Luận văn: Hoàn thiện về người đại diện theo pháp luật của DN

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Hoàn thiện về người đại diện theo pháp luật của DN hay nhất năm 2025 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thạc sĩ thì với đề tài Luận văn: Thực trạng thực hiện và kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.

3.1. Thực trạng thực hiện pháp luật Việt Nam về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp

Hiện nay, khi nền kinh tế-xã hội Việt Nam ngày càng phát triển, ngay cả “trong bối cảnh kinh tế thế giới chịu ảnh hưởng nặng nề bởi cuộc chiến Nga – Ukraine, giá năng lượng tăng vọt, người dân một số nước châu Âu phải cúp điện luân phiên; người dân Mỹ chứng kiến lạm phát cao kỷ lục, giá cả các mặt hàng leo thang… thì tình hình kinh tế Việt Nam ngay cả trong 2 năm đại dịch COVID – 19 đến nay vẫn giữ đà tăng trưởng ổn định”, “GDP năm 2023 ước tính tăng 5,05% so với năm trước”, nhu cầu thành lập DN cũng ngày càng gia tăng, cụ thể theo Tổng cục thống kê: “Tính chung trong năm 2023, cả nước có 217,7 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và quay trở lại hoạt động, tăng 4,5% so với năm trước; bình quân một tháng có 18,1 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động. Đây là tín hiệu đáng mừng, chứng tỏ các chính sách khuyến khích phát triển DN cả về số lượng và chất lượng của Chính phủ Việt Nam đang phát huy hiệu quả.

Tuy nhiên, trong khi đa phần các DN đã đăng ký kinh doanh đang hoạt động tích cực, lành mạnh, tuân thủ pháp luật và đóng góp không ít vào ngân sách Nhà nước, vào sự tiến bộ chung của đất nước thì ngược lại, tình trạng một số DN được thành lập với mục đích thực hiện các hoạt động phi pháp vẫn đang diễn ra đáng báo động. Những DN này thường có NĐDTPL là người được thuê nhưng thực chất lại hoàn toàn không tham gia vào hoạt động kinh doanh của DN mà chỉ là người ký tên trên giấy tờ. Một trong những vụ án có NĐDTPL là người được thuê gây tổn thất nặng nề, ảnh hưởng tiêu cực đến kinh tế – xã hội thời gian gần đây là vụ “lừa đảo chiếm đoạt tài sản, rửa tiền” xảy ra tại Công ty CP địa ốc Alibaba, gọi tắt là Công ty Alibaba, do Nguyễn Thái Luyện và các đồng phạm thực hiện. “Theo cáo trạng, Nguyễn Thái Luyện lập 22 công ty trực thuộc và giao những người thân tín đứng tên để mua một số lượng lớn đất nông nghiệp; tự vẽ ra 58 dự án lừa bán cho khách hàng. Hay như vụ án về đường dây mua bán hoá đơn lên đến 1.000 tỷ đồng; thu lời hàng chục tỷ đồng mỗi tháng. “Từ khoảng năm 2017, các đối tượng mua lại pháp nhân nhiều công ty với giá từ 15.000.000 đồng- 20.000.000 đồng/ 1 công ty, sử dụng CCCD, CMND của người khác để đứng tên giám đốc, ký giả chữ ký giám đốc để quản lý hồ sơ pháp nhân, con dấu công ty, hóa đơn GTGT, biến các công ty này thành công ty “ma”. Sau đó, không tổ chức hoạt động kinh doanh mà chỉ dùng để mua bán trái phép hóa đơn GTGT thu lợi bất chính.

Mặc dù LDN năm 2020 có quy định rõ về định nghĩa NĐDTPL của DN và trách nhiệm của NĐDTPL của DN tại Điều 12 và Điều 13; quy định về việc DN bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh trong trường hợp nội dung kê khai trong hồ sơ đăng ký DN là giả mạo theo Điều 212 và sẽ bị xử phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng (Điều 43 Nghị định số 122/2021/NĐ-CP), nhưng tình trạng thành lập những DN có NĐDTPL là người được thuê như trên vẫn diễn ra, thậm chí ngày càng tinh vi hơn. Phải chăng do các biện pháp xử phạt, chế tài chưa đủ sức răn đe hay các cơ quan có thẩm quyền quản lý chưa chặt chẽ. Trên thực tế, các cơ quan đăng ký kinh doanh hầu như không thể kiểm tra được tính trung thực của hồ sơ đăng ký doanh nghiệp, nhất là những thông tin về NĐDTPL của DN ngoại trừ giấy tờ tuỳ thân của NĐDTPL, trong khi đó theo quy định của khoản 1 Điều 4 Nghị định số 01/2021/NĐ-CP ngày 04/01/2021 thì người thành lập DN phải “chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính hợp pháp, trung thực và chính xác của các thông tin kê khai trong hồ sơ đăng ký DN và các báo cáo.

Ngoài ra, có một thực tế là hiện nay pháp luật Việt Nam quy định về NĐDTPL của DN theo hướng phân tách giữa chức năng quản lý và chức năng ĐD. Thực tiễn xét xử cũng cho thấy Toà án, các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng khác nhận định rõ trách nhiệm của chủ sở hữu và của NĐDTPL của DN. Điển hình như trong đại án Cty Alibaba, Tòa án đã tuyên Nguyễn Thái Luyện phải chịu trách nhiệm cho cả những sai phạm diễn ra tại các công ty do Luyện làm NĐDTPL và tại các công ty khác do người khác làm NĐDTPL nhưng có phần vốn góp của Cty Alibaba vì Tòa xác định Luyện đóng vai trò chủ mưu, xuyên suốt. Về vần đề này, có ý kiến cho rằng: “Tòa án có thể xem xét bỏ qua tư cách pháp nhân của công ty để buộc những người chủ công ty đã lợi dụng vỏ bọc công ty phải chịu trách nhiệm về những thiệt hại do hành vi sai trái của mình gây ra, được gọi là cơ chế “xuyên qua màn che công ty” (“piercing the corporate veil”). Luận văn: Hoàn thiện về người đại diện theo pháp luật của DN.

Một vấn đề khác cũng đáng lưu tâm khi xem xét thực trạng thực hiện pháp luật Việt Nam về NĐDTPL của DN là tình trạng thuê người có đủ điều kiện để đứng tên làm NĐDTPL của DN hoạt động trong những ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện. Điển hình như vụ án Cty luật TNHH Pháp Việt, “các bị can không có văn bằng chuyên ngành luật, mà chỉ thuê một người đủ điều kiện đứng tên đăng ký pháp nhân công ty”. Bên cạnh đó, chính bản thân của những NĐDTPL này cũng chịu nhiều rắc rối thậm chí là trách nhiệm hình sự chỉ vì nhẹ dạ mà đứng tên là NĐDTPL thay người khác. Bởi vì tuy không thực sự điều hành DN nhưng về mặt pháp luật thì họ vẫn phải chịu trách nhiệm đối với hoạt động kinh doanh của DN. Ngược lại, lại có hiện tượng một số cá nhân bị người khác lấy danh tính mình để đăng ký làm NĐDTPL của DN mà bản thân người đó không hề hay biết. Ví dụ như tham khảo vụ án hình sự về tội “ Mua bán trái phép hoá đơn, chứng từ thu nộp ngân sách Nhà nước” tại Bản án hình sự sơ thẩm số 31/2020/HS-ST ngày 08/5/2020 của Toà án nhân dân TP. Hải Phòng. Theo các tài liệu lưu trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại Toà, bị cáo Đào Thị Hồng N, sinh năm 1986 đã bán trái phép các hoá đơn GTGT ghi khống nội dung, thực chất không có hàng hoá dịch vụ kèm theo cho nhiều công ty. Trong đó, Công ty TNHH NN, mã số thuế 0201909691 do Lại Thị V, sinh năm 1979, đứng tên làm giám đốc là một trong những công ty đã mua hoá đơn của N. Tuy nhiên, Lại Thị V đã khai với cơ quan điều tra là hoàn toàn không biết gì về Công ty TNHH NN và hoạt động của công ty này đồng thời cũng không biết về việc bản thân đứng tên làm giám đốc công ty này. Cụ thể, Lại Thị V khai vào khoảng tháng 9, tháng 10/2018, khi V đang ở hành lang Bệnh viện đa khoa huyện Thủy Nguyên thì có 01 nam giới khoảng 40 tuổi giới thiệu tên là Tuấn hỏi mượn căn cước công dân và sổ hộ khẩu của V để đi photo rồi anh ta sẽ cho 04 triệu đồng. Lúc đó, V hỏi để làm gì nhưng người này chỉ trả lời có việc cần, do cần tiền để chữa bệnh cho chồng nên V đã đồng ý. Sau đó, V về nhà lấy căn cước công dân và sổ hộ khẩu cho anh ta mượn, anh ta cầm đi khoảng 30 phút thì trả lại V. Anh ta không đưa cho V ký vào bất kỳ giấy tờ nào và cũng không bảo V đi cùng anh ta đến trụ sở, cơ quan nào. Qua đây, làm dấy lên lo ngại về nguy cơ lợi dụng sự thông thoáng của pháp luật để kinh doanh trục lợi từ danh tính của người khác khi mà pháp luật Việt Nam chưa quy định về việc đăng ký một cá nhân làm NĐDTPL của DN thì bắt buộc phải thể hiện sự đồng ý của chính bản thân người đó. Và mặc dù Điều 23 LDN năm 2020 và khoản 3, khoản 4 Điều 24 LDN năm 2020 đều có quy định điều lệ công ty khi đăng ký DN hoặc lúc được sửa đổi, bổ sung phải bao gồm họ, tên và chữ ký của NĐDTPL nhưng lại chưa có quy định nào hướng dẫn cơ chế giúp xác định tính xác thực của chữ ký đó cũng như ý chí của người được chọn làm NĐDTPL của doanh nghiệp. Luận văn: Hoàn thiện về người đại diện theo pháp luật của DN.

Song song đó, do pháp luật hiện hành nhận định NĐDTPL của DN phải là cá nhân thay mặt DN thực hiện các quyền và nghĩa vụ của DN trong suốt quá trình hoạt động của DN nên việc xác định ai là NĐDTPL hợp pháp của doanh nghiệp; hay thẩm quyền của NĐDTPL ra sao để có thể nhân danh DN thực hiện giao dịch hoặc tham gia tố tụng hay không là vấn đề được quan tâm hàng đầu. Thế nhưng thực tế chỉ ra rằng, không ít trường hợp Giấy CNĐKDN bị hủy hoặc bị thu hồi do quy trình bổ nhiệm và đăng ký hoặc thay đổi NĐDTPL của DN chưa tuân thủ theo quy định của pháp luật, từ đó cũng ảnh hưởng đến tính pháp lý của những giao dịch, hoạt động mà NĐDTPL đã tiến hành. Đây là hệ quả từ các vụ tranh chấp giữa các thành viên công ty về vấn đề lựa chọn NĐDTPL đồng thời gắn liền với những tranh chấp về việc thực hiện những quyền lợi chính đáng cùng với trách nhiệm, nghĩa vụ phải thực hiện giữa các thành viên, cổ đông trong công ty.

Đơn cử như Bản án sơ thẩm số 26/2022/DS-ST ngày 28-4-2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam về khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính thu hồi Giấy Chứng nhận đăng ký doanh nghiệp (GCNĐKDN) (TAND tỉnh Quảng Nam). Trong vụ kiện này, người khởi kiện là Ông Đào Duy T, sinh năm 1981; địa chỉ cư trú: thành phố Đà Nẵng đã khởi kiện người bị kiện là P.ĐKKD-SKHĐT tỉnh Quảng Nam, người ĐD theo pháp luật: Ông Huỳnh Văn M – Chức vụ: Trưởng phòng Phòng ĐKKD, về việc cấp GCNĐKDN CTCP(đăng ký Thay đổi lần thứ nhất vào ngày 23-4-2021) (GCNĐKDN thay đổi lần 1) đối với Công ty CP ĐT- XDHT Quảng Nam. Người khởi kiện yêu cầu Toà án: Hủy GCNĐKDN thay đổi lần thứ nhất đối với Công ty CP ĐT – XDHT Quảng Nam. Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 26/2022/DS-ST ngày 28-4-2022, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam (TAND tỉnh Quảng Nam) quyết định: chấp nhận yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện là ông Đào Duy T. Sau đó, ngày 09-5-2022, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Thị Hoài S, sinh năm 1976; địa chỉ cư trú: tỉnh Quảng Nam kháng cáo toàn bộ bản án. Tại phiên tòa phúc thẩm ngày 23-8-2022, người kháng cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm bác yêu cầu khởi kiện của ông Đào Duy T; người bị kiện đề nghị bác yêu cầu của người người khởi kiện; người ĐD theo uỷ quyền của người khởi kiện đề nghị không chấp nhận kháng cáo của bà Nguyễn Thị Hoài S. Sau khi xem xét các vấn đề về tố tụng, về nội dung vụ án, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy P.ĐKKD-SKHĐT tỉnh Quảng Nam căn cứ các tài liệu, chứng cứ do bà Nguyễn Thị Hoài S cung cấp trong khi thủ tục triệu tập cuộc họp Đại hội đồng cổ đông không đúng quy định, dẫn đến mất quyền dự họp Đại hội đồng cổ đông của ông Đào Duy T theo Điều 144 của LDN năm 2020 và không xem xét tính hợp pháp của biên bản và nghị quyết Đại hội đồng cổ đông, từ đó ban hành Giấy chứng nhận đăng ký DN số 4001121332, đăng ký lần đầu ngày 14-9- 2017, đăng ký thay đổi lần thứ 1 ngày 23-4-2021, nội dung thay đổi NĐDTPL từ ông Đào Duy T sang NĐDTPL là bà Nguyễn Thị Hoài S là không đúng quy định của pháp luật, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của cổ đông là ông Đào Duy T và Công ty CP ĐT – XDHT Quảng Nam. Do vậy, tại Bản án phúc thẩm số: 215/2022/HC-PT ngày 23-8-2022 V/v thu hồi GCNĐKDN của Toà án Nhân dân tại Đà Nẵng (TANDCC tại Đà Nẵng) xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số 116/2022/TLPT-DS ngày 22-6-2022, Hội đồng xét xử phúc thẩm quyết định bác kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Thị Hoài S; tuyên giữ nguyên Bản án hành chính sơ thẩm số 26/2022/HCST ngày 28-4-2022 của TAND tỉnh Quảng Nam. Luận văn: Hoàn thiện về người đại diện theo pháp luật của DN.

Có thể thấy việc không nắm vững và không thực hiện đầy đủ các quy định pháp luật về DN nói chung và về NĐDTPL của doanh nghiệp nói riêng thường là nguyên nhân chủ yếu của các tranh chấp về bổ nhiệm, miễn nhiệm NĐDTPL của doanh nghiệp. Nếu không được phân xử xác đáng, các tranh chấp như vậy sẽ kéo dài, gây thiệt hại không nhỏ cho doanh nghiệp, nhất là lãng phí những cơ hội kinh doanh của DN trong thời gian xảy ra tranh chấp. Do trong thời gian xét xử các tranh chấp này thì DN sẽ không có ai đảm nhiệm vai trò NĐDTPL của DN để thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh tử giao dịch của doanh nghiệp, ĐD cho DN các hoạt động khác trong khuôn khổ luật định. Mặc dù vậy, trong những trường hợp tranh chấp trên thì việc xác định thiệt hại của doanh nghiệp, quy trách nhiệm và đền bù tổn thất cho DN từ những người có hành vi gây thiệt hại đó lại khó mà thực hiện được. Lý do là các thiệt hại như vậy là hầu như không thể tính toán chính xác được, bao gồm cả tổn thất về mặt vật chất như chi phí tranh tụng, chi phí cơ hội,…lẫn tổn thất vô hình về mặt hình ảnh, danh tiếng của doanh nghiệp. Trong khi đó luật cũng chưa có quy định cụ thể về cơ chế xử phạt những hành vi gây thiệt hại cho DN trong các trường hợp như trên.

Một thực trạng cũng rất đáng báo động là một số NĐDTPL lợi dụng chức vụ, địa vị của mình sử dụng trái phép tài sản của công ty để trục lợi cho bản thân, gây thiệt hại không nhỏ cho doanh nghiệp, cho các cổ đông góp vốn. Điển hình như Bản án số 32/2019/HSST ngày 21,22/01/2019 của Toà án Nhân dân Thành phố Hà Nội (TAND TP.Hà Nội) xét xử công khai vụ án hình sự các bị cáo Vũ Mạnh T, Nguyễn Hoài G, Phạm Xuân Q và Đinh Văn N phạm tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản. Theo nhận định của TAND TP.Hà Nội, các bị cáo đã lợi dụng vai trò của mình là lãnh đạo Công ty Cổ phần Lọc hoá dầu Bình Sơn (Cty BSR) từ năm 2013 đến năm 2014 mà quyết định đem tiền của Cty BSR gửi vào ngân hàng Đại Dương để chiếm đoạt tiền lãi suất ngoài hợp đồng do Nguyễn Minh T, Tổng Giám đốc ngân hàng Đại Dương chi, tổng số tiền mà các bị cáo nhận được là hơn 10 tỷ đồng. Hội đồng xét xử cho rằng hành vi của các bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, đã lạm dụng quyền hạn, sử dụng tài sản của công ty để tư lợi một số tiền lớn để bỏ túi riêng, gây ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động kinh doanh chính đáng của Cty BSR cũng như tác động không tốt đến việc thực hiện chính sách tài chính – tiền tệ của Nhà nước. Mặc dù, các bị cáo trên đều đã phải nhận những hình phạt xác đáng dành cho hành vi phạm tội của mình nhưng cũng để lại những tổn thất khó mà bù đắp cho Cty BSR. Đáng ra số tiền của Cty BSR mà các bị cáo đem gửi vào ngân hàng Đại Dương phải được dùng vào các mục đích chính đáng phục vụ hoạt động kinh doanh của công ty để sinh lời.

Một số NĐDTPL của doanh nghiệp lớn dù biết luật lại cố tình vi phạm pháp luật. Thí dụ như vụ đại án xảy ra tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đông Á (DAB) do Trần Phương B và các đồng phạm thực hiện. Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 470/2020/HS-ST ngày 27/11/2020 và sau đó tại Bản án hình sự phúc thẩm số 41/2022/HSPT ngày 14/01/2022, Toà án Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã ra quyết định tuyên Trần Phương B và các đồng phạm khác đã phạm tội “Vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng” và tội “Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản”. Hành vi phạm tội của Trần Phương B và các đồng phạm trong một thời gian dài, từ năm 2007 đến năm 2013, đã gây thiệt hại cho DAB số tiền gần 9000 tỷ đồng, hậu quả là DAB tại thời điểm ngày 31/12/2015 bị lỗ luỹ kế hơn 31 tỷ đồng, vốn chủ sở âm hơn 25 tỷ đồng, tổng tài sản thực của DAB chỉ còn hơn 47 tỷ đồng.

Thiết nghĩ cần có thêm quy định cụ thể để nâng cao hơn nữa năng lực giám sát NĐDTPL, hạn chế trường hợp NĐDTPL phạm tội nhằm hạn chế tối đa thất thoát tài sản của doanh nghiệp đồng thời cũng giúp doanh nghiệp phát triển an toàn.

3.2. Đánh giá tình hình thực hiện pháp luật Việt Nam về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp Luận văn: Hoàn thiện về người đại diện theo pháp luật của DN.

Thực tiễn thực hiện pháp luật Việt Nam về NĐDTPL của doanh nghiệp cho thấy vẫn hiện diện không chỉ một mà nhiều điểm gút mắc cần được phân tích, nghiên cứu nhằm tìm ra các giải pháp pháp lý khả dĩ nhằm hoàn thiện pháp luật về NĐDTPL của DN.

  • Về vấn đề chấp thuận làm đại diện của NĐDTPL của DN

Pháp luật về NĐDTPL của DN hiện hành chỉ quy định theo hướng thể hiện sự quyết định của DN hay người thành lập DN trong việc lựa chọn NĐDTPL cho doanh nghiệp, hay nói cách khác chỉ là ý chí của bên được ĐD mà chưa có quy định nào về sự đồng thuận của cả hai bên ĐD và bên được ĐD hoặc về sự đồng ý, chấp thuận của người được chọn làm NĐDTPL của doanh nghiệp. Tuy Điều 23 LDN năm 2020 cùng với Khoản 3 và Khoản 4 Điều 24 LDN năm 2020 đều có quy định điều lệ công ty khi đăng ký DN hoặc lúc được bổ sung hay sửa đổi phải bao gồm họ, tên và chữ ký của NĐDTPL nhưng đó chỉ là một trong các nội dung được đăng ký, không thể hiện được sự ưng thuận của NĐDTPL đồng thời các cơ quan đăng ký kinh doanh cũng không thể kiểm chứng tính xác thực của chữ ký đó do luật không bắt buộc NĐDTPL của DN phải trực tiếp ký trước mặt cơ quan đăng ký kinh doanh. Hậu quả là một số cá nhân bỗng nhiên “được” làm NĐDTPL của DN trong khi bản thân họ không hề hay biết và phải chịu ảnh hưởng tiêu cực đến công việc làm ăn, uy tín của họ.

  • Về trách nhiệm pháp lý của NĐDTPL của DN

Hiện nay, để phát triển kinh tế-xã hội, Đảng và Nhà nước ta khuyến khích và hỗ trợ phát triển doanh nghiệp. Theo LDN năm 2020, mọi cá nhân, tổ chức không nằm trong danh sách những đối tượng bị cấm thành lập DN đều có quyền thành lập và quản lý DN trong tất cả các ngành, nghề và lĩnh vực mà pháp luật không cấm kể cả các ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện. Một trong những nghĩa vụ mà DN cần hoàn thành là phải đáp ứng đầy đủ điều kiện khi kinh doanh ngành, nghề có điều kiện và nhất thiết cần bảo tồn đủ điều kiện đó trong cả quá trình hoạt động kinh doanh của DN (Điều 8 LDN năm 2020).

Song, LDN năm 2020 lại chưa có quy định về trách nhiệm của NĐDTPL trong trường hợp DN kinh doanh ngành, nghề có điều kiện. Thiết nghĩ NĐDTPL là “người phát ngôn” của DN, có trách nhiệm thay mặt DN thực hiện các quyền lợi cùng các nghĩa vụ của DN nên việc bổ sung nghĩa vụ, trách nhiệm của NĐDTPL để DN đáp ứng đủ điều kiện khi kinh doanh ngành, nghề có điều kiện là cần thiết.

Ngoài ra, trong các quy định về trách nhiệm của NĐDTPL của DN tại Điều 13 LDN năm 2020, cũng không nói về trách nhiệm của NĐDTPL trong việc phải tuân thủ pháp luật bên cạnh việc trung thành với quyền lợi chính đáng của doanh nghiệp. Bởi vì NĐDTPL của DN là đối tượng được phép thay mặt DN theo luật định nên việc nghiêm túc tuân thủ pháp luật là trách nhiệm hàng đầu cần phải có của NĐDTPL. Luận văn: Hoàn thiện về người đại diện theo pháp luật của DN.

  • Về bảo vệ bên thứ ba ngay tình trong giao dịch với NĐDTPL của DN:

Điều 142 BLDS năm 2015 đã quy định rõ quyền, nghĩa vụ nảy sinh từ giao dịch dân sự do người không có quyền ĐD xác lập, thực hiện sẽ không có giá trị đối với người được ĐD, ngoại trừ trường hợp người được ĐD đã thừa nhận giao dịch đó; hoặc đã qua thời hạn hợp lý mà người được đại diện dù biết nhưng vẫn không phản đối; hoặc người được ĐD là người gây ra sai lầm dẫn đến người đã giao dịch không biết hay không thể biết về việc người đã xác lập, thực hiện giao dịch với mình không có quyền ĐD. Tuy nhiên, việc chứng minh DN đã công nhận giao dịch hoặc lỗi thuộc về DN trên thực tế là không đơn giản. Và thời hạn hợp lý để được xem là người được ĐD biết mà không phản đối cũng khó mà thống nhất giữa các bên tham gia giao dịch.

3.3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp

  • Về khái niệm người ĐDTPL của DN

Có thể khẳng định chế định NĐDTPL của DN là một chế định đặc thù của pháp luật về kinh tế Việt Nam mà đa số các nước khác trên thế giới không có khái niệm về chế định này. Do vậy, việc xây dựng khái niệm về NĐDTPL của DN có những điểm riêng biệt cần chú ý nhằm thống nhất với các điều luật của BLDS năm 2015 về ĐD vừa phù hợp với pháp luật các nước khác, tập quán, thông lệ quốc tế trong bối cảnh càng ngày càng thêm nhiều các nhà đầu tư nước ngoài chọn Việt Nam để khởi nghiệp kinh doanh.

Cụ thể, khoản 1 Điều 12 LDN năm 2020 cần bổ sung thêm chủ thể có thể làm NĐDTPL của DN là pháp nhân hoặc tổ chức khác không có tư cách pháp nhân và thêm chức năng xác lập giao dịch của NĐDTPL của doanh nghiệp.

Trường hợp NĐDTPL của DN là pháp nhân hoặc tổ chức khác không có tư cách pháp nhân thì pháp nhân hoặc tổ chức đó thực hiện chức năng đại diện thông qua người ĐD theo uỷ quyền của pháp nhân hoặc tổ chức đó.

Sở dĩ nên có quy định như trên là để bảo toàn nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của tất cả những đối tượng đã góp vốn vào công ty cho dù là cá nhân hay tổ chức. Luận văn: Hoàn thiện về người đại diện theo pháp luật của DN.

Về NĐDTPL của các DN là tổ chức bổ trợ tư pháp: Từ phân tích quy định của các luật chuyên ngành về NĐDTPL của các DN là tổ chức bổ trợ tư pháp, kiến nghị cơ quan chức năng xem xét, nghiên cứu quy định về NĐDTPL của các DN hoạt động trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp để vừa tương thích với LDN năm 2020 vừa phù hợp với tính chất của từng loại hình tổ chức bổ trợ tư pháp để đảm bảo sự thống nhất trong các quy định pháp luật.

  • Bổ sung quy định về việc chấp thuận làm đại diện của NĐDTPL của DN

Xét về bản chất, mối liên hệ giữa NĐDTPL của DN và DN là mối quan hệ dân sự, bình đẳng. Trong đó, để thiết lập bất cứ mối quan hệ nào một cách bền vững thì điều kiện tiên quyết là tất cả các đối tượng tham gia vào mối quan hệ đó phải tự nguyện và thể hiện sự đồng ý, chủ động giao kết. Vì thế, để NĐDTPL của DN phát huy tốt vai trò của mình, thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao phó một cách tốt nhất, trung thành với lợi ích của DN với mục tiêu hàng đầu là bảo vệ quyền lợi hợp pháp của DN thì phải kể đến giải pháp hữu hiệu đó là bổ sung quy định: Trong văn bản xác định NĐDTPL của DN như Điều lệ, Quyết định bổ nhiệm, giao nhiệm vụ…., bắt buộc phải có chữ ký xác nhận của NĐDTPL thể hiện người đó đã đọc hiểu và chấp thuận làm NĐDTPL của doanh nghiệp. Đồng thời, văn bản này phải được công bố rộng rãi trên trang web điện tử có uy tín hoặc kênh truyền thông chính thống của doanh nghiệp.

Quy định như vậy sẽ vừa giúp ràng buộc trách nhiệm của NĐDTPL của DN vừa giúp hạn chế vấn nạn một số đối tượng đánh cắp danh tính của công dân để đăng ký làm NĐDTPL của DN khi đăng ký thành lập DN hoặc thay đổi nội dung đã đăng ký từ đó mà lợi dụng nhằm thực hiện các hành vi kinh doanh trái phép, trốn thuế….

  • Bổ sung trách nhiệm pháp lý của NĐDTPL của DN

Nhằm hoàn thiện hành lang pháp lý về NĐDTPL của doanh nghiệp, góp phần từng bước hình thành môi trường pháp lý vững chắc giúp DN phát triển lành mạnh, trách nhiệm của NĐDTPL của DN trong trường hợp DN kinh doanh các ngành, nghề có điều kiện cần được bổ sung vào quy định về trách nhiệm của NĐDTPL của DN tại Điều 13 LDN năm 2020.

Cụ thể, nên bổ sung quy định: đối với những ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện, NĐDTPL của doanh nghiệp cần phải có chứng chỉ hành nghề và chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp đồng thời có nghĩa vụ, trách nhiệm trực tiếp thực hành nghề nghiệp phục vụ hoạt động kinh doanh của DN trong thời gian đảm nhận vị trí NĐDTPL của doanh nghiệp. Song song đó, cần thêm quy định: nghiêm cấm hành vi cho thuê chứng chỉ hành nghề, đứng tên làm NĐDTPL của doanh nghiệp nhưng không tham gia vào hoạt động kinh doanh của DN.

Bên cạnh, cũng không thể thiếu việc bổ sung vào khoản 1 Điều 13 LDN năm 2020 quy định về việc NĐDTPL của DN có trách nhiệm nghiêm túc tuân thủ pháp luật và trung thành với lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp. Bởi vì không phải tất cả lợi ích của DN đều là hợp pháp và thượng tôn pháp luật nên là tiêu chí hàng đầu dành cho mọi cá nhân, tổ chức sinh sống và làm việc trên lãnh thổ Việt Nam. Luận văn: Hoàn thiện về người đại diện theo pháp luật của DN.

  • Về thẩm quyền nhân danh DN của người ĐDTPL của DN

Để các quy định về NĐDTPL của DN và các quy định khác về DN trong LDN năm 2020 thống nhất và phù hợp với thực tiễn quản trị DN tại Việt Nam hiện nay, đề xuất bỏ quy định các nội dung thuộc về thông tin của cá nhân đối với NĐDTPL của Cty TNHH và Cty CP trên Giấy chứng nhận đăng ký DN. Bởi vì theo như phân tích ở phần 2.2.2.2, việc nhân danh DN trước pháp luật theo quy định của LDN năm 2020 không nên giới hạn ở một cá nhân cụ thể nên việc bắt buộc phải ghi rõ thông tin của NĐDTPL trên giấy đăng ký kinh doanh dường như không thiết thực và gò bó đối với DN, DN sẽ mất thời gian làm thủ tục mỗi khi muốn thay đổi NĐDTPL.

Chỉ nên quy định: những thông tin về NĐDTPL của DN phải được DN công bố rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng, kênh truyền thông chính thống hoặc cung cấp cho đối tác, bên thứ ba bằng những công văn cụ thể mang tính pháp lý. Bằng cách này, DN sẽ chủ động, tự chủ trong việc công bố NĐDTPL của doanh nghiệp. Đồng thời hạn chế được các trường hợp cơ quan đăng ký kinh doanh phải thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Lúc này, tư cách pháp lý của NĐDTPL của DN cũng sẽ được xác lập ngay từ thời điểm DN ban hành văn bản, với lưu ý là trên văn bản đó có cả chữ ký xác nhận của NĐDTPL của doanh nghiệp. Tình trạng phân vân khi xác định thời điểm phát sinh tư cách pháp lý của NĐDTPL của DN giữa thời điểm DN ra quyết định bổ nhiệm hay là thời điểm cơ quan đăng ký kinh doanh ban hành Giấy chứng nhận đăng ký DN sẽ không còn nữa.

Ngoài ra, thông qua văn bản thông báo công khai, DN sẽ dễ dàng, thuận tiện khi muốn cập nhật thay đổi thông tin về NĐDTPL của DN hoặc thông báo về quyền ĐD của mọi đối tượng được quyền nhân danh DN dù cho đó là NĐDTPL chính thức (ĐD minh định) hay không chính thức (ĐD ngầm định). Các văn bản công bố về NĐDTPL của doanh nghiệp phải do cơ quan có quyền quản lý cao nhất của DN ban hành.

  • Về NĐDTPL của DNTN

Có thể thấy LDN năm 2020 quy định chỉ có chủ DNTN là NĐDTPL của DNTN có phần hơi cứng nhắc. Việc này sẽ dẫn đến tình trạng lúng túng khi chủ DNTN không có mặt trong nước quá ba mươi ngày hoặc mất tích nhưng không thực hiện uỷ quyền cho người khác đảm trách các quyền, nghĩa vụ của NĐDTPL thì sẽ không có ai làm NĐDTPL của DNTN, sẽ dẫn tới tình trạng hoạt động của DNTN bị gián đoạn. Luận văn: Hoàn thiện về người đại diện theo pháp luật của DN.

Do vậy, kiến nghị nên bổ sung vào Điều 190 LDN năm 2020 theo hướng chủ DNTN có thể ký hợp đồng với một cá nhân khác làm Tổng Giám đốc hoặc Giám đốc với nhiệm vụ chính là điều hành, quản lý DNTN đồng thời đảm nhiệm vị trí NĐDTPL cho DNTN; trong trường hợp này, chủ DNTN vẫn là ngưởi hoàn toàn chịu trách nhiệm về mọi hoạt động trong suốt quá trình kinh doanh của DNTN.

Trường hợp chủ DNTN thuê người khác làm Tổng Giám đốc hoặc Giám đốc nhưng không thuê làm NĐDTPL của DNTN thì khi chủ DNTN vắng mặt tại Việt Nam quá ba mươi ngày hoặc mất tích mà không uỷ quyền cho người khác thực hiện các quyền và nghĩa vụ của NĐDTPL, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc được thuê đó sẽ là NĐDTPL tạm thời cho DNTN.

Trường hợp chủ DNTN không thuê người khác làm Tổng Giám đốc hoặc Giám đốc thì khi chủ DNTN vắng mặt tại Việt Nam quá 30 ngày hoặc mất tích mà không uỷ quyền cho người khác thực hiện các quyền và nghĩa vụ của NĐDTPL; NĐDTPL tạm thời cho DNTN là người thừa kế của chủ DNTN hoặc người giám hộ, người ĐD của người thừa kế hoặc chủ thể khác do Tòa án chỉ định.

  • Sửa đổi quy định về cư trú của NĐDTPL của doanh nghiệp

Hiện nay, quy định tại Khoản 3 của Điều 12 LDN năm 2020 đã không còn phù hợp trong bối cảnh thời đại công nghệ số 4.0 không giới hạn về không gian như ngày nay. Đối tượng được ĐD là doanh nghiệp, cũng là chủ thể chịu trách nhiệm pháp lý, vẫn tồn tại ở Việt Nam.

Đồng thời, NĐDTPL của DN khi rời khỏi lãnh thổ Việt Nam sẽ không cần phải uỷ quyền lại cho bất kỳ người nào khác thực hiện quyền và nghĩa vụ của NĐDTPL của DN nếu vẫn đảm bảo được liên lạc giữa NĐDTPL và DN được thông suốt, không bị gián đoạn, NĐDTPL vẫn đảm bảo ký chữ ký số được. Do vậy, nên bỏ khoản 4 Điều 12 LDN năm 2020 và bỏ trường hợp NĐDTPL của DN vắng mặt tại Việt Nam quá ba mươi ngày mà không uỷ quyền cho người khác thực hiện các quyền, nghĩa vụ của NĐDTPL.

  • Về bảo vệ bên thứ ba ngay tình trong giao dịch với NĐDTPL của DN

Cần có quy định cụ thể, rõ ràng để bảo vệ bên thứ ba ngay tình trong giao dịch với NĐDTPL của DN, nhất là những giao dịch do người không có quyền ĐD xác lập, thực hiện hay những giao dịch do người ĐD xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi ĐD. Thí dụ như: quy định thế nào là thời hạn hợp lý đối với việc người ĐD biết mà không phản đối; về việc người được ĐD và người ĐD, ở đây là DN và NĐDTPL của DN lừa dối bên thứ ba nhưng sau đó không công nhận giao dịch….

Có thể bổ sung quy định theo hướng: thời hạn hợp lý là khoản thời gian mà sau khoản thời gian này, không thể hủy hay thay đổi giao dịch đã xác lập, thực hiện được; hoặc nếu hủy, thay đổi giao dịch đã xác lập, thực hiện sẽ gây hậu quả tiêu cực đối với người được ĐD; hoặc là khoản thời gian đủ để thể hiện sự công nhận giao dịch của người được ĐD. Và thêm quy định về trường hợp người không có quyền ĐD và người được ĐD vô ý hoặc cố ý làm cho người đã giao dịch tin rằng người đã xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với mình có quyền ĐD; hoặc không đính chính kịp thời dẫn đến việc giao dịch đã xác lập, thực hiện với người không có quyền ĐD bị hủy bỏ, thay đổi mà gây thiệt hại cho người đã giao dịch, bên thứ ba liên quan thì người không có quyền ĐD và người được ĐD phải chịu trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại cho người đã giao dịch, bên thứ ba liên quan.

Về Cơ chế giám sát NĐDTPL của DN: Lựa chọn và xây dựng mô hình giám sát, quản lý NĐDTPL của DN phù hợp, hiệu quả. Khuyến khích áp dụng mô hình giám sát, quản lý NĐDTPL của DN đa tầng, đa thành phần. Có cả sự tham gia của Ban kiểm sát; NĐDTPL của DN giám sát lẫn nhau nếu DN có nhiều NĐDTPL; sự giám sát của các thành viên độc lập. Xây dựng bộ tiêu chí đánh giá NĐDTPL của DN chi tiết tùy theo vị trí công tác, nhiệm vụ mà chủ sở hữu DN giao cho NĐDTPL phù hợp với đặc thù ngành nghề và định hướng phát triển của doanh nghiệp. Song song, DN cần thiết lập và duy trì chế độ đãi ngộ đối với NĐDTPL hợp lý, gắn liền với trách nhiệm, nghĩa vụ và kết quả thực hiện nhiệm vụ của NĐDTPL; đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ của NĐDTPL cân bằng nhằm giảm thiểu các hành vi tư lợi của NĐDTPL.

  • Một số kiến nghị khác đối với chính quyền đại phương nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật Việt Nam về người ĐDTPL của DN Luận văn: Hoàn thiện về người đại diện theo pháp luật của DN.

Ngoài việc sửa đổi, bổ sung các quy định cụ thể về NĐDTPL của doanh nghiệp, thiết nghĩ để việc thực thi pháp luật về NĐDTPL của DN thực sự đạt hiệu quả và xa hơn nữa là góp phần hoàn thiện pháp luật về quản trị DN tiên tiến, hiện đại trong bối cảnh nước ta ngày càng hội nhập quốc tế sâu, rộng thì một trong những giải pháp không thể hiếu đó là tăng cường cập nhật, phổ biến pháp luật đến tất cả các thành phần liên quan; kể cả phía doanh nghiệp, NĐDTPL của DN và các cán bộ làm công tác về đăng ký kinh doanh thông qua các kênh thông tin như phương tiện truyền thông chính thống, mạng xã hội, website…Trong đó, thiết nghĩ nên xây dựng một thư viện điện tử về pháp luật mà người dân có thể dễ dàng truy cập thông qua ứng dụng VNeID, là ứng dụng do Bộ Công an xây dựng, phát triển và quản lý, cung cấp các tiện ích về hành chính công. Qua đó, hạn chế tối đa các trường hợp phải thu hồi hay hủy bỏ giấy đăng ký kinh doanh do quy trình bổ nhiệm NĐDTPL của DN có vi phạm quy định pháp luật.

Bên cạnh đó, hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng và Chính phủ trong việc cải cách các thủ tục hành chính, khuyến khích ứng dụng công nghệ thông tin đồng thời hướng tới tự do kinh doanh một cách an toàn, lành mạnh cho doanh nghiệp, kiến nghị nên xây dựng Cổng thông tin quốc gia về kinh doanh theo mô hình áp dụng như văn phòng điện tử. Trong đó, mỗi DN sẽ được cấp một tài khoản với khóa bảo mật và DN có thể đăng các thông tin chính thức về DN mình như vốn điều lệ, địa chỉ, chủ doanh nghiệp, NĐDTPL của doanh nghiệp…cũng như cập nhật các thông tin thay đổi…mà không cần phải thông qua các cơ quan đăng ký kinh doanh. Và DN phải tự chịu trách nhiệm về tính xác thực những thông tin đó, cơ quan đăng ký kinh doanh chỉ quản lý về mặt hệ thống vận hành, bảo mật, thống kê dữ liệu. Bởi vì theo khoản 1 Điều 4 Nghị định số 01/2021/NĐ-CP về đăng ký doanh nghiệp, ban hành ngày 04/01/2021 thì: “Người thành lập doanh nghiệp hoặc doanh nghiệp tự kê khai hồ sơ đăng ký doanh nghiệp và chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính hợp pháp, trung thực và chính xác của các thông tin kê khai trong hồ sơ đăng ký doanh nghiệp và các báo cáo.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

LDN năm 2020 ra đời kế thừa những tiến bộ của LDN năm 2014 và cập nhật thêm một số thay đổi đã tạo ra những bước tiến mới trên con đường hoàn thiện hành lang pháp lý cho chế định NĐDTPL của doanh nghiệp. Tuy nhiên, thực tiễn thực thi pháp luật về NĐDTPL của DN đã thể hiện các quy chuẩn về NĐDTPL của DN vẫn chưa hoàn thiện, còn nhiều bất cập, hạn chế cần khắc phục, còn có sự chưa tương thích giữa LDN năm 2020 và các văn bản quy phạm pháp luật khác. Thêm vào đó, một số quy định của LDN năm 2020 về NĐDTPL có những cách hiểu khác nhau trong giải thích và áp dụng luật của những đối tượng khác nhau dẫn đến hậu quả tranh chấp, gây thiệt hại cả về kinh tế và hình ảnh của doanh nghiệp.

Trên cơ sở phân tích các tồn tại, bất cập của pháp luật nước ta hiện nay về NĐDTPL của doanh nghiệp, tác giả kiến nghị một số giải pháp góp phần tháo gỡ các tồn tại này. Bao gồm những đề xuất sửa đổi hoặc bổ sung các quy định về NĐDTPL của doanh nghiệp; kiến nghị tăng cường ứng dụng công nghệ hiện đại, tiên tiến trong quản lí doanh nghiệp; bổ sung thêm các quy định nhằm nâng cao việc bảo vệ bên thứ ba ngay tình trong giao dịch với NĐDTPL của DN.

KẾT LUẬN Luận văn: Hoàn thiện về người đại diện theo pháp luật của DN.

Pháp luật Việt Nam về NĐDTPL của DN qua từng thời kỳ ngày một hoàn thiện và chặt chẽ hơn. Qua đó có thể thấy rằng, các nhà làm luật nước ta đang càng ngày càng chú trọng đến việc luật hoá các vấn đề liên quan đến NĐDTPL của doanh nghiệp. Đặc biệt, LDN năm 2020 được Quốc hội thông qua và ban hành ngày 17/06/2020, bắt đầu có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2021 đã có những quy định điều chỉnh, bổ sung kịp thời về NĐDTPL của DN nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu phát triển của kinh tế-xã hội hiện nay nói chung và của các DN nói riêng. Đồng thời qua đó, góp phần tháo gỡ phần nào các vướng mắc trong thực tiễn thực hiện pháp luật Việt Nam về NĐDTPL của doanh nghiệp.

Tuy nhiên, không phải tồn tại, hạn chế nào cũng được giải quyết thỏa đáng, vẫn còn một số vướng mắc về mặt quản trị DN mà cụ thể là về NĐDTPL của DN vẫn chưa được ghi nhận một cách đầy đủ. Để có thể nâng cao năng lực quản trị và hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, thiết nghĩ việc hoàn thiện pháp luật về NĐDTPL của DN theo hướng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tất cả các bên tham gia trong mối quan hệ ĐD theo pháp luật cho doanh nghiệp; bao gồm cả bên ĐD là NĐDTPL của doanh nghiệp, bên được ĐD là doanh nghiệp, chủ sở hữu DN và cả bên thứ ba có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan; trở nên rất cần thiết và quan trọng nếu xem xét cả về phương diện hành lang pháp lý hay thực tiễn áp dụng pháp luật.

Thông qua quá trình phân tích làm rõ những vấn đề lý luận và pháp luật về NĐDTPL của DN như khái niệm NĐDTPL của doanh nghiệp; bản chất pháp lý của việc ĐDTPL của DN; phạm vi và thẩm quyền của NĐDTPL của doanh nghiệp; vai trò, tư cách pháp lý, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của NĐDTPL của DN cùng với các nguyên tắc điều chỉnh quan hệ ĐDTPL của DN; luận văn đem đến một cái nhìn toàn diện, chuyên sâu về NĐDTPL của doanh nghiệp.

Song song đó, luận văn còn đồng thời trình bày chi tiết thực trạng thực hiện pháp luật Việt Nam về NĐDTPL của DN đồng thời đưa ra những đánh giá những ưu điểm cũng như tồn tại, hạn chế trong pháp luật hiện hành về NĐDTPL của DN.

Với mong muốn góp phần giúp giải quyết từng bước nhiều khó khăn, gút mắc trong việc áp dụng những quy định pháp luật Việt Nam về NĐDTPL của DN; hướng tới xây dựng hành lang pháp lý về NĐDTPL của DN phù hợp với thực tiễn kinh doanh tại Việt Nam nhưng cũng tiếp thu những góc nhìn đa dạng của luật pháp các nước , lãnh thổ khác nhau về quan hệ ĐD. Đồng thời, luận văn đã đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về NĐDTPL của DN. Luận văn: Hoàn thiện về người đại diện theo pháp luật của DN.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:  

===>>> Luận văn: Pháp luật về người đại diện của doanh nghiệp

One thought on “Luận văn: Hoàn thiện về người đại diện theo pháp luật của DN

  1. Pingback: Luận văn: Thực trạng về người đại diện theo pháp luật của DN

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Contact Me on Zalo
0906865464