể hiểu là hoạt động cung cấp trái pháp luật cho người khác có thu phí hoặc không thu phí. Pháp luật Việt Nam quy định tại khoản 1 Điều 28 Luật SHTT thì hành vi công bố tác phẩm mà không được phép của tác giả thì được xem là hành vi xâm phạm QTG. Đây là quyền nhân thân gắn với tài sản và có thể chuyển giao. Tác giả hoặc chủ sở hữu QTG có quyền công bố hoặc không công bố tác phẩm của mình mà không ai có thể ngăn cản. Thực tế hiện nay, có rất nhiều trang mạng xã hội không thuộc các cơ sở giáo dục ĐH có buôn bán các tài liệu như khóa luận tốt nghiệp, luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ, bài viết của tác phẩm nghiên cứu khoa học. Gần đây, tại trường ĐH Cần Thơ có rất nhiều luận văn của trường bị rao bán tại các trang web trên mạng với giá từ 15.000 đồng đến 38.000 đồng. Việc sinh viên tham khảo tài liệu để học tập và nghiên cứu khoa học là đúng theo quy định, nhưng khi tài liệu đó bị vi phạm bản quyền để trục lợi thì cần làm rõ và xử lý nghiêm. Hiện nay, đã quy định rõ những mức phạt đối với các web đăng tải luận văn hay luận án mà không có sự cho phép của tác giả, việc các website đăng và rao bán luận văn trên mạng có thể bị xử lý theo quy định. Cho đến nay, có không ít trang web được lập ra chuyên để mua bán tài liệu mà không hề bị kiểm tra, xử phạt, điều nay gây ảnh hưởng nhiều đến lợi ích tác giả, chủ sở hữu QTG tại các trường ĐH Luận văn: Pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm.

  • Hành vi xâm phạm quyền tài sản đối với tác phẩm khoa học tại các trường đại học
  • Hành vi sao chép tác phẩm không đúng quy định tại các trường đại học

Theo Công ước Berne: “Tác giả có các tác phẩm văn học, nghệ thuật được Công ước này bảo hộ, được hưởng độc quyền cho phép sao in các tác phẩm đó dưới bất kỳ phương thức hay hình thức nào”. Cũng theo Luật số 07/2022/QH15 có quy định “Sao chép là việc tạo ra bản sao của toàn bộ hoặc một phần tác phẩm hoặc bản ghi âm, ghi hình bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào”. Sao chép TPKH là một trong các quyền tài sản độc quyền của chủ sở hữu QTG trừ trường hợp ngoại lệ được quy định tại Điều 25 Luật SHTT hiện hành, mọi hành vi sao chép đều phải được sự đồng ý của tác giả, chủ sở hữu QTG. Tuy nhiên, nếu mục đích của việc sao chép là nhằm NCKH, giảng dạy của cá nhân hoặc sao chép tác phẩm để lưu trữ trong thư viện với mục đích nghiên cứu, không nhằm mục đích thương mại thì không phải xin phép. Bên cạnh đó, để đảm bảo quyền ngoại lệ này là hợp pháp, việc sao chép không được làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường tác phẩm, không gây phương hại đến các quyền của tác giả, chủ sở hữu QTG; phải thông tin về tên tác giả và nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm. Hiện nay, hành vi sao chép tác phẩm đã được phổ biến từ lâu đời thông qua việc phát triển của công nghệ in ấn, việc sao chép trái phép tác phẩm sẽ làm tác giả, chủ sở hữu QTG mất lợi nhuận từ việc khai thác tác phẩm. Do đó, các trường ĐH đã cố gắng để bảo vệ tốt nhất QTG đối với các thành quả sáng tạo của nhà trường như nghiêm cấm sinh viên sử dụng các tài liệu. Giáo trình, sách chuyên khảo với hình thức photocopy và in lậu. Nhà trường đã có những biện pháp cứng rắn xử lý nhằm răn đe các hành vi xâm phạm QTG. Cụ thể vào năm 2017 vụ việc sinh viên N.A đưa vào trường 8 quyền giáo trình photocopy – đây là vi phạm bản quyền điển hình cho hành vi xâm phạm QTG trong việc sao chép tác phẩm.

  • Hành vi trích dẫn không hợp lý

Hầu như mỗi trường ĐH đều có quy định về hành vi trích dẫn riêng để ngăn chặn sinh viên vi phạm về QTG. Trích dẫn được xem là một trong những việc rất quan trọng, do đó các TPKH sử dụng thông tin của người khác mà không ghi rõ nguồn trích dẫn thì được xem là hành vi vi phạm. Hiện nay, pháp luật Việt Nam chưa có những điều khoản chi tiết xác định thế nào là hành vi vi phạm quy định trích dẫn tác phẩm. Theo đó, điểm b khoản 1 Điều 25 Luật SHTT quy định trích dẫn hợp lý tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để bình luận hoặc minh họa trong tác phẩm của mình. Để giải quyết vấn nạn này, một số trường ĐH đã sử dụng phần mềm để kiểm tra sự tương đồng. Trích dẫn một hoặc nhiều tác phẩm của người khác để hình thành tác phẩm của mình có dung lượng chiếm từ 30% nội dung tác phẩm trở lên (trường ĐH Kinh tế Luật – ĐH quốc gia TP. HCM, trường ĐH Khoa học xã hội và Nhân văn – ĐH quốc gia TP. HCM) dù có thực hiện đúng quy định về trích dẫn nguồn. Tại trường ĐH Luật TP. HCM, tỉ lệ này là 50%. Quy định này không áp dụng đối với trích dẫn hợp lý tác phẩm.

  • Hành vi đạo văn Luận văn: Pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm.

Làm tác phẩm phái sinh mà không được phép của tác giả (Khoản 7 Điều 28 LSHTT hiện hành): Đây là trường hợp rất phổ biến với tên gọi là đạo văn. Đạo văn là một hành vi sử dụng một phần hoặc toàn bộ phần trình bày, bài viết, bài báo của người khác mà không trích dẫn nguồn gốc của tác phẩm. Theo một thống kê về nhận thức của sinh viên về hành vi đạo văn tại trường ĐH Huế thì cho ra kết quả 91,7% cho rằng từng nghe đến thuật ngữ “đạo văn”, 66,1% thừa nhận đã từng chép một câu/đoạn văn ngắn từ internet vào bài thi/tiểu luận/luận văn của mình nhiều hơn 2 lần ; 40,4% chép một đoạn hay câu trong bài của người khác vào bài của mình. Như vậy, đa số sinh viên đều nhận thức rõ các hình thức đạo văn nhưng vẫn có hành vi xâm phạm

1.3.6. Các biện pháp bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm khoa học tại các trường đại học

Các biện pháp bảo vệ QTG là những biện pháp giúp ngăn ngừa và xử lý hành vi xâm phạm QTG đối với các TPKH tại các trường ĐH. Các biện pháp bảo hộ QTG được chia thành hai loại là chủ thể tự tiến hành các biện pháp bảo vệ và cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện bảo hộ QTG bằng các biện pháp dân sự, hình sự hoặc biện pháp hành chính

  • Chủ sở hữu quyền tác giả tự mình bảo vệ

QTG về bản chất là loại quyền dân sự. Vì vậy, pháp luật dân sự trao cho chủ thể quyền các biện pháp tự bảo vệ như chủ sở hữu quyền có thể tự mình thực hiện các biện pháp bảo vệ phù hợp nhằm ngăn cản các hành vi xâm phạm quyền sở hữu của mình

Biện pháp tự bảo vệ được thực hiện bởi chủ thể của QTG. Biện pháp tự bảo vệ xuất phát từ nguyên tắc tôn trọng, bảo vệ quyền dân sự được ghi nhận trong bộ luật dân sự. Quyền tự bảo vệ này quy định tại khoản 1, điều 164, Bộ luật Dân sự 2015 có quy định về việc chủ sở hữu có quyền tự bảo vệ tài sản của mình, ngăn chặn bất kỳ người nào có hành vi xâm phạm bằng những biện pháp không trái với quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, tại khoản 1, Điều 198 Luật SHTT khi tác giả phát hiện ra tài sản trí tuệ của mình bị xâm phạm thì có quyền yêu cầu bên xâm phạm chấm dứt hành vi, gỡ bỏ và xoá nội dung vi phạm, cả chính công khai, bồi thường thiệt hại. Chủ thể QTG có quyền sử dụng các biện pháp như áp dụng công nghệ, đưa ra các thông tin chỉ dẫn về căn cứ phát sinh, văn bằng bảo hộ, phạm vi, thời hạn bảo hộ và các thông tin khác về quyền sở hữu trí tuệ lên sản phẩm, phương tiện dịch vụ, nhằm thông báo rằng sản phẩm là đối tượng quyền sở hữu trí tuệ đang được bảo hộ và khuyến cáo người khác không được xâm phạm. Qua đó, tác giả của TPKH cũng có quyền yêu cầu cơ quan chức năng can thiệp hoặc có thể kiện ra toà án dân sự hoặc đòi bồi thường khi hành vi đã gây ra những thiệt hại về vật chất cũng như tinh thần cho mình. Điều 198 Luật SHTT, được sửa đổi bổ sung năm 2022 đã tăng cường hiệu quả bảo vệ QTG và các quyền liên quan, đặc biệt là trong môi trường công nghệ phát triển như hiện nay. Bên cạnh đó, Luật SHTT được sửa đổi bổ sung tại quy định này cũng góp phần nâng cao nhận thức của tác giả, chủ sở hữu QTG khi công bố tác phẩm của mình ra công chúng.

Một biện pháp khác thì chủ sở hữu QTG tự mình bảo vệ bằng việc đăng ký “quyền tác giả” là các phát minh, sáng kiến và sản phẩm nghiên cứu khoa học. Việc đăng ký QTG pháp luật không quy định là bắt buộc và cũng không phải là thủ tục hành chính bắt buộc để xác lập “quyền tác giả”, tuy nhiên khi xảy ra các tranh chấp, các bên có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh thời điểm phát sinh QTG. Bởi tổ chức, cá nhân đã được cấp Giấy chứng nhận đăng ký QTG không có nghĩa vụ chứng minh QTG thuộc về minh khi có tranh chấp, trừ trường hợp có chứng cứ ngược lại. Vì lý do đó, tác giả nên tự chủ động bảo vệ TPKH của mình bằng cách đăng ký QTG. Luận văn: Pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm.

Khi chủ thể QTG thực hiện các biện pháp tự bảo vệ tác phẩm của mình có ưu điểm là nhanh chóng, tránh làm cho vụ việc trở nên nghiêm trọng hơn, giảm thiểu sự tranh chấp tại Tòa án thì bên cạnh đó nhược điểm là không có tính quyền lực của nhà nước, dẫn đến nảy sinh sự thiệt hại do các bên có thể dùng sức mạnh của mình để áp đặt, ép buộc bên kia thực hiện theo yêu cầu của mình.

  • Biện pháp bảo vệ được thực hiện bởi các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
  • Chủ thể quyền tác giả thông qua tòa án áp dụng những biện pháp dân sự đối với người vi phạm.

Biện pháp dân sự là biện pháp do Tòa án thực hiện, được áp dụng để xử lý, giải quyết các tranh chấp hay xử lý các hành vi xâm phạm QTG theo yêu cầu của chủ thể quyền hoặc của tổ chức, cá nhân bị thiệt hại do hành vi xâm phạm gây ra. Thông qua tòa án, tác giả có quyền yêu cầu tòa án áp dụng những biện pháp dân sự đối với người vi phạm. Theo quy định tại Điều 202 của Luật SHTT hiện hành toà án sử dụng 5 biện pháp như:

Buộc của các cá nhân, tổ chức phải chấm dứt hành vi xâm phạm quyền SHTT của các cá nhân, tổ chức. Việc buộc chấm dứt hành vi xâm phạm QTG đối với TPKH là cấm bên vi phạm tiếp tục hành vi xâm phạm. Ví dụ như loại bỏ, xoá các TPKH của các trường ĐH bị đăng công khai trên các website mua bán. Quy định này phù hợp với quy định của Hiệp định TRIPS, theo đó, theo đó: “Các cơ quan xét xử phải có quyền ra lệnh chấm dứt hành vi xâm phạm nhằm, ngoài các mục đích khác, ngăn chặn hàng hoá nhập khẩu xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ vào lưu thông trong các kênh thương mại thuộc phạm vi quyền hạn của mình ngay sau khi hoàn thành thủ tục hải quan”.

Buộc người có hành vi xâm phạm phải thực hiện xin lỗi, cải chính công khai đối với những thông tin làm ảnh hưởng đến chủ thể của QTG đó trên các phương tiện thông tin đại chúng như báo giấy, báo điện tử, truyền hình, mạng internet.

Buộc người có hành vi xâm phạm phải thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với chủ thể QTG như phải trả thù lao, nhuận bút cho việc sử dụng tác phẩm đó kể từ thời điểm sử dụng. Việc các TPKH của các trường ĐH bị phát tán trong môi trường internet thì người có hành vi phát tán phải trả nhuận bút cho tác giả hoặc phải gỡ bỏ các tác phẩm đó.

Buộc phải bồi thường thiệt hại đối với các cá nhân, tổ chức vi phạm quyền SHTT. Thiệt hại ở đây bao gồm về vật chất và tinh thần. Theo đó, Luật SHTT quy định rằng người nào thực hiện các hành vi xâm phạm QTG dù cố ý hay không cố ý thì có nghĩa vụ phải bồi thường thiệt hại. Luận văn: Pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm.

Như vậy quy định của pháp luật về SHTT cho thấy rằng tác giả được trao nhiều biện pháp dân sự để được bảo vệ QTG của mình, tuy nhiên việc áp dụng các quyền này trong thực tế thì việc sử dụng các quy định tại Điều 22 của luật này vẫn còn nhiều bất cập và hạn chế. Hơn nữa, nếu được chấp nhận giải quyết bởi luật dân sự cũng không có sức răn đe mạnh với những vi phạm về QTG đối với tác phẩm nghiên cứu khoa học. Như trên tác giả đã trình bày thì việc đăng ký QTG đối với tác phẩm nghiên cứu khoa học là không bắt buộc và cũng không nhất thiết phải đăng ký QTG đổi với sản phẩm NCKH bởi lý do khi thực hiện chặt chẽ quá các QTG với sản phẩm là TPKH thì sẽ gây khó khăn cho việc tiếp cận kiến thức, tiếp cận sự sáng tạo khoa học. Từ đó sinh viên và giảng viên, những người nghiên cứu khoa học của các trường ĐH sẽ bị kìm hãm sự phát triển. Như vậy, đối với việc sử dụng biện pháp dân sự trong việc bảo vệ quyền sở hữu tác phẩm nghiên cứu khoa học chỉ mang tính tự vệ hơn là được bảo vệ đối với tác giả.

  • Chủ thể quyền tác giả thông qua cơ quan chức năng áp dụng những biện pháp xử phạt hành chính đối với người vi phạm.

Xử lý hành vi vi phạm QTG được điều chỉnh bởi Nghị định số 131/2013/NĐ- CP ngày 16/10/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính về QTG, quyền liên quan, được sửa đổi, bổ sung một số quy định về thẩm quyền xử phạt tại Nghị định số 28/2017/NĐ-CP ngày 20/3/2017 và Nghị định 129/2021/NĐ-CP ngày 30/12/2021 của Chính phủ. Qua đó, đã giúp cho công tác thi hành pháp luật và công tác thanh tra, kiểm tra các hoạt động bảo hộ QTG, quyền liên quan được tăng cường và thu được kết quả.

Căn cứ theo Điều 211 Luật Sở hữu trí tuệ thì cá nhân thực hiện một trong hai hành vi sau: Thứ nhất, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ gây thiệt hại cho tác giả, chủ sở hữu, người tiêu dùng hoặc cho xã hội. Thứ hai, sản xuất, nhập khẩu, vận chuyển, buôn bán hàng hóa giả mạo là loại hàng hóa sao chép lậu, bản sao được sản xuất mà không được phép của chủ sở hữu QTG hoặc chủ sở hữu quyền liên quan. Theo quy định hiện nay, hành vi sao chép tác phẩm mà không được phép của chủ sở hữu QTG bị phạt tiền từ mười lăm triệu đồng đến ba lăm triệu đồng. Cùng với hình thức xử phạt chính, chủ thể vi phạm còn bị buộc áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả là: phải dỡ bỏ bản sao vi phạm dưới các hình thức của công nghệ số, công nghệ thông tin và môi trường không gian mạng… và cuối cùng là thực hiện việc tiêu huỷ. Đối với việc áp dụng biện pháp hành chính, trong đó việc xử phạt theo các mức khác nhau bằng tiền, tuy nhiên mức phạt cũng chưa có tính răn đe đối với các vi phạm về SHTT. So với biện pháp dân sự được áp dụng trong việc xử lý cá nhân, tổ chức vi phạm quyền SHTT thì biện pháp xử phạt này được áp dụng nhanh chóng hơn, tuy nhiên cũng không triệt để hành vi vi phạm SHTT vì trong biện pháp dân sự có những quy định mang tính cưỡng chế cao như buộc tiêu hủy hoặc thu hồi sản phẩm vi phạm quyền SHTT. Mặc khác, quan hệ hành chính bản chất vẫn là việc sử dụng quyền lực nhà nước và bên bị xử lý vi phạm thì chủ thể là dân sự, mâu thuẫn trong việc xử lý bởi tính công bằng của luật pháp khi một bên chủ thể là nhà nước thực hiện là vi phạm bởi chủ thể dân sự. Do đó, thực hiện các biện pháp về tố tụng dân sự đối với các vi phạm thì đảm bảo được tình công bằng trong pháp luật hơn khi giải quyết vi phạm quyền SHTT.

  • Chủ thể quyền tác giả thông qua Toà án áp dụng những biện pháp hình sự để xử lý hành vi xâm phạm quyền tác giả.

Trong trường hợp xảy ra hành vi xâm phạm thì chủ thể QTG có quyền khởi kiện tại Toà án để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Theo đó, tại Điều 225 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã ghi nhận điều luật xử lý trực tiếp đối với hành vi xâm phạm QTG. Theo đó, cá nhân, tổ chức không được phép của chủ thể QTG mà đã cố ý thực hiện một trong các hành vi xâm phạm QTG bao gồm sao chép tác phẩm và phân phối bản sao tác phẩm đến công chúng thì sẽ bị xử lý về mặt hình sự như có thể bị phạt tù từ 06 tháng đến 05 năm tùy vào tính chất vụ việc.

Tại các trường ĐH giáo trình là một loại hình tác phẩm dược bảo hộ QTG. Bên cạnh đó, việc giáo trình bị các tổ chức, cá nhân tự ý sao chép và phân phối cho sinh viên diễn ra khá phổ biến. Tuy nhiên, hiện nay đối với các trường hợp vi phạm về QTG tại các trường ĐH chưa có trường hợp nào bị xử lý hình sự bởi trong môi trường ĐH đa số đề cao tính giáo dục, tuyên truyền ý thức về pháp luật hơn là sử dụng các biện pháp hình sự.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 Luận văn: Pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm.

Bảo hộ QTG được xem là yếu tố quan trọng trong việc khẳng định chất lượng của TPKH tại các trường ĐH. Bảo hộ QTG là hoạt động của các cơ quan, nhà nước, chủ thể QTG và các chủ thể liên quan sử dụng các biện pháp được pháp luật công nhận để phát hiện, ngăn chặn và xử lý các hành vi xâm phạm QTG

Pháp luật của các quốc gia trên thế giới nói chung và tại Việt Nam nói riêng đều quan tâm và điều chỉnh đến vấn đề bảo hộ QTG nhằm thực hiện ngăn cấm tình trạng xâm phạm QTG, quyền SHTT. Thông qua pháp luật của một số quốc gia như Hoa Kỳ, Vương Quốc Anh, Nhật Bản về QTG cho thấy có thêm những góc nhìn đa chiều về việc bảo hộ QTG. Việc pháp luật ghi nhận và bảo hộ QTG đối với TPKH tại các trường ĐH có ý nghĩa to lớn trong việc khuyến khích, thúc đẩy các hoạt động nghiên cứu sáng tạo nhằm tạo ra những sản phẩm có chất lượng, góp phần phát triển kinh tế- xã hội và nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp cũng như cải thiện đời sống cho người dân. Với sự phát triển của KHCN bùng nổ như hiện nay làm cho vấn đề bảo hộ QTG trở nên rất quan trọng và cần được quan tâm nhiều hơn bởi các TPKH được sáng tạo tại các trường ĐH có thể di chuyển đến khắp mọi nơi trên thế giới.

Những lý luận chung về bảo hộ QTG đối với các TPKH tại trường ĐH được trình bày ở Chương 1 sẽ là cơ sở cho việc đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật Việt Nam về bảo hộ QTG đối với TPKH, công trình NCKH tại các trường ĐH được trình bày tại Chương 2. Luận văn: Pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:  

===>>> Luận văn: Thực tiễn về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm

One thought on “Luận văn: Pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm

  1. Pingback: Luận văn: Thực tiễn về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Contact Me on Zalo
0906865464