Khóa luận: Thực trạng phát triển du các kiến trúc tại Ninh Bình

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Khóa luận: Thực trạng phát triển du các kiến trúc tại Ninh Bình hay nhất năm 2022 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm khóa luận thì với đề tài Khóa luận: Khai thác các công trình kiến trúc liên quan đến Công giáo trên địa bàn tỉnh Nam Định và Ninh Bình phục vụ phát triển du lịch dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.

2.1. Các công trình kiến trúc Công giáo tiêu biểu ở Nam Định và Ninh Bình

2.1.1. Vài nét về kiến trúc nhà thờ Công giáo ở Việt Nam Khóa luận: Thực trạng phát triển du các kiến trúc tại Ninh Bình

Nhắc đến Công giáo Việt Nam là chúng ta nhắc đến những đóng góp của Công giáo cho xã hội Việt Nam. Một trong những đóng góp mà chúng ta cần nói đến đó chính là đóng góp về kiến trúc. Ngay từ khi các giáo sĩ phương Tây truyền đạo vào nước ta, họ đã rất chú trọng tới việc xây dựng nhà thờ. Các giáo sĩ tâm niệm rằng nhà thờ không chỉ là nơi diễn ra các nghi lễ tôn giáo mà còn là nơi sinh hoạt của cộng đồng giáo dân ở địa phương. Vì thế mà ngay từ thời kì sơ khai, giáo hội Công giáo đã có những công trình kiến trúc của riêng mình nhằm phục vụ cho việc truyền giáo.

Trải qua một quãng thời gian truyền giáo gian nan, Việt Nam đã có nhiều công trình kiến trúc Công giáo. Tuy nhiên, dưới thời Lê- Trịnh do chính sách cấm đạo mà các nhà thờ bị phá hủy. Mãi đến năm 1886- 1887, Pháp vào Việt Nam, bình định Bắc Kì thì việc hoạt động tôn giáo mới trở lại bình thường, quá trình xây dựng nhà thờ Thiên Chúa giáo mới phát triển mạnh mẽ.

Nhà thờ còn được giáo dân gọi là thánh đường, giáo đường hay nhà thánh. Đây là địa điểm để người ki-tô hữu cử hành các nghi lễ thờ phụng Thiên Chúa. Mỗi nơi sẽ có cách xây dựng riêng, tuy nhiên các nhà thờ đều có chung một số điểm sau: bên ngoài mỗi nhà thờ đều được đặt một cây Thánh giá ở nơi cao nhất, dễ thấy nhất; bên trong nhà thờ được chia làm hai gian chính: gian cung thánh và gian dành cho giáo dân.

Cung thánh là nơi Linh mục thực hiện nghi thức lễ. Cung thánh thường ở vị trí trang trọng nhất và cao hơn giáo dân. Phía trung tâm là cây thánh giá. Phần dành cho giáo dân thường có ghế cho giáo dân ngồi tham dự thánh lễ. Xung quanh nội thất nhà thờ luôn có 14 chặng đàng Thánh giá là tranh, tượng mô tả những dấu mốc quan trọng trong cuộc đời của Chúa Giê-su.

Ngoài ra trên gian cung thánh còn được đặt tượng Đức Mẹ và thánh Giuse hai bên. Bên ngoài mặt tiền đặt tượng thánh bổn mạng (vị thánh được nhà thờ nhận làm người nâng đỡ). Tháp chuông cũng là một công trình không thể thiếu trong kiến trúc nhà thờ. Trong một số kiến trúc, có thể tháp chuông đi liền với nhà thờ, hoặc tháp chuông tách rời với nhà thờ. Ngoài các kiến trúc chung này ra thì mỗi công trình có thể có thêm công trình phụ trợ tùy theo nhu cầu của giáo xứ và giáo dân địa phương.

Có thể nói kiến trúc nhà thờ Công giáo Việt Nam rất đa dạng và phong phú. Sự du nhập của công trình kiến trúc tôn giáo đã mang đến cho đất nước ta một lối kiến trúc khác lạ, góp thêm phần phong phú cho kiến trúc Việt Nam. Kiến trúc nhà thờ Công giáo Việt Nam nhìn chung có thể chia thành hai phong cách kiến trúc như sau:

Phong cách Châu Âu (còn gọi là nhà thờ Tây): gồm có kiến trúc Gothic, Roman, Tây Ban Nha, Pháp…, trong đó lối kiến trúc được ưa chuộng là lối kiến trúc Gothic. Đặc thù của lối kiến trúc này với hình tiêm, mái vòm đòi hỏi kĩ thuật xây dựng mới khác với cách xây dựng truyền thống. Những người thợ Việt Nam qua việc xây dựng nhà thờ Tây mà đã được tiếp xúc với cách xây dựng, trang trí họa tiết của kiến trúc phương Tây và đã sáng tạo nên các công trình tuyệt đẹp và kì vĩ không thua kém gì các kiến trúc gốc ở phương Tây.

Phong cách dân tộc Việt Nam (còn được gọi là nhà thờ Nam): đây là lối kiến trúc kết hợp phong cách dân tộc Việt Nam với phong cách Phương Tây là sự kết hợp giao thoa văn hóa rất hài hòa qua kiến trúc. Nhà thờ Nam có kết cấu bên trong bằng gỗ truyền thống, bên ngoài lại có dáng vẻ của nhà thờ Tây. Trải qua từng giai đoạn phát triển, ngày nay lối kiến trúc nhà thờ Nam vẫn được lòng giáo dân. Lối kiến trúc này trải qua bàn tay khéo léo và trí sáng tạo của con người Việt Nam đã biến hóa thành các phong cách khác nhau. cụ thể nhận dạng như sau: phong cách hỗn hợp, điển hình là nhà thờ Hà Hồi và Phong cách thuần Nam là lối kiến trúc bên trong bằng gỗ, bên ngoài hình thức Á Đông, công trình tiêu biểu có nhà thờ Bình Sa ở Nam Định, đặc biệt là quần thể nhà thờ đá Phát Diệm [24]. Khóa luận: Thực trạng phát triển du các kiến trúc tại Ninh Bình

Nếu xét theo việc phân loại chất liệu, và xét theo nhưunxg nhà thờ tiêu biểu Nam Định và Ninh Bình, chúng ta có thể phân thành ba phong cách khác nhau: Nhà thờ gạch với công trình tiêu biểu là đan viện Châu Sơn ở Nho Quan, Ninh Bình; Nhà thờ gỗ điển hình là nhà thờ Xuân Hà ở Nam Định. Nhà thờ đá với công trình tiêu biểu là nhà thờ đá Phát Diệm.

Như vậy, ta có thể thấy kiến trúc Công giáo mang đến cho Việt Nam một phong cách kiến trúc mới. Qua tay nghề của các thợ xây Việt Nam, kiến trúc Công giáo Việt Nam lại thêm đa dạng, phong phú, đặc sắc hơn. Sự giao thoa giữa kiến trúc Tây và lối kiến trúc dân gian Việt Nam được hòa với nhau một cách nhịp nhàng mà không mất đi nét đẹp. Để hiểu rõ hơn về các kiến trúc Công giáo ta cùng tìm hiểu về một số các Công trình kiến trúc tiêu biểu ở Nam Định và Ninh Bình.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ: 

===>>> Viết Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngành Văn Hóa Du Lịch

2.1.2. Các công trình kiến trúc Công giáo tiêu biểu ở Nam Định

Đối với những người yêu thích sưu tầm và tìm hiểu về phong cách kiến trúc nhà thờ ở Việt Nam, thì mảnh đất Nam Định sẽ là một điểm đến lí tưởng, ưu tiên hàng đầu trong danh sách. Nam Định không chỉ là nơi đầu tiên đạo Công giáo du nhập vào Việt Nam, mà còn là một trong những tỉnh có nhiều nhà thờ đẹp nhất trên cả nước.

Vào cuối thế kỷ XVI, đầu thế kỷ XVII, Việt Nam bắt đầu giao thương với các nước phương Tây như Bồ Đào Nha, Anh, Pháp và cả Nhật Bản để trao đổi hàng hóa và vũ khí quân sự. Thời gian này, Công giáo cũng phát động cuộc truyền giáo quy mô lớn đi đến khắp nơi trên thế giới, trong đó có miền Viễn Đông Á châu.

Sử liệu Pháp ghi lại rằng vào năm 1516 có một nhà hàng hải Bồ Đào Nha tên Fernao Perez de Andrade đã đến tận bờ biển Việt Nam để truyền đạo, và khi đó, những nơi đầu tiên ông đặt chân đến là các huyện Trực Ninh, Hải Hậu và Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Vì vậy, có thể nói Nam Định là nơi khởi nguồn của Thiên Chúa Giáo tại Việt Nam. Chính vì lý do đó, Nam Định chính là thiên đường của những Thánh đường mà ở đây, những công trình này không chỉ hội tụ đầy đủ những đặc trưng của kiến trúc Châu Âu mà còn mang đậm nét Á Đông không thể tách rời. Trong những ngôi thánh đường lộng lẫy và nguy nga đó, tiêu biểu hơn phải kể đến 15 ngôi thánh đường đặc sắc sau:

  • Nhà thờ Thánh Danh: ở xã Xuân Tiến, huyện Xuân Trường
  • Tiểu vương cung thánh đường Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội Phú Nhai
  • Đền thánh Kiên Lao: nằm ở xã Xuân Tiến, huyện Xuân Trường
  • Nhà thờ Trung Linh: Nằm ở Xuân Ngọc, Xuân Trường.
  • Nhà thờ lớn Nam Định: nằm ở ngay trung tâm thành phố Nam Định
  • Nhà thờ Khoái Đồng: Nằm gần nhà thờ lớn, bên cạnh hồ Vị Xuyên.
  • Nhà thờ giáo xứ Phong Lộc: cách nhà thờ lớn khoảng 1km.
  • Nhà thờ Hưng Nghĩa: thuộc xã Hải Hưng, huyện Hải Hậu
  • Nhà thờ Xương Điền: thuộc Giao Thủy, Hải Hậu
  • Nhà thờ Pha-rô: nằm trong địa phận tỉnh Hải Hậu
  • Nhà thờ Phú An: Nhà thờ Phú An cũng nằm trong giáo xứ Bùi Chu.
  • Thánh đường xứ Thánh Mẫu
  • Đền thánh Sa Châu: thuộc vùng Lục Thủy, Tương Nam, Bách Tính, Ninh Cường, Trà Lũ.
  • Nhà thờ Chính tòa Bùi Chu: xã Xuân Ngọc, huyện Xuân Trường
  • Nhà thờ đổ Hải Lý: Nằm bên bờ Hải Lý

Trong những ngôi nhà thờ đặc sắc vừa được kể trên, đẹp và ý nghĩa hơn cả đó là nhà thờ chính tòa Bùi Chu và Tiểu vương cung thánh đường Phú Nhai.

2.1.2.1. Nhà thờ chính tòa Bùi Chu Khóa luận: Thực trạng phát triển du các kiến trúc tại Ninh Bình

Nhà thờ chính tòa Bùi Chu tọa lạc ở xã Xuân Ngọc, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Đây cũng là nơi an nghỉ của 5 giám mục đã từng cai quản ở đây. Nhà thờ chính tòa được coi như nhà thờ mẹ, là trái tim của giáo phận Bùi Chu. Được gọi các tên như thế không chỉ vì đây là nhà thờ của Giám mục giáo phận, mà nơi đó còn là nơi ghi dấu nhiều sự việc quan trọng nhất trong lịch sử giáo phận như phong chức, nhận chức linh mục, nhận chức giám mục hay chuyển chức linh mục.

Lịch sử xây dựng:

Theo chiều lịch sử, như đã trình bày ở trên, Nam Định được truyền đạo đầu tiên từ những năm 1533 bởi một giáo sĩ tên là I-nê-khu. Tuy nhiên không có văn bản ghi lại việc hoạt động tôn giáo ở đây. Mãi đến năm 1627 khi cha Đắc Lộ ra Đàng Ngoài giảng đạo, nơi đây mới được bén rễ hạt giống Tin Mừng. Từ năm 1690- 1954, Bùi Chu là một vùng truyền giáo trọng điểm và chính thức trở thành xứ đạo năm 1670. Năm 1690, Bùi Chu được Tòa thánh nâng lên làm hàng giáo phận. Năm 1848, khi toà Giám mục được đặt tại Làng Bùi Chu, Nhà thờ Giáo xứ được chọn làm Nhà thờ chính toà của Giáo phận và chính thức được xây cất dưới thời Pháp bởi giám mục Wenceslao Onate Thuận vào năm 1884, tuy rằng có diện tích hẹp nhưng lại là giáo phận có đông giáo dân nhất trong giáo hội Việt Nam. Đây cũng là nhà thờ nổi tiếng và lâu năm nhất nhì tỉnh Nam Định, nơi đã ghi dấu, chứng kiến biết bao thăng thầm lịch sử và là điểm hẹn hò, gặp gỡ Đức Tin của giáo phận Bùi Chu.

Đặc điểm kiến trúc:

Nhà thờ Bùi Chu được xây dựng theo kiến trúc baroque, đậm chất Tây Ban Nha. Với gam màu thổ vàng, đường nét hài hòa Đông Tây cùng những bức tường được xây dựng kiên cố và những cột gỗ lim vững chắc trên các cột đá trụ bồng. Baroque được hiểu là những viên ngọc cách điệu, thể hiện một lối kiến trúc phóng khoáng, uốn lượn đầy ấn tượng. Sự kết hợp của các mảng nghệ thuật và các luồng ánh sáng đa màu sắc từ kiến trúc cửa sổ đã tạo nên sự sinh động cho không gian nhà thờ. Kiến trúc nhà thờ có mẫu kiến trúc chủ đạo là hình ô van đòi hỏi sự tỉ mỉ và chi tiết. Hình ô van được xuất hiện ở hầu hết các kiến trúc trong nhà thờ từ đường nét uốn lượn của các dãy tường dài đến các góc nhỏ trên trần. Hình ảnh tiêu biểu ở nhà thờ chính tòa Bùi Chu chính là vòm nối kết ba hình ô van. Mái vòm này vừa thể hiện nét đặc trưng của kiến trúc Baroque vừa mang dáng dấp tam quan Đông Phương cổ kính. Kiến trúc Baroque tạo ra những không gian đa phức và những luồng ánh sáng kì bí. Việc hội nhập thêm kiến trúc Á Đông mang lại cho ngôi nhà thờ sự thăng trầm như chính đời sống giáo dân. Khóa luận: Thực trạng phát triển du các kiến trúc tại Ninh Bình

Nhà thờ chính tòa có chiều dài 78m, rộng 22m, cao 15m, tháp cao 35m. Trải qua hơn 100 năm, ngôi nhà thờ vẫn đứng vững với những cột gỗ lim và những đường nét hoa văn mang dấu ấn kiến trúc phương Tây. Kết cấu nhà thờ cũng có những nét chung như đã trình bày ở phần trên. Nhà thờ được chia làm 2 phần gồm có phần gian cung thánh và phần dành cho giáo dân. Phần gian cung thánh, ở tòa giữa được làm chạm trổ tinh xảo, sơn son thếp vàng, hai bên có tòa thánh Giuse và thánh Đa Minh. Giữa gian cung thánh được đặt bàn thờ bằng đồng được đúc từ những thỏi đồng người dân góp về; cuối nhà thờ có một ao nước nhân tạo, giữa hồ có núi mẹ Lộ Đức.

Nhà thờ chính tòa Bùi Chu nổi tiếng không chỉ là ngôi thánh đường lâu năm mà còn được biết đến với nhiều công trình phụ trợ, khiến cho nhiều người đến đây được mở mang tầm mắt. Đầu tiên phải kể đến là tháp chuông đồng hồ hiệu Farnier đã có từ năm 1848, đây là cổng Tòa Giám Mục. Bên trái nhà thờ còn có cơ sở Dòng Nữ Đa Minh và Nhà Dục Anh (Cô Nhi Viện).

Trong khuôn viên thánh đường Bùi Chu còn có công trình Nguyện Đường. Nguyện đường cao 35m, ngọn tháp vươn cao với Thánh Giá được nâng lên bởi tòa tam cấp, có dáng dấp Đông phương lại có nét Gothic. Phần trên tòa nhà được dẫn vào bởi những bậc thang rộng. Bên tay phải cầu thang là tượng Thánh Giuse cõng Chúa Con trên vai mà không đâu có tượng này, mang ý nghĩa “Tình Cha”. Đối diện với tượng Thánh Giuse là tượng Đức Mẹ Sầu Bi ôm Con “Nghĩa Mẹ”. Cửa nhà nguyện 4 cánh, mỗi cánh là một công trình đầy ý nghĩa của các Bí Tích: Rửa Tội, Thêm Sức, Thánh Thể và Hòa Giải. Vào trong Nhà Nguyện, như lạc vào động tiên không gian cao vút với tượng ảnh, bàn thờ, màu sắc… được sắp đặt một cách hài hòa. Tầng dưới Nhà Nguyện là Nhà hầm các Thánh tử vì Đạo. Bên cạnh còn có 6 mẫu nữ tu: Đa Minh, Mân Côi, Trinh Vương, Thăm Viếng và Mến Thánh Giá.

Ngoài ra, đến với tòa giám mục Bùi Chu, khách quan còn được chiêm ngưỡng “5 cái lớn nhất”: Cỗ tràng hạt lớn nhất Việt Nam, Kèn Trumpet lớn nhất Việt Nam, Bộ Cồng chiêng lớn nhất Đông Dương, Đỉnh hương đồng lớn nhất Việt Nam, Chuông Nữ Nhân Chung lớn nhất Việt Nam. Rời kiến trúc nguyện đường, ta đến thăm Vườn kinh, nơi các tín hữu đến để dâng những câu kinh. Đến nơi đây chúng ta sẽ được chiêm ngưỡng chuỗi Tràng Hạt khổng lồ, nặng 2,2 tấn, mỗi hạt nặng 25kg, trên cao có tượng Đức Mẹ bằng đá cẩm thạch nặng 2 tấn. Xung quanh khuôn viên này còn có một số các bức tượng khác nữa. Đến với Bùi Chu, du khách còn được chiêm ngắm nhạc khí của giáo phận. Những nhạc cụ được chế tác độc đáo công phu mang nhiều ý nghĩa: Trống cái, kèn đồng, đàn lira, chiêng cồng…

Nơi đây đặt cây Kèn đồng Trumpet lớn nhất Việt Nam dài hơn 5m cao 1,6m, nặng 300kg, được ghi vào Sách Kỷ lục Việt Nam là sản phẩm của nghệ nhân Ngô Văn Hòa ở xóm 4, xã Xuân Tiến, huyện Xuân Trường. Ngoài ra còn có công trình chiếc chuông nặng 9 tạ, có chân, có tay được người dân gọi với cái tên là Nữ Nhân Chung. Đây là một công trình độc đáo mà không đâu có.

Giáo phận Bùi Chu còn có công trình Như hương trẩm tòa bay – chính là công trình đỉnh hương đồng. Bên cạnh đó còn có công trình tổ hợp phục sinh đường, tháp thăng thiên và biểu tượng hai bàn tay của Chúa đang kéo bàn tay con người lên. Đến với giáo phận Bùi Chu du khách sẽ được các nữ tu dẫn đi tham quan các công trình. Từ các công trình kể trên du khách có thể hiểu thêm được phần nào về Công giáo, về đức tin cũng như là công trình kiến trúc của người Công giáo. [19]

Giá trị tâm linh của công trình kiến trúc đối với giáo dân và giáo hội

Công trình kiến trúc nhà thờ chính tòa Bùi Chu là một chứng tích lịch sử, đây cũng là kho tàng đức tin của người Công giáo Nam Định nói riêng và miền Bắc nói chung. Nhờ có những ngôi nhà thờ cổ kính, nguy nga và lộng lẫy này mà con cháu đời sau biết đến lịch sử truyền giáo của đạo Công giáo vào Việt nam nói chung, Nam Định nói riêng; được giáo dục về đời sống đạo đức và được tham dự vào các sinh hoạt tôn giáo.

2.1.2.2. Nhà thờ Phú Nhai

Giáo phận Bùi Chu vốn được biết đến là một giáo phận có đông tín hữu nhất. Cũng nhờ sự phát triển vững mạnh của công cuộc truyền giáo mà Nam Định cũng có rất nhiều nhà thờ to, đẹp, là điểm đến cho nhiều du khách. Một trong những ngôi nhà thờ hoành tráng và linh thiêng chúng ta cần nhắc đến là nhà thờ Phú Nhai nằm ở trung tâm xã Xuân Phương, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định, cách thị trấn Xuân Trường hơn 1 km. Đây là một trong những ngôi nhà thờ có diện tích rộng lớn nhất Việt Nam đã trải qua 3 lần xây cất và được coi là một trong những ngôi thánh đường đẹp nhất Đông Dương. Không chỉ thế, nơi đây còn lưu trữ hài cốt của 83 vị tử đạo thuộc họ đạo xứ Phú Nhai.

Nhà thờ Phú Nhai được gọi với nhiều tên gọi khác nhau như “Tiểu vương cung thánh đường Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội Phú Nhai” hay tên “đền thánh Phú Nhai”. Năm 2008, đền thánh Phú Nhai được công nhận là Tiểu vương cung thánh đường, trở thành một trong 4 nhà thờ ở Việt Nam được Tòa thánh La Mã công nhận là Tiểu vương cung thánh đường. Tại sao lại có những tên đó, ta cùng đi tìm hiểu về công trình nhà thờ Phú Nhai.

Lịch sử xây dựng:

Vào năm 1858 tại Lộ Đức, nước Pháp, Đức Mẹ đã hiện ra dưới hình ảnh một thiếu nữ tên là Bernadette và xưng mình là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội. Cùng thời gian này việc truyền đạo và giữ đạo tại Việt Nam đang gặp nhiều khó khăn, thử thách đặc biệt là giáo phận Bùi Chu. Sau 10 năm thành lập giáo phận Bùi Chu, đức Cha Valentino Berio- Ochoa Vinh (giám mục Bùi Chu) đã khẩn khoản cầu xin Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, xin cho địa phận được bình an. Và thời gian sau đó giáo phận đã dần ổn định, giáo dân vững đức tin hơn. Để tạ ơn Đức Mẹ đã nhận lời cầu xin và bảo trợ cho giá o dân, Đức Cha đã lên kế hoạch xây dựng đền thờ kính Đức Mẹ và nhận Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội làm quan thầy địa phận. Khóa luận: Thực trạng phát triển du các kiến trúc tại Ninh Bình

Mảnh đất Phú Nhai đã sinh ra biết bao người con ưu tú, Trong đó có 6 vị được tòa thánh Rome phong lên hàng hiển thánh. Đó cũng là một phần lí do mảnh đất này vinh dự được chọn xây đền thánh. Sáu vị thánh tử đạo là:

  • Vinh Sơn Phạm Hiếu Liêm, sinh năm 1732 tại Trà Lũ, Bùi Chu, là Linh Mục dòng Ða Minh, xử trảm ngày 07/11/1773 tại Ðồng Mơ dưới đời chúa Trịnh Sâm, phong Chân Phúc ngày 15/04/1906 do Ðức Piô X, kính ngày 07/11.
  • Vinh Sơn Ðỗ Yến, sinh năm 1764 tại Trà Lũ, Phú Nhai, Linh Mục, Dòng Ða Minh, xử trảm ngày 30/06/1838 tại Hải Dương dưới đời vua Minh Mạng, phong Chân Phúc ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, kính ngày 30/6.
  • Ðaminh Ðinh Ðạt, sinh năm 1803 tại Phú Nhai, Bùi Chu, Binh Sĩ, xử giảo ngày 18/07/1839 tại Nam Ðịnh dưới đời vua Minh Mạng, phong Chân Phúc ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, kính ngày 18/07.
  • Tôma Ðinh Viết Dụ sinh năm 1783 tại Phú Nhai, Nam Ðịnh, Linh Mục, Dòng Ða Minh, xử trảm ngày 26/11/1839 tại Bẩy Mẫu dưới đời vua Minh Mạng, phong Chân Phúc ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, kính ngày 26/11.
  • Ðaminh Đinh Đức Mậu, sinh tại Phú Nhai, Bùi Chu, Linh Mục, Dòng Ða Minh, xử trảm ngày 05/11/1858 tại Hưng Yên dưới đời vua Tự Ðức, phong Chân Phúc ngày 29/04/1951 do Ðức Piô XII, kính ngày 05/11.
  • Giu se Trần Văn Tuấn, sinh năm 1825 tại Nam Ðiền, Nam Ðịnh, Giáo dân, xử trảm ngày 07/01/1862 tại Nam Ðịnh dưới đời vua Tự Ðức, phong Chân Phúc

Nhà thờ Phú Nhai nguyên thủy được xây dựng vào năm 1866 ngay sau khi vua Tự Đức kí sắc lệnh tha đạo, chấm dứt gần 3 thế kỉ bị bách đạo. Nhà thờ được xây dựng bằng gỗ, do linh mục chính xứ Emmanuel Riano Hòa xây dựng. Năm 1881, Giám mục Hòa với linh mục Barqueroo Ninh đã tiến hành xây dựng nhà thờ lần thứ 2 theo kiến trúc Á Đông với hai tháp chuông. Đến năm 1916 thì giám mục Pheerroo Munagori Trung và linh mục Moreno xây nhà thờ lần thứ 3 theo kiến trúc Gothic. Nhà thờ được khánh thành năm 1922 nhưng sau đó bị cơn bão lớn tàn phá nặng nề. Năm 1949 một bộ phận quân viễn chinh Pháp chiếm đóng Phú Nhai, đã lấy nhà thờ làm nơi phục vụ cho quân sự. Sau một thời gian tàn phá của chiến tranh, nhà thờ bị hư hại nhiều. Năm 1930, các linh mục đã huy động kinh phí để sửa sang lại ngôi thánh đường. Sau nhiều biến cố lịch sử, nhà thờ đã được xây dựng lại, hoàn thành và khánh thành vào ngày lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội ngày 08 tháng 12 năm 2004. Nhà thờ được giám mục Đa Minh Nguyễn Chu Trinh trùng tu tôn tạo ngày 17 tháng 3 năm 2003 đến 26 tháng 9 năm 2004 thì hoàn thành và có diện mạo như ngày nay. [8]

Đặc điểm kiến trúc:

Nhà thờ gốc có phong cách kiến trúc Gothic đậm dấu ấn Tây Ban Nha, sau được xây lại theo phong cách kiến trúc Gothic kiểu Pháp. Nhà thờ có kích thước: dài 80 mét, rộng 27 mét, cao 30 mét. Hai tháp chuông cao 44 mét đặt 4 quả chuông được đúc từ Pháp chuyển sang với trọng lượng là: 2.000 kg, 1.200 kg, 600 kg và 100 kg. Cũng giống như kết cấu chủ yếu của các nhà thờ, xung quanh nhà thờ có 14 chặng đường thánh giá của Chúa. Mặt chính diện nhà thờ được tạo thành 3 tầng với tầng trên cùng là hai tháp chuông. Mỗi tháp chuông có nhiều cột trụ tạo thành những cây nến khổng lồ. Các cửa đều theo phong cách Gothic, cửa nhọn đầu tạo cảm giác thanh thoát. Mặt tiền nhà thờ từ ngoài vào, bên phải có tượng đài Thánh Đaminh cao 17m, riêng phần tượng cao 2,3m. Bên trái có lăng lưu trữ hài cốt của 83 người tử đạo thuộc họ đạo xứ Phú Nhai cao 15m, trong đó có 6 người được phong Thánh tử đạo trong số 117 Thánh tử đạo của Việt Nam.

Bên trong nhà thờ đồ sộ với thiết kế chủ yếu mang phong cách Gothic, kết hợp với phong cách Phục hưng và Rococo. Đặc điểm rõ nét nhất của Gothic nằm ở hình khối mặt tiền của nhà thờ, cửa sổ hoa hồng và cả các đỉnh chóp nhọn trên phần mái. Các chi tiết trang trí cầu kì trên các cửa chính và cửa phụ nằm ở mặt chính và cả các mặt bên nhà thờ là ví dụ rõ ràng nhất cho phong cách Phục hưng nơi đây. Trong lòng nhà thờ rộng với mái vòm cao vút, dáng vẻ lộng lẫy, hoành tráng. Công trình với 6 cột bên và tổng cộng là 12 cột trong lòng nhà thờ tượng trưng cho 12 thánh tông đồ. Trên gian cung thánh nơi cao được đặt tượng Chúa Giê-su, bên dưới có tượng Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội là quan thầy của địa phận Phú Nhai [20].

Vương cung Thánh đường này có một điểm rất đặc biệt, đặc biệt hơn hẳn các nhà thờ khác trong khu vực ở chỗ, nếu như một số công trình khác sẽ mang một chút dáng vẻ Á Đông ở đâu đó, thì với riêng Phú Nhai, điểm này nổi bật rõ nét hơn cả. Trên các vòm cửa sổ lẽ ra là cửa sổ hoa hồng theo phong cách Gothic thì là lại các Hán tự về Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội như: 女王 (nữ vương), 和平 (hòa bình), 原罪 (nguyên tội), 母 (mẹ), 贞女 (trinh nữ) , 德 (đức), 镜 (kính), 义 (nghĩa)… Có thể thấy, qua bàn tay khéo léo của những người thợ ở Bùi Chu (Nam Định), đã rất tinh tế kết hợp kiến trúc phương Tây với văn hóa Việt Nam, mang đến cho ngôi thánh đường sự nguy nga, hoành tráng nhưng cũng không kém phần linh thiêng, gần gũi với người dân.

Giá trị tâm linh của công trình đối với giáo dân và giáo xứ:

Đối với giáo dân ở Phú Nhai thì Tiểu vương cung thánh đường Phú Nhai không chỉ là ngôi nhà thờ để giáo dân đến sinh hoạt tôn giáo, thực hiện các nghi lễ để tôn vinh Thiên Chúa, mà nơi đây còn là một nơi linh thiêng, là nơi giáo dân và các con cháu đời sau nhớ đến sự bảo trợ của Đức Mẹ mà ngày đêm noi gương Đức Mẹ sống thánh thiện. Nơi thánh đường này cũng là nơi mọi tín hữu tri ân đến các anh hùng tử vì đạo đã ngã xuống để cho giáo dân được tốt đẹp như ngày hôm nay.

2.1.3. Các công trình kiến trúc Công giáo tiêu biểu ở Ninh Bình

2.1.3.1. Quần thể nhà thờ đá Phát Diệm Khóa luận: Thực trạng phát triển du các kiến trúc tại Ninh Bình

Đến với mảnh đất Ninh Bình du khách sẽ nghĩ đến các điểm du lịch nổi tiếng như Chùa Bái Đính- một trung tâm Phật Giáo mới, hay các danh thắng Tràng An, Tam Cốc Bích Động… , ngoài ra còn có một điểm đến khác cũng rất lí thú mà từ lâu đã được du khách ghé thăm đó là Quần thể nhà thờ đá Phát Diệm. Được mệnh danh là kinh đô của Công giáo, tuy nhiên công trình này chưa được nhiều người ghé thăm như chùa Bái Đính. Quần thể nhà thờ đá Phát Diệm là một công trình kiến trúc nhà thờ Công giáo được xây dựng nhiều bằng chất liệu đá, nên đã tạo nên sự độc đáo cho kiến trúc.

Quần thể nhà thờ đá Phát Diệm còn được gọi là Nhà thờ chính tòa Phát Diệm. Quần thể nhà thờ trải dài 22ha, nằm ở thị trấn Phát Diệm, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình. Công trình kiến trúc là tư liệu sống động về sự hội nhập văn hóa giữa Việt Nam và nước ngoài. Đây là một loại hình văn hóa vật chất, vì vậy, kiến trúc có một vị trí nhất định trong kho tàng văn hóa dân tộc Việt Nam.

Hiện nay, tỉnh Ninh Bình và các nhà nghiên cứu Nhật Bản đang hoàn thiện hồ sơ về kiến trúc nhà thờ Phát Diệm để đề nghị UNESCO công nhận nhà thờ đá Phát Diệm là di sản văn hóa thế giới. Nhà thờ Phát Diệm được báo chí đánh giá là nhà thờ đẹp nhất Việt Nam, được coi là “kinh đô Công giáo” của Việt Nam. Để hiểu sâu thêm ta cùng tìm hiểu về lịch sử xây dựng và kiến trúc của ngôi thánh đường này.

Lịch sử xây dựng

Quần thể nhà thờ đá Phát Diệm, tọa lạc trên vùng đất huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình. Quần thể kiến trúc Nhà thờ Phát Diệm đã được Bộ Văn hóa nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia ( Quyết định số 28 VHQĐ ngày 18/01/1988).

Ngược dòng lịch sử, cuối thế kỉ 19, Phát Diệm là một vùng đất bồi. Mãi đến năm 1828, Nguyễn Công Trứ được triều đình Huế phái ra Bắc khai phá đất đai. Ông đã mở mang được vùng đất Tiền Hải thuộc tỉnh Thái Bình và Kim Sơn thuộc Ninh Bình ngày nay.

Xét về lịch sử truyền giáo: như đã trình bày bên trên, vào ngày lễ thánh Giuse, 19 tháng 3 năm 1627, Cha Alexandre de Rhodes (còn được gọi là Cha Đắc Lộ) đã đến Cửa Bạng và trên đường ra kinh đô Thăng Long, ngài dừng chân tại Văn Nho gần Thuần Phủ (nay là Hảo Nho thuộc giáo phận Phát Diệm).

Thời gian 250 năm sau khi truyền giáo vào vùng đất này, tại Kim Sơn ước tính đã có 50.000 giáo dân. Năm 1865, Cha Phê-rô Trần Lục còn được gọi là cụ Sáu được phong làm chính xứ Phát Diệm. Ngài coi sóc xứ Phát Diệm 34 năm. Cái tên Cụ Sáu đã thân thương đi vào lòng người dân. Cha đã hoàn thành trọn vẹn cả việc đạo và việc đời. Cụ Sáu đã lo giáo dục cho người dân về đạo đức. Cha còn lên kế hoạch xây dựng khu Nhà Thờ Phát Diệm. Ngài có kế hoạch như thế và ngài tuần tự thực hiện từ năm 1875 đến khi qua đời. Công trình Cụ Sáu để lại chính là quần thể nhà thờ đá Phát Diệm ngày nay. Nhà thờ là nơi trung tâm nên hàng năm ngôi thánh đường này đón tiếp rất nhiều du khách và giáo dân đến tĩnh tâm, tham dự thánh lễ.

Khu di tích nhà thờ Phát Diệm khá đồ sộ, gồm có 1 nhà thờ lớn và 5 nhà thờ nhỏ. Các công trình trong quần thể kiến trúc như sau: Phương đình, Nhà thờ lớn, bốn nhà thờ nhỏ ở hai bên, ba hang đá nhân tạo và nhà thờ đá. Bao xung quanh quần thể là tường bao bọc. Nhà thờ Phát Diệm là sự kết hợp hài hòa giữa nghệ thuật Âu Châu và nghệ thuật Á Đông, với kiểu kiến trúc vừa trọng điểm, vừa trải rộng trong không gian, xây dựng chủ yếu bằng đá trong 24 năm. Công trình là mong muốn của cụ Sáu muốn nói lên tính chất hòa hợp, sự hội nhập giữa đạo Công giáo với nền văn hóa kiến trúc của dân tộc, thể hiện sự hòa hợp giữa Công giáo với các tôn giáo khác ở Việt Nam và qua đó nói lên tính đoàn kết giữa các cộng đồng cư dân của đất nước.

Đặc điểm kiến trúc nhà thờ

Công trình kiến trúc quần thể nhà thờ Phát Diệm được xây dựng có nét giống đình, chùa Việt Nam. Đó là nét độc đáo của nền văn hóa dân tộc. Các kiến trúc trong quần thể bao gồm:

Đi từ ngoài đường vào du khách sẽ bắt gặp ngay một ao hồ có hình chữ nhật rộng 4ha, xung quanh được kè đá, giữa hồ có một hòn đảo nhỏ trên đó đặt tượng Chúa Giê-su.

Tiếp theo là Phương Đình được xây dựng năm 1899, là một công trình cao 25m, rộng 17m, dài 24m. Công trình gồm 3 tầng được xây bằng các phiến đá, lớn nhất là tầng dưới cùng được xây dựng bằng đá xanh. Trên đỉnh tháp của công trình có đặt 4 pho tượng của bốn vị Thánh Sử. Giữa Phương Đình đặt một sập bằng đá nguyên khối. Tầng 2 của Phương Đình treo một trống lớn và tầng thứ ba treo một quả chuông cao 1,4m, đường kính 1,1m, nặng 2000kg. Chiếc chuông có nét đặc sắc là 4 góc chuông tạo ra 4 âm thanh khác nhau mà người ta vẫn gọi là 4 mùa trong năm. Một điều đặc biệt nữa của kiến trúc này là tháp không cao như các nhà thờ khác mà lại là mái cong thấp cổ kính như mái đình, mái chùa. Phương đình mang dáng của một đình làng rộng lớn. Nhìn tổng thể ta thấy công trình này khác với các thánh đường phương tây, phần giữa có dáng của một cổng tam quan trong kiến trúc truyền thống với kĩ thuật rất tinh xảo.

Phía sau Phương đình, cách một cái sân nho nhỏ là công trình Nhà thờ lớn. Ngôi nhà thờ được xây dựng năm 1891 với tên chính thức là nhà thờ Đức Mẹ Mân Côi (nay là nhà thờ chính tòa của vị Giám mục Phát Diệm). Nhà thờ lớn dài 74m, rộng 21m, cao 15m, có bốn mái và có năm lối vào dưới các vòm đá. Trong lòng nhà, các cột được sử dụng từ gỗ lim, mỗi cột nặng 10 tấn. Gian cung thánh đặt bàn thờ bằng đá nguyên khối lớn nặng khoảng 10 tấn, được chạm trổ hoa văn tinh xảo. Ngôi thánh đường này tuy được kết hợp với kiến trúc bên ngoài bằng đá, bên trong nội thất lại sử dụng bằng gỗ kết hợp với đá. Lối kiến trúc cũng mang phong cách dân tộc Việt Nam kết hợp với kiến trúc Châu Âu. Mái của các ngôi nhà thờ ở đây đều sử dụng lối kiến trúc mái của đình, chùa Việt Nam. Hai phía bên của nhà thờ được xây dựng 4 nhà thờ nhỏ được kiến trúc theo phong cách riêng.

Đầu tiên kể đến là nhà thờ đá: mặc dù chỉ là một công trình nhỏ trong quần thể nhà thờ Phát Diệm nhưng lại đặc biệt nhất. Công trình được khởi công từ năm 1883, tên nguyên thủy của nhà thờ là “nhà nguyện trái tim vô nhiễm nguyên tội Đức Mẹ”. Mọi người thường biết đến với cái tên là nhà thờ đá vì tất cả đều được xây dựng và thiết kế bằng đá. Tất cả ngôi thánh đường từ tường, cột, chấn song đến nền nhà cũng được làm bằng đá; đặc biệt là bức chạm tứ quý: tùng, cúc, trúc, mai rất tinh xảo trong nhà thờ.

Các nhà nguyện còn lại là Nhà nguyện dâng kính Trái Tim Chúa, nhà nguyện thánh Phê-rô, nhà nguyện thánh Giuse và nhà nguyện thánh Roco (tên nguyên thủy là nhà nguyện thánh Gioan Tiền Hô). Tiến tiếp về phía Bắc khu nhà thờ Phát Diệm có 3 hang đá cách nhau khoảng 100m. Đây là hang đá nhân tạo trong đó có núi Lộ Đức là hang đá lớn và đồ sộ nhất; 2 hang đá còn lại là núi sinh nhật và Núi Sọ. Đó là tất cả các công trình lớn được xây dựng trong quần thể nhà thờ đá Phát Diệm tạo nên vẻ đẹp cho một khung cảnh kiến trúc đồ sộ này [18].

Các công trình này được Cụ Sáu bố trí trên một mặt phẳng tổng thể hình chữ “Vương”, được làm theo phong cách tạo cảnh của Phương Đông. Quan sát tổng thể ta thấy quan niệm “tiền có thủy, hậu có sơn” của người Á Đông được thể hiện rất rõ nét qua cách phối trí trước có ao hồ, sau có núi. Với cách kết hợp kiến trúc hòa nhập chứ không hòa tan rất tinh tế của các người thợ, cùng với sự kết hợp vật liệu đá và gỗ đã tạo cho Phát Diệm một nét đẹp mộc mạc, cổ kính.

Giá trị tâm linh của công trình kiến trúc với giáo dân và giáo hội

Công trình kiến trúc quần thể nhà thờ là sự hi sinh bao công sức, tâm huyết và tiền bạc của giáo dân và các linh mục. Đó là một thành quả cống hiến mà các bậc Cha ông đã để lại con cháu đời sau, qua đó con cháu có thể thấy được một thời kì giáo phận phát triển vững mạnh và đời sống phong phú, cũng như những người thợ của giáo phận tài hoa thế nào.

Ngôi thánh đường là nơi thờ phượng Thiên Chúa, là trung tâm để người dân sinh hoạt tôn giáo và là niềm tự hào, là một điểm hành hương cho các tín hữu mọi nơi trên đất nước đến thăm. Đây cũng là trung tâm tôn giáo quy tụ mọi tín đồ tôn giáo trong giáo phận Phát Diệm.

Ngôi thánh đường còn là nơi quy tụ và đào tạo các lớp thiếu nhi và giới trẻ với chương trình giáo lí và giờ sinh hoạt văn nghệ. Tại giáo xứ Phát Diệm có 2 nhóm lớn là nhóm Thiếu Nhi Thánh Thể và nhóm giới trẻ giáo phận Phát Diệm.

Đây là hai nhóm phát triển rất hùng hậu và dẫn đầu trong giáo phận cả về số lượng và chất lượng.

2.1.3.2. Đan viện Châu Sơn Khóa luận: Thực trạng phát triển du các kiến trúc tại Ninh Bình

Như phần trình bày bên trên ta được biết đến phong cách nhà thờ Tây với sự sáng tạo của con người Việt Nam mà phong cách ấy được thể hiện dưới nhiều vật liệu khác nhau. Một trong số đó là nhà thờ được xây dựng bằng chất liệu gạch, tiêu biểu là Đan viện Châu Sơn.

Đan viện hay đơn viện là từ dịch từ tiếng Latin: “monasterium”. Đây là nơi của các thầy tu của các dòng tu bên Ki-tô giáo. Trong Ki-tô giáo, thầy tu là người sống trong một cộng đồng, với lối sống khổ hạnh, cuộc sống chủ yếu là cầu nguyện và chiêm nghiệm. Thầy tu khác với linh mục, linh mục là chức sắc tôn giáo, thực hiện các nghi thức làm lễ và giảng đạo cho giáo dân. Chữ “đan” hay “đơn” có nghĩa là một mình, đây là dịch từ gốc Hy Lạp “mono-” trong Latin monasterium. Các thầy tu (tu sĩ) sống trong đan viện được gọi là đan sĩ (có thể hiểu là “người sống một mình”). Tiếng Anh là monk.

Đan sĩ: (“đan” là cách viết chệch của “đơn”, tiếng Hy Lạp nghĩa là “độc thân”) là những Ki-tô hữu thực hành tôn giáo một cách khổ hạnh, sống một mình hoặc với những người khác trong cùng một môi trường gọi là đan viện. Đời sống chủ yếu của đan sĩ là cầu nguyện, chiêm niệm, lao động tự cung tự cấp.

Trong giáo hội Công giáo Rome, đan sĩ là thành viên của dòng tu nhưng sống thành cộng đoàn trong một đan viện, tu viện, hoặc nhà dòng theo một quy luật hoặc hiến pháp của dòng tu đó. Thông thường, cũng như các tu sĩ Kito giáo nói chung, họ cam kết thực hiện ba lời khấn là khiết tịnh, khó nghèo và vâng phục. Người đứng đầu một cộng đoàn đan viện gọi là viện phụ.

Đan viện Châu Sơn hay còn gọi Đan viện thánh Mẫu Châu Sơn là một đan viện thuộc dòng Xito. Ngôi nhà thờ được tọa lạc tại xã Phú Sơn, huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình, cách trung tâm thành phố Ninh Bình 35km.

Để nhận dạng được kiến trúc nhà thờ gạch ta có thể xem kết cấu của ngôi nhà thờ; nhà thờ được xây bền vững bằng gạch và bê tông chịu lực; các gờ cà trang trí cũng được sử dụng từ gạch một cách mộc mạc để tạo sự độc đáo. Để hiểu rõ hơn về kiến trúc này ta có thể tìm hiểu sâu hơn về kiến trúc như sau.

Lịch sử xây dựng và phát triển của đan viện Châu Sơn

Bối cảnh khai sinh Đan viện Xitô Thánh Mẫu Châu Sơn thật đặc biệt. Đức Giám mục đầu tiên người Việt Nam Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng đã ngỏ ý xin cha Bề trên Đan viện Xitô Phước Sơn, Quảng Trị cử một nhóm đan sĩ ra Miền Bắc lập dòng trong địa phận Phát Diệm “để nên như cây thu lôi thiêng liêng, cùng với nhà dòng kín bênh đỡ Giáo phận bằng lời cầu nguyện và hãm mình” [13]. Do đó, ngày 08/09/1936, cha bề trên Anselmô Lê Hữu Từ chính thức khai sinh cộng đoàn Xitô Châu Sơn.

Đan viện Thánh Mẫu Châu Sơn được xây dựng từ năm 1939. Đây là một đan viện chuyên chiêm niệm. Ngôi thánh đường này cũng đã cùng với giáo hội Công giáo Việt Nam trải qua những tháng ngày khó khăn của lịch sự truyền giáo. Cụ thể như sau:

Từ năm 1940 – 1948: đây được coi là giai đoạn xây dựng, là thời điểm đan viện Châu sơn lớn mạnh và bắt đầu có nhiều chủng sinh và linh mục triều. Lễ khởi công xây dựng thánh đường và khuôn viên Đan viện được diễn ra vào tháng 2 năm 1939 nhân dịp lễ kính các thánh Tử đạo Việt Nam. Thánh đường được hoàn thiện và khánh thành vào tháng 11 năm 1945. Ngay từ khi mới hình thành và xây dựng, đan viện Châu Sơn đã cống hiến cho giáo hội một Cha bề trên về làm giám mục Giáo Phận Phát Diệm đó là cha Anselmo Lê Hữu Từ. Khóa luận: Thực trạng phát triển du các kiến trúc tại Ninh Bình

Từ năm 1950 – 1988: đây là giai đoạn khó khăn của đan viện khi đan viện bị giám sát chặt chẽ bởi nhà nước. Nhiều tu sĩ đã bị bắt đi cải tạo, giam giữ, tù đầy không cần xét xử. Năm 1952 theo dòng di cư, phần lớn các tu sĩ Xito Châu Sơn lên đường di cư vào Nam. Số tu sĩ còn lại là 14 thành viên trong đó có 2 linh mục, 6 thầy và 6 cố dòng ba. Theo thời gian đất đai của đan viện bị hợp tác xã quản lí và người dân tứ phương lấn chiếm. Cuộc sống của các tu sĩ trở nên khó khăn phải đi làm thuê kiếm sống. Mọi hoạt động của đan viện đều bị nhà nước theo dõi chặt chẽ, mọi liên lạc với bên ngoài của đan viện cũng trở nên đứt quãng. Đến năm 1981 đan viện chỉ còn lại một Cha, một thầy và một cố dòng ba. Cuộc sống mưu sinh và sinh hoạt tôn giáo ngày một khó khăn, rơi vào tình trạng nguy cơ mất đạo.

Từ năm 1988 – 2008: thời gian này có thể được coi là thoát khỏi khó khăn và hồi sinh của đan viện. Năm 1989 nhờ sự đề đơn xin, đan viện có thêm 4 người mới đều là những người trẻ, có sức khỏe mang lại sự khởi sắc cho đan viện. Năm 1994, cha Gêrađô Nguyễn Văn Thất đắc cử Viện phụ Châu Sơn Đơn Dương. Ngài tích cực củng cố cộng đoàn Châu Sơn Nho Quan trên nhiều phương diện: tinh thần, vật chất, đào tạo nhân sự và cử một số linh mục ra giúp đỡ. Ngài tiếp tục đón nhận những anh em dự tu của Châu Sơn Nho Quan vào đào tạo tại Châu Sơn Đơn Dương. Năm 2005 đan viện mở lại tập viện đào tạo tại chỗ., sau đó Đan viện Châu Sơn đã có 91 thành viên.

Đến ngày nay đan viện Châu Sơn đã lớn mạnh và vững chắc. Diện tích đất đai được mở rộng canh tác hơn. Ngoài ra, Đan viện còn quan tâm đến việc đón tiếp khách. Từ khi mới thành lập, đan viện đã được nhiều người tìm đến cầu nguyện, tĩnh tâm và được các nhà tu đón tiếp và giúp họ hoán cải có đức tin tốt.

Đặc điểm kiến trúc:

Thánh đường Đan viện Châu Sơn được thiết kế theo kiểu Gothic với bức tường bao quanh dày 0,6m, chỗ cột dày 1,2m tạo sự ấm áp về mùa đông và mát mẻ về mùa hạ. Chiều dài nhà thờ dài 64m, các cột nhà được thiết kế thành những tháp nhỏ. Các bức tường được trang trí bằng cách chạm thủng để đặt các bức tượng. Ngôi thánh đường Châu Sơn đặc biệt bởi phong cách Gothic được sử dụng vật liệu gạch thô sơ mà mộc mạc.

Với bàn tay tài ba, những người thợ đã khéo léo dùng gạch để tạo kiểu cho ngôi thánh đường. Nếu bạn đến đây sẽ thấy được bên trong ngôi thánh đường vẻ trang trọng, lung linh không kém các nhà thờ khác. Với kiến trúc Gothic, những người thợ đã khai thác lấy đủ ánh sáng cho nhà thờ qua những cửa sổ lớn. Kiến trúc bên ngoài nhà thờ sử dụng hoàn toàn gạch để xây dựng và trang trí các họa tiết một cách mộc mạc. Bên trong được xây dựng đầy đủ, tường được hồ áo và sơn đẹp đẽ. Vào trong lòng nhà thờ, ta có thể thấy mái vòm cao 21m, là đỉnh cao của nghệ thuật kiến trúc trong lòng thánh đường. Các kiến trúc bên trong vẫn mang những đặc điểm chung theo các nhà thờ khác như xung quanh nhà thờ có 14 đàng thánh giá, nhà thờ được chia làm 2 phần là gian cung thánh và phần dành cho giáo dân. Ngoài ngôi thánh đường ra, nơi đây còn đẹp bởi có núi non hùng vĩ bao bọc. Các công trình phụ trợ đa phần là những công trình phục vụ cho việc làm và sinh hoạt của các tu sĩ.

Nếu bạn ở Ninh Bình bạn có thể biết đến thương hiệu nước uống Châu Sơn. Đó là một trong những công việc của các đan sĩ sau những giờ chiêm nghiệm, giờ lễ thì các đan sĩ trở về với đời thường làm công việc để tạo ra các sản phẩm mang thương hiệu đan viện, ví dụ như làm nến, nhà điêu khắc tượng, nhà sản xuất nước lọc, nhà may…, ngoài ra, các đan sĩ cũng là những người thợ xây để xây dựng nên các công trình. Đan viện còn làm nông trại trồng cấy hoa màu, có trang trại nuôi lợn, nuôi bò. Đó là một số hoạt động của các đan sĩ.

Giá trị tâm linh của công trình kiến trúc đối với giáo dân và giáo hội

Mục tiêu mà đan viện hướng đến là “lao động và cầu nguyện” đây được coi là tôn chỉ sống của đan viện. Đối với đan viện, công trình kiến trúc là nhà, là một nơi sinh sống, thờ phượng, tu luyện của các đan sĩ.

Đối với giáo dân và du khách, đan viện Châu Sơn không chỉ là nơi đền thờ mà còn là nơi các tín hữu đến để học hỏi, noi theo gương sống khiêm tốn, khó nghèo của các đan sĩ. Đây là điểm đến du lịch không thể thiếu của du khách là người Ninh Bình và người Công giáo ở các tỉnh lân cận vào dịp Xuân về.

Đan viện thường xuyên giúp dạy giáo lí cho anh chị em giáo dân các họ đạo chung quanh Đan viện và tham gia công tác cứu trợ những nơi gặp thiên tai, trợ cấp học bổng, xây dựng các trường mầm non cho con em địa phương, thăm hỏi phát gạo cho người neo đơn, giúp đỡ kinh phí cho một số gia đình có cơ hội sửa chữa nhà ở hoặc xây mới hoàn toàn.

2.2. Thực trạng khai thác các công trình, kiến trúc Công giáo ở Nam Định và Ninh Bình những năm gần đây

2.2.1. Khai thác trong cộng đồng giáo dân Khóa luận: Thực trạng phát triển du các kiến trúc tại Ninh Bình

Ngay từ khi Giáo hội Công giáo vào Việt Nam đã có một hệ thống các luật lệ, nghi lễ rất chi tiết và được áp dụng trên toàn thế giới. Việc này nhằm xây dựng và nuôi dưỡng Đức tin của người Ki-tô giáo. Mỗi ngày lễ đều có ý nghĩa và được thực hiện theo nghi thức khác nhau.

Lễ trọng: là những ngày lễ trong lịch phụng vụ của giáo hội Công giáo có liên quan đến sự kiện Đức tin về Chúa Ba Ngôi, Chúa Giê-su, Đức Mẹ Maria hay các vị thánh quan trọng. Việc cử hành thánh lễ và tham dự là bắt buộc tín đồ phải giữ lễ gọi là lễ trọng.

Những ngày lễ trọng có thể kể đến là ngày Chúa sinh ra đời hay còn được gọi là lễ giáng sinh, lễ Noel. Thánh lễ được tổ chức là 25 tháng 12 hàng năm. Ngày nay, ở Việt Nam dù không phải là chính thức nhưng Giáng sinh dần dần được coi như ngày lễ không chỉ của riêng người Ki-tô giáo mà còn là ngày vui của tất cả mọi người thuộc nhiều tôn giáo khác nhau hoặc người vô thần. Vào dịp lễ giáng sinh thì người giáo dân dù có đi làm xa cũng về đoàn tụ gia đình và cùng nhau chào đón ngày kỉ niệm Chúa chào đời và họ dành cho nhau những lời chúc tốt đẹp vào ngày này.

Lễ phục sinh cũng là một trong những đại lễ của người Ki-tô giáo. Đây là ngày kỉ niệm Chúa sống lại, được tổ chức vào ngày chủ nhật tuần thứ ba trong tháng 4. Ngày này giáo dân các địa phương sẽ tụ họp về nhà thờ lớn để dự lễ, đón chờ giờ khắc kỉ niệm Chúa sống lại. Trong ngày lễ này người tín hữu thường tặng cho nhau những món quà hay quả trứng phục sinh được trang trí rất đẹp mắt và chúc nhau những điều tốt lành. Ngày Chúa phục sinh mang lại hi vọng cho mọi người.

Đối với người Công giáo khi Chúa sống lại ngày đại lễ thì ngày kỉ niệm Chúa lên trời cũng là một ngày lễ trọng. Người Công giáo luôn gửi gắm một niềm tin mãnh liệt vào Chúa Giê-su. Khi người lên trời, người Công giáo tôn vinh thiên Chúa và mong ước được lên trời với Chúa Giê-su. Vì thế mà ngày lễ được tổ chức sau khi Chúa sống lại giao giảng 40 ngày. Ngày kỉ niệm đó thường rơi vào thứ 5. Người giáo dân thường tụ họp về nhà xứ, cung nghênh, kiệu tượng Chúa Giesu đi quanh nhà thờ. Đối với nhà thờ Phát Diệm, ngày này Linh mục tổ chức Kiệu tượng Chúa đi quanh ao hồ và vào nhà thờ làm lễ.

Một trong số những thánh lễ quan trọng nữa là lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời và lễ các thánh. Lễ các thánh được tổ chức vào 1/11 hàng năm. Đây là một thánh lễ rất được người Công giáo quan tâm. Vì đây là thánh lễ tôn kính các vị thánh và ngay sau ngày kính các thánh là ngày cầu cho các linh hồn, tổ tiên. Người ki-tô giáo quan niệm ngày đó là ngày tôn vinh các thánh và nhờ các thánh cầu xin với Chúa Giê-su nâng đỡ cho gia đình và những linh hồn tổ tiên đã khuất [22].

Bên cạnh những ngày lễ trọng nói trên nhất định phải theo, thì tùy theo vị trí, lịch sử và qui mô của từng nhà thờ mà việc tổ chức các ngày lễ hay các sự kiện tại các công trình kiến trúc Công giáo đó cũng khác nhau. Khóa luận: Thực trạng phát triển du các kiến trúc tại Ninh Bình

Các ngày lễ trọng và các nghi thức ở nhà thờ chính tòa Bùi Chu:

Tại nhà thờ Bùi Chu, hàng năm Đức Giám mục chủ sự thánh lễ Đa Minh – quan thầy đệ Nhị Giáo phận, lễ truyền chức linh mục, lễ tấn phong Giám mục, lễ phục sinh, giáng sinh và một số đại lễ khác tại nhà thờ chính tòa. Vì là trung tâm Công giáo của giáo phận nên nơi đây cũng được lựa chọn để tổ chức các đại hội thiếu nhi, đại hội giới trẻ và các buổi hành hương, tĩnh tâm dành cho người Công giáo ở khắp nơi trong giáo phận Bùi Chu.

Hàng năm vào ngày 8 tháng 8 là ngày lễ quan thầy của giáo phận, giáo dân ở khắp nơi về dự thánh lễ. Các sự kiện này quy tụ nhiều tu sĩ, linh mục và giáo dân. Từ đó, nhà thờ càng khẳng định rõ vị thế của mình và tiềm năng thu hút khách du lịch từ khắp nơi đến tham quan.

Các ngày lễ trọng và các nghi thức chính được tổ chức tại Nhà thờ Phú Nhai:

Đền thánh Phú Nhai cũng như các nhà thờ khác, lịch dâng lễ và các ngày lễ trọng theo lịch Công giáo. Tuy nhiên ngoài những ngày lễ buộc ra thì đền thánh còn chọn ngày mừng kính Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội ngày 08/12 làm ngày lễ quan thầy của đền thánh Phú Nhai. Vào ngày này những người giáo dân làm ăn ở khắp nơi đều trở về dự thánh lễ và cầu xin Đức Mẹ bảo trợ. Ngoài ra 19/11 hàng năm nơi đền thánh này còn cử hành thánh lễ mừng kính các thánh tử đạo và những người đã tử vì đạo.

Các ngày lễ trọng và các nghi thức ở Quần thể nhà thờ đá Phát Diệm:

Quần thể nhà thờ đá Phát Diệm là trung tâm và là nhà thờ chính tòa nên nơi đây thường xuyên tổ chức các ngày lễ lớn như tấn phong linh mục hay giám mục theo bề trên chỉ định; tổ chức các buổi đại hội cho từng lứa tuổi và các buổi tĩnh tâm. Ngoài những thánh lễ trọng được tiến hành theo lịch Công giáo thì nơi đây còn cử hành thánh lễ trọng thể vào ngày 26 tháng 9 hàng năm. Đây là ngày mừng kính thánh Phê-rô và Phaolo (là vị thánh quan thầy của giáo phận Phát Diệm).

Ngày lễ Noel là một ngày lễ trọng đối với tất cả các nhà thờ, tuy nhiên, đối với nhà thờ Phát Diệm thì đây là ngày vô cùng đặc biệt. Mỗi dịp Noel về là nhà thờ và giáo dân lại cùng bắt tay trang trí nhà thờ, đường và chính nhà mình trước cả tháng để kỉ niệm ngày chào mừng Chúa Giê- su sinh ra đời. Người dân Phát Diệm coi ngày này là ngày lễ lớn nhất trong năm.

Ngoài các lễ lớn như vừa kể trên, tại giáo phận Phát Diệm luôn sinh hoạt giới trẻ và thiếu nhi rất mạnh mẽ. Hàng năm nơi đây không những tổ chức các ngày lễ kỉ niệm của nhóm mà còn tổ chức các buổi đại hội giới trẻ giáo phận, giáo hạt. Một buổi đại hội quy tụ tất cả các bạn trẻ trong giáo phận về sinh hoạt, chia sẻ làm vững mạnh đức tin và thêm hòa đồng, yêu thương. Vào ngày 20, 21 hàng năm là ngày lễ truyền thống Mừng bổn mạng thánh Teresa Avila, được diễn ra trong 2 ngày với sự góp mặt của các bạn giới trẻ chính tòa, các bạn giới trẻ các giáo xứ trong giáo phận, các bạn sinh viên công giáo người Ninh Bình học tại Hà Nội và các bạn giới trẻ lân cận như sinh viên công giáo Bùi Chu… Mọi người quy tụ về nhà thờ Phát Diệm để học hỏi giáo lí, gắn kết mọi người với nhau, và biến đổi cách nhìn, lối sống của mỗi người qua các hoạt động thi giáo lí, chơi team Building, văn nghệ, lửa trại, tham dự thánh lễ và cầu nguyện.

Các ngày lễ trọng và các nghi thức tại Đan viện Châu Sơn – Ninh Bình:

Đan viện cử hành các thánh lễ theo lịch Công giáo. Ngoài ra có hai ngày lễ trọng mà đan viện nhận làm lễ bổn mạng đó là: ngày 08/09 là ngày sinh nhật Đức Mẹ và ngày 06/04 là ngày kính thánh Phaolo Lê Bảo Tịnh (vị thánh tử đạo Việt Nam). Đối với đan viện ngoài ngày lễ trọng ra thì mỗi ngày đều có giờ cầu nguyện và chiêm nghiệm rất linh thiêng. Ngày 4/11/2005, Tòa Thánh ban phép cho cộng đoàn Châu Sơn Nho Quan mở Năm Thánh, nhân dịp kỷ niệm 60 năm Cung hiến Thánh đường. Và ngày 8/ 9/ 2006, một lần nữa, Tòa Thánh ban phép cho cộng đoàn Châu Sơn Nho Quan mở Năm Thánh, nhân dịp kỷ niệm 70 năm thành lập Đan viện.

Tóm lại có thể nói, vào những dịp lễ trọng và đặc biệt là lễ riêng được tổ chức tại các nhà thờ nói trên, đã thu hút cộng đồng giáo dân không chỉ của giáo xứ hay họ đạo ở nơi đó mà còn lôi cuốn một bộ phận giáo dân khác đến từ các địa phương hay các tỉnh thành lân cận, thậm chí ở qui mô lớn còn thu hút tín dồ ki tô hữu ở các giáo phận lớn về tham dự. Đây chính là những dịp quan trọng để các nhà thờ Công giáo ở Nam Định và Ninh Bình xuất hiện trong mắt của những “du khách” đặc biệt này vừa với tư cách là các công trình tôn giáo vừa là các thắng cảnh du lịch đẹp. Thiết nghĩ, nếu biết kết hợp quảng bá làm du lịch thì trong tương lai không xa, chính cộng dồng giáo dân ở Việt Nam nói riêng và trên thế giới nói chung sẽ trở thành thị trường khách tiềm năng đến với các công trình kiến trúc Công giáo nơi đây, qua đó góp phần phát triển loại hình du lịch tôn giáo ở hai tỉnh Nam Định và Ninh Bình.

2.2.2. Khai thác của các công ty du lịch Khóa luận: Thực trạng phát triển du các kiến trúc tại Ninh Bình

Nắm bắt được nhu cầu của đông đảo người dân, những năm gần đây, các công ty du lịch lữ hành đã đầu tư vào lĩnh vực du lịch tâm linh. Hoạt động du lịch không chỉ đơn thuần là đi hành hương, hay thực hiện các nghi lễ tôn giáo tín ngưỡng thuần túy mà còn là động lực thúc đẩy sự giao lưu văn hóa và phát triển kinh tế – xã hội. Đó cũng là cách thức để thế hệ hôm nay bày tỏ sự tưởng nhớ đối với công lao của các bậc tiền bối và cha ông.

Du lịch Việt Nam đang phát triển trong bối cảnh ngành du lịch tiếp tục là một trong những ngành có đóng góp quan trọng vào GDP của cả nước. Trên đà đó các tỉnh cũng có những chiến lược phát triển du lịch.

Trong tỉnh Ninh Bình: Cùng với xu thế phát triển du lịch 4.0 theo hướng khoa học công nghệ, tỉnh Ninh Bình cũng triển khai hệ thống Cổng thông tin du lịch và ứng dụng du lịch thông minh trên thiết bị di động. Nhằm cung cấp thông tin chính thống và trải nghiệm tốt nhất cho khách du lịch, đầu năm 2018, tỉnh đã triển khai chương trình hợp tác ứng dụng công nghệ thông tin, dịch vụ viễn thông, phục vụ công tác quản lý, điều hành, kết nối thông tin với các huyện, thành phố trong tỉnh; tạo điều kiện cho việc quảng bá, xúc tiến hình ảnh du lịch, xây dựng sản phẩm công nghệ số nhằm phục vụ khách du lịch trong nước và quốc tế, đưa tỉnh Ninh Bình ngày một tiến đến ngành công nghiệp không khói.

Các trang cổng thông tin đưa đến cho nhiều người biết đến Ninh Bình. Bên cạnh đó, các công ty du lịch tại Ninh Bình cũng khai thác phát triển du lịch tại tỉnh như việc xây dựng tour du lịch đến các điểm tham quan trong tỉnh cho khách du lịch trong tỉnh và khách ngoài tỉnh. Vào các dịp lễ hội, các công ty thường có tour du lịch lễ hội đưa khách ở các tỉnh khác đến với Ninh Bình. Ví dụ như công ty du lịch Ninh Bình Tours đưa khách tỉnh bạn đến Ninh Bình với nhiều tour như tour Hà Nội- Tràng An- Bái Đính.

Trong tỉnh Nam Định: Trong thời gian qua tỉnh Nam Định đã tập trung triển khai công tác quy hoạch tổng thể phát triển du lịch, định hướng phát triển các loại hình, các sản phẩm du lịch chủ yếu dựa trên khai thác, phát huy tiềm năng du lịch tự nhiên và du lịch văn hóa. Toàn tỉnh hiện có 70 làng nghề thủ công nghiệp với các ngành nghề và sản phẩm truyền thống như ươm tơ, dệt lụa, chạm khắc gỗ La Xuyên… Tỉnh Nam Định cũng đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền quảng bá giới thiệu tiềm năng du lịch của tỉnh. Khóa luận: Thực trạng phát triển du các kiến trúc tại Ninh Bình

Bên cạnh đó, các công ty du lịch ở các tỉnh lân cận cũng đã đưa kiến trúc nhà thờ vào quảng cáo và phát triển sản phẩm, trong đó Hà Nội là nơi có nhiều công ty tổ chức và quảng cáo nhất, một phần là do số dân đông và kinh tế phát triển nên nhu cầu đi du lịch của người dân tăng cao. Có thể nói hiện nay, du lịch Việt Nam ngày một phát triển không ngừng, việc du khách đi đến các ngôi thánh đường đẹp chưa được khai thác nhiều đã trở nên quen thuộc và một số công ty lâu năm đã đang đưa vào quảng cáo và xây dựng chương trình cho du khách đến với các nhà thờ nổi tiếng. Đặc biệt là các nhà thờ đã đề xuất bên trên. Chương trình được nhiều người biết đến hơn hết là nhà thờ chính tòa Bùi Chu và quần thể nhà thờ đá Phát Diệm. Các chương trình du lịch dựa vào lợi thế là các dịp lễ Noel hay lễ phục sinh… của Công giáo để tạo nên chương trình du lịch lễ hội cho du khách để du khách đi tham quan có thể kết hợp tham dự lễ và hội cùng với người Công giáo. Một số công ty và chương trình du lịch đã được xây dựng như sau:

Một số chương trình du lịch đến Nhà thờ đá Phát Diệm:

Chương trình du lịch 1 ngày: Hà Nội- Ninh Bình- Tam Cốc- Nhà thờ đá Phát Diệm của công ty Hà Nội tourism

Chương trình: Tour du lịch lễ hội 1 ngày tới các điểm Ninh Bình- Tam Cốc- Nhà thờ đá Phát Diệm của công ty du lịch IDP travel

Chương trình du lịch lễ hội 2 ngày 1 đêm: Hải Phòng- tam cốc- nhà thờ đá Phát Diệm- Chùa Bái Đính- Tràng An của công ty Hoàng Phương….

Một số chương trình du lịch đến đan viện Châu Sơn:

Chương trình du lịch du xuân 1 ngày: Đan viện Châu Sơn- vườn quốc gia Cúc Phương của công ty Sao vàng Travel tổ chức.

Một số chương trình du lịch đến nhà thờ chính tòa Bùi Chu và Đền thánh Phú Nhai

Chương trình du lịch 1 ngày: Hành hương Bùi Chu- Đền thánh Phú Nhai- giáo xứ Vĩnh Trị của công ty du lịch Đông Nam Á. [18]

Hàng năm các công ty du lịch đưa ra các chương trình khác nhau, với nhiều mục đích du lịch khác nhau, không chỉ đi trong tỉnh mà còn kết hợp nhiều tỉnh nhằm tạo sự đặc sắc cho sản phẩm. Ví dụ: Du lịch 4 ngày hành hương về Phát Diệm- Bùi Chu khởi hành từ Sài Gòn của công ty Du Lịch Việt. [14]

Có thể nói, du lịch tâm linh đối với Phật giáo rất phát triển trên khắp đất nước Việt Nam, còn đối với Công giáo thì du lịch mới bắt đầu manh mún phát triển. Với kho tàng văn hóa lớn của người Công giáo, chắc chắn trong tương lai sẽ phát triển và được nhiều người biết đến.

2.3.  Đánh giá thực trạng khai thác du lịch

Từ xa xưa đến nay người ta vẫn thấy được thế mạnh của các điểm tôn giáo, tín ngưỡng trong kinh doanh du lịch. Các điểm này luôn tiêu biểu cho giá trị văn hóa của một quốc gia, dân tộc nên có sức hấp dẫn tự nhiên đối với du khách từ nơi khác đến. Khi cuộc sống của con người ngày càng đề cao các giá trị tinh thần thì việc đi thăm viếng các công trình tôn giáo, tín ngưỡng để thưởng ngoạn cảnh quan thanh bình, xa rời thế tục, tham gia vào các hoạt động tại nơi đến đang trở thành một xu hướng của cuộc sống hiện đại. Hoạt động “du lịch tâm linh” từ đó ra đời với ý nghĩa giúp du khách: “thăm viếng trái tim và tâm trí của những bậc hiền triết”. Đất nước càng phát triển, xu hướng này càng cần thiết đối với người dân và du khách.

Theo các cơ sở tôn giáo, sở dĩ các tour đưa lượng khách lớn tới đây tham quan vì không bán vé, cũng không đòi hỏi đóng góp bất kỳ một khoản phí nào. Nhà thờ đá Phát Diệm trung bình hàng năm đón hơn 300.000 lượt khách trong và ngoài nước.

Bên cạnh việc đưa tôn giáo vào phát triển hoạt động du lịch tâm linh cũng đặt ra những lợi thế và khó khăn riêng cho ngành du lịch, đòi hỏi các ban ngành tổ chức có phương pháp khắc phục.

2.3.1. Tiềm năng và lợi thế phát triển du lịch Khóa luận: Thực trạng phát triển du các kiến trúc tại Ninh Bình

Đối với tỉnh Ninh Bình: Nhiều điểm du lịch hấp dẫn là một lợi thế lớn cho việc phát triển du lịch, đặc biệt là việc kết nối các điểm du lịch tạo thành các sản phẩm du lịch mới lạ.

Đối với hai công trình kiến trúc Công giáo là Nhà thờ đá Phát Diệm và Đan viện Châu Sơn thì việc nằm trong một tỉnh có nhiều danh lam thắng cảnh và di tích lớn là một lợi thế. Các công ty du lịch sẽ thuận lợi trong việc kết hợp các điểm du lịch với công trình kiến trúc Công giáo, mang đến cho du khách nhiều trải nghiệm khám phá với các công trình Công giáo hơn. Đặc biệt là Nhà thờ đá Phát Diệm, bản thân nhà thờ đã là một kiến trúc đặc biệt. Công trình này còn gần với Cồn Nổi Kim Sơn và cách Tam Cốc- Bích Động không xa – đâyđều là hai điểm du lịch nổi tiếng được nhiều người trong nước cũng như nước ngoài biết đến.

Mặt khác, Nhà thờ chính tòa Bùi Chu và quần thể nhà thờ đá Phát Diệm là hai trung tâm tôn giáo của hai giáo phận, vì vậy nơi đây luôn quy tụ rất nhiều người Công giáo đến với nhà thờ. Ngoài ra việc dẫn đầu trong các giáo xứ về các phong trào, hoạt động đặc biệt là hai nhóm lớn Thiếu Nhi Thánh Thể và nhóm giới trẻ giáo phận rất hùng hậu, từ đó mang đến cho giáo phận sự tươi trẻ, mang đến một thế hệ trẻ đầy nhiệt huyết và đức tin. Từ những nhóm này đã thu hút rất nhiều bạn trẻ trên khắp tỉnh và cả các bạn trẻ ở các tỉnh lân cận đến với giáo phận để giao lưu.

Đối với tỉnh Nam Định: được biết đến với các đền miếu và các di tích nổi tiếng, hàng năm lượng khách du lịch đến với Nam Định cũng rất nhiều. Điểm này là một lợi thế cho việc phát triển du lịch của các công trình kiến trúc Công giáo.

Nhà thờ chính tòa Bùi Chu không chỉ có lịch sử lâu đời, kiến trúc của nhà thờ còn được các giáo sĩ mang y nguyên từ Châu Âu sang. Ngôi thánh đường mang phong cách Châu Âu cùng với nhiều công trình phụ trợ khá đồ sộ và ý nghĩa nên rất hấp dẫn với du khách. Sự mới lạ, cổ kính và linh thiêng của nhà thờ cũng là một lợi thế thu hút khách du lịch đặc biệt là người Công giáo đến viếng thăm.

Đền thánh Phú Nhai được nổi bật hơn cả là một tiểu vương cung với kiến trúc đẹp mắt và là nơi linh thiêng khi nhiều người tử đạo đã ngã xuống. Bản thân nhà thờ hàng năm đã thu hút rất nhiều người Ki- tô giáo hành hương đến với đền thánh. Việc Giáo hội Công giáo Roma công nhận nhà thờ là tiểu vương cung thánh đường, điều này đã làm trí tò mò của nhiều người được khơi lên, và muốn đi tìm hiểu.

Các nhà thờ lớn như nhà thờ đá Phát Diệm và nhà thờ Chính tòa Bùi Chu đều có các nữ tu của các dòng hướng dẫn mọi người, để du khách đến đây đều hiểu đúng và biết rõ hơn về ngôi nhà thờ. Việc đưa các nhà thờ kể trên vào du lịch mang lại công ăn việc làm cho người dân địa phương. Ngay chính trong đời sống sinh hoạt tôn giáo của người dân có sự thay đổi khi có sự góp mặt của các du khách từ nơi khác đến. Việc du khách đến cũng đem đến nhu cầu ăn uống, mua sắm, người dân ở gần nhà thờ sẽ có xu hướng buôn bán, kinh doanh nhằm phục vụ khách du lịch.

2.3.2. Hoạt động khai thác và hiệu quả Khóa luận: Thực trạng phát triển du các kiến trúc tại Ninh Bình

Thời gian khai thác

Các công trình kiến trúc kể trên luôn sẵn sàng đón tiếp du khách tất cả các ngày trong năm, trừ đan viện Châu Sơn là nơi dòng tu kín nên được mở cửa đón tiếp du khách vào chủ nhật. Đối với du khách thì thời gian đến với các nhà thờ là tùy thuộc vào mục đích du lịch. Các nhà thờ Chính tòa có thể khai thác du lịch vào dịp đại lễ như Noel, lễ Phục sinh, hay các buổi lễ tĩnh tâm dành cho người Công giáo ở các tỉnh lân cận. Ngoài ra, có thể khai thác vào các dịp đại hội giới trẻ, đại hội thiếu nhi hàng năm của nhà thờ Chính tòa. Ngày lễ tấn phong Linh mục, đức Giám mục được tổ chức ở nhà thờ chính tòa giáo phận là ngày lễ mà rất nhiều người trong và ngoài tỉnh quan tâm nên cũng có thể xem xét để đưa vào khai thác vào các dịp lễ đặc biệt này.

Không gian khai thác du lịch

Hiện tại đối với các nhà thờ chính tòa như quần thể nhà thờ Phát Diệm và nhà thờ chính tòa Bùi Chu thì không gian khai thác sẽ quy hoạch nằm trong đất giáo xứ, tuy nhiên riêng phần nhà xứ dành cho các linh mục, tu sĩ và Giám mục thì không đưa vào khai thác.

Đối với đan viện Châu Sơn trước nay vẫn được quy hoạch rõ ràng: không gian dành cho các đan sĩ sinh hoạt, chiêm nghiệm được cách biệt với thế giới bên ngoài; phần không gian nhà thờ và các không gian còn lại du khách có thể đến tham quan, chụp ảnh, cầu nguyện. Bên nhà dòng luôn đón tiếp du khách.

Đối tượng khách

Đối tượng khách là người Công giáo: Gồm có người Công giáo trên toàn tỉnh đến dự lễ và tham gia hoạt động hoặc giao lưu, hoặc tham quan. Và người Công giáo tỉnh khác đi hành hương về đền thánh để xin ơn và tham quan công trình, hay để tĩnh tâm.

Đối tượng khách là những người tôn giáo bạn hoặc không tôn giáo, đi với mục đích tham quan mở mang đầu óc, đi theo chương trình du lịch để biết thêm về Công giáo. Với khách ngoài Công giáo thì thường đi theo hình thức du lịch, đi theo gia đình người thân hay là những bạn trẻ muốn đi khám phá, trải nghiệm. Khóa luận: Thực trạng phát triển du các kiến trúc tại Ninh Bình

Các hoạt động du khách có thể tham gia

Đối với Nhà thờ Chính tòa Bùi Chu: khi du khách đến có thể cùng các tu sĩ đi tham quan các công trình, thăm các em ở cô nhi viện, động viên làm từ thiện hoặc có thể dâng hương với các thánh tử đạo. Có thể tham gia các hoạt động với Nhóm giới trẻ giáo phận Bùi Chu như các buổi giao lưu văn nghệ, lửa trại, hay các buổi lễ lớn của nhóm. Du khách cũng có thể tham gia vào các buổi đại hội giới trẻ nếu du khách đi đúng ngày.

Đối với thánh đường Phú Nhai ngoài việc du khách có thể chiêm ngắm đền thánh thì du khách có thể thắp nén hương cho các vị tử đạo nơi đây.

Đối với quần thể nhà thờ đá Phát Diệm thì du khách có thể tham gia vào các thánh lễ nếu bạn đến vào dịp lễ, dịp hội. Du khách cũng có thể tham gia vào thánh lễ, vào các hoạt động văn nghệ, lửa trại của giới trẻ giáo phận Phát Diệm, tham gia vào thánh lễ dành cho Thiếu Nhi Thánh Thể, hay du khách có thể tham gia vào các buổi đại hội được Đức Cha giáo phận tổ chức.

Đối với Đan viện Châu Sơn thì chưa có hoạt động nào cho du khách có thể tham gia. Tuy nhiên, đan viện lại là điểm có nhiều nghề mà du khách có thể tìm hiểu, mua các sản phẩm về làm kỉ niệm và làm quà cho gia đình.

Lượng khách du lịch hàng năm

Hàng năm lượng khách du lịch vào Ninh Bình khá là nhiều. Theo thống kê năm 2017, ngành du lịch Ninh Bình đón 7 triệu lượt khách, tăng 9% doanh thu ước tính đạt 2.450 tỷ đồng, tăng 41% so với năm 2016.

Trong đó, theo nguồn thông tin thu được từ phòng ban hướng dẫn tại Phát Diệm, lượng khách đến với nhà thờ đá Phát Diệm hàng năm khoảng 300.000 lượt khách. Năm 2017 số lượt khách đến với quần thể nhà thờ đá là 315.000 lượt khách . Thông tin được tính dựa vào số khách đăng kí hướng dẫn tại phòng hướng dẫn.

Lượng khách đến tham quan các điểm du lịch của tỉnh Nam Định vẫn còn khiêm tốn. Từ năm 2000 đến nay, lượng khách đến các điểm tham quan của tỉnh đạt mức tăng bình quân 10,6%/năm, năm 2017 ước đạt 2,25 triệu lượt khách. Theo đánh giá của Sở văn hóa thể thao du lịch Nam Định, lượng khách du lịch đến tham quan du lịch trong thời gian gần đây có xu hướng tăng chậm dần. Tuy nhiên, chưa có con số thống kê chính xác về lượng khách du lịch đến với các nhà thờ trên địa bàn tỉnh Nam Định, thứ nhất do các nhà thờ chưa chú trọng đến việc mở cửa đón tiếp du khách, khách đến đây chủ yếu là cộng đồng giáo dân hay khách vãng lai như các nhà nghiên cứu, học sinh sinh viên, các nhóm thanh niên, thứ hai hầu như các công ty du lịch cũng chưa quan tâm đến việc đưa khách đến tham quan và trải nghiệm tại các công trình kiến trúc này.

2.3.3. Công tác quản lí của giáo hội tại các điểm Khóa luận: Thực trạng phát triển du các kiến trúc tại Ninh Bình

Trong mỗi công trình được tổ chức và đưa vào phát triển du lịch thì điều không thể thiếu là việc quản lí của tổ chức. Đối với các công trình Công giáo cũng vậy, mỗi công trình đều được quản lí bởi những người phụ trách được giáo hội Công giáo quy định. Như đã trình bày ở phần tổ chức, mỗi giáo xứ đều có một linh mục cai quản; tại mỗi nhà thờ luôn có một linh mục phụ trách tất cả các công việc trong nhà thờ và sinh hoạt đời sống tôn giáo cho giáo dân; tại nhà thờ chính tòa thì được Giám mục giáo phận phụ trách quản lí. Tại các nhà thờ luôn có quy định chung như: mọi người ăn mặc lịch sự khi vào nhà thờ, mặc áo có cổ áo, khi tham gia thánh lễ thì tắt điện thoại hoặc để chế độ im lặng. Khách đến nhà thờ không được leo trèo, chạy nhảy trong nhà thờ; không được hái hoa, bẻ cành tại nhà thờ. Mọi người vứt rác đúng nơi quy định.

Công tác quản lí của giáo hội tại nhà thờ Bùi Chu

Nhà thờ chính tòa Bùi Chu là trung tâm của giáo phận và là nơi Đức Giám mục cai quản. Ngôi nhà thờ hơn 100 tuổi này hàng năm đón rất nhiều du khách và cả người dân hành hương đến vào các dịp đại lễ. Bên cạnh những hoạt động sôi nổi của người Ki-tô giáo. Đức Giám mục cũng có một số quy định nhằm bảo tồn công trình cũng như sự tôn nghiêm nơi nhà thờ. Tại nơi đây có rất nhiều tượng đài, du khách đến đây có thể mang hương, hoa đến thắp. Du khách có thể được dòng nữ tu đây hướng dẫn. Nhà thờ chưa có bãi đỗ xe. du khách đến tham quan chỉ có thể để tạm trong khuôn viên nhà thờ hoặc nhà xứ.

Công tác quản lí của giáo hội tại quần thể nhà thờ đá Phát Diệm

Nhà thờ đá Phát Diệm được nhiều người dân biết và hành hương đến thăm. Vì thế từ lâu quần thể nhà thờ đá đã có những hoạt động tổ chức nhằm hỗ trợ du khách hiểu biết thêm về nhà thờ. Hiện nay, Đức giám mục Giuse Nguyễn Năng phụ trách tất cả các hoạt động của quần thể. Ngoài các sinh hoạt và quản lí giáo phận theo luật của giáo hội, thì việc giữ gìn nét đẹp và sự linh thiêng của quần thể nhà thờ đá cũng được Đức Cha quan tâm. Khóa luận: Thực trạng phát triển du các kiến trúc tại Ninh Bình

Mọi hoạt động giúp du khách có thể hiểu chính xác về nhà thờ vẫn luôn được Đức Cha giữ gìn và phát huy, như việc in sách giới thiệu, bán quà lưu niệm và hỗ trợ người hướng dẫn tại điểm cho du khách. Công việc hướng dẫn được giao cho dòng nữ tu và chủng sinh phụ trách. Ngoài ra, khi đến với quần thể nhà thờ đá, du khách không được dẫm đạp lên cỏ, không xả rác bừa bãi, không leo trèo, ngồi lên các kiến trúc, không được lên gác chuông khi chưa được cho phép. Đây là một số quy định của nhà thờ nhằm bảo vệ cảnh quan và sự linh thiêng nơi nhà thờ.

Công tác quản lí của giáo hội tại đan viện Châu Sơn.

Các nhà thờ thường có các quy định quản lí chung, tuy nhiên đối với đan viện Châu Sơn thì lại có nét khác biệt. Vì đây là một tu viện kín được các đan sĩ tập trung đông, các hoạt động tu tập đều diễn ra ở đây, nên việc quản lí khu đan viện Châu Sơn là Đan sĩ Linh mục bề trên cai quản. Dưới Cha còn có rất nhiều đan sĩ có chức vụ đảm nhiệm cai quản từng phần của đan viện. Trong việc quản lí đan viện Châu Sơn, các đan sĩ Linh mục bề trên hướng đến việc tu tập cho các đan sĩ nhưng vẫn luôn mở cửa đón chào tất cả các du khách và giáo dân muốn đến tìm hiểu về đan viện. Từ đó các ngài đã tách biệt thành hai không gian khác nhau: một là không gian dành cho các đan sĩ tu tập, chiêm nghiệm và sinh hoạt; không gian còn lại là không gian dành cho tất cả các du khách và giáo dân muốn đến với đan viện. Du khách đến đây có thể gửi xe trong đan viện, thăm quan tất cả khuôn viên, nhà thờ và vườn cầu nguyện Fatima. Ngoài ra, dòng chiêm nghiệm có cử một số ít đan sĩ đón tiếp khách, nhằm thể hiện lòng mến khách. Tại vườn cầu nguyện luôn có đan sĩ coi sóc vườn cầu nguyện, hướng dẫn du khách và nhắc nhở nếu du khách có hành động không phải nơi linh thiêng. Tại đây cũng có các quy định được lập biển nhắc nhở tới du khách như việc không đi lên cỏ, ko đi lên sỏi, không tạo các dáng đứng không đẹp làm mất mĩ quan nơi linh thiêng.

2.3.4. Công tác tuyên truyền quảng cáo tại các điểm

Các công trình kiến trúc tôn giáo kể trên đều không có mục đích làm du lịch, vì thế mà các hình thức quảng cáo tuyên truyền gần như không có. Các nhà thờ chính tòa và giáo phận luôn có trang web để truyền thông về mọi sinh hoạt của giáo phận, nhằm giúp các tín hữu biết thêm về giáo phận nhà và các giáo phận bạn. Các trang web không nhằm mục đích làm du lịch nên không có quảng cáo về nhà thờ nhiều, mà trọng tâm vào các sinh hoạt tôn giáo của nhà thờ. Chỉ riêng nhà thờ đá Phát Diệm có quảng bá cho du khách biết thêm về kiến trúc bằng hình thức in sách giới thiệu nhà thờ và hỗ trợ hướng dẫn từ các sơ và các thầy chủng sinh.

2.3.5. Những mặt còn hạn chế Khóa luận: Thực trạng phát triển du các kiến trúc tại Ninh Bình

Bên cạnh những điểm tích cực, trong quá trình khai thác du lịch tại các công trình kiến trúc Công giáo nói trên cũng tồn tại những mặt hạn chế như sau. Các nhà thờ công giáo Việt Nam được xây dựng với mục đích chính là phục vụ nhu cầu sinh hoạt tôn giáo của giáo dân địa phương. Đây là nơi thờ phượng, tổ chức các nghi lễ của người Công giáo, là nơi đào tạo đức tin và đạo đức của các tín đồ, vì thế mà việc khai thác vào du lịch không được giáo hội chú trọng nhiều. Do đó, nếu là công trình tôn giáo lớn được mọi người đến tham quan thì các cha sở tại có tổ chức hỗ trợ thuyết minh, song các hình thức liên quan đến quảng bá, phát triển du lịch hầu như không có.

Đối với các kiến trúc lớn và đặc biệt như nhà thờ Chính tòa Bùi Chu và nhà thờ đá Phát Diệm được biết đến là nhà thờ đẹp và được nhiều khách du lịch đến thăm quan: tại đây vẫn luôn có các nữ tu hay chủng sinh hướng dẫn và làm thuyết minh viên cho mọi người. Vì nhà thờ không kinh doanh nên tại các điểm đến đều không thu vé, không kiểm soát người.

Việc du khách có thể thoải mái ra vào nhà thờ (nơi linh thiêng) luôn có mặt lợi và mặt hại. Khi du khách ra vào mà không được kiểm soát hay bảo vệ thì sẽ gây ra một số tình trạng như việc xả rác bừa bãi.

Trong các công trình kiến trúc Công giáo đều có những quy định riêng cho du khách và giáo dân nhằm giữ tính linh thiêng nơi nhà thờ. Tuy nhiên, việc đưa khách du lịch đến cũng đã vô tình có những tác động không tốt. Khách du lịch có thể là người Công giáo hoặc không Công giáo. Việc khách đến tham quan vào giờ lễ và đi lại tự do phần nào đã làm mất đi tính tôn nghiêm và mất mĩ quan nơi nhà thờ. Trong nhà thờ có chia 2 dãy ghế dành cho phái nam và phái nữa riêng nhưng du khách vẫn ngồi chung với nhau.

Tại các nhà thờ luôn mở cửa các ngày trong tuần cho mọi người đến với nhà thờ, còn đan viện thì mở cửa ngày chủ nhật. Tuy nhiên, các đoàn và du khách tự do đến bất chấp các khung giờ nghỉ trưa, giờ cầu nguyện của nơi đến làm ảnh hưởng đến đời sống của các tu sĩ. Chưa kể đến việc có đoàn còn cố ý đến vào giờ nghỉ trưa để không bị nhắc nhở. Điều này thường hay diễn ra ở quần thể nhà thờ đá Phát Diệm. Nhiều khách du lịch tò mò về đời sống sinh hoạt của các linh mục mà đã tự đi vào khuôn viên nhà xứ, nơi ở của các linh mục, làm ảnh hưởng đến đời sống sinh hoạt của các tu sĩ.

Dịp lễ lớn hay lễ tết thì lượng khách đến nhiều sẽ gây ra ồn ào, mất trật tự. Việc ăn mặc không hợp với buổi lễ, không hợp để đi vào nhà thờ, gây mất thẩm mỹ, mất sự uy linh nơi đền thánh. Đặc biệt là khi vào vườn cầu nguyện Fatima ở đan viện Châu Sơn và vườn Kinh ở nhà thờ Chính tòa Bùi Chu du khách đi lại tự do, nói chuyện và tạo nhiều dáng không hợp với nơi linh thiêng, làm mất đi ý nghĩa tốt đẹp của cảnh quan.

Lượng khách nhiều, không có lực lượng bảo vệ công trình sẽ dẫn đến việc hư hại công trình kiến trúc: ví dụ như ngắt hoa, bẻ cảnh, dẫm đạp lên cỏ, hay làm các hành động leo, trèo lên công trình và ngoài nhà thờ.

Các kiến trúc kể trên đa phần đều không có bãi đỗ xe lớn cho khách du lịch xa (ngoại trừ quần thể nhà thờ đá Phát Diệm). Đó cũng là một bất cập cho công trình kiến trúc khi đưa vào khai thác du lịch.

2.4. Tiểu kết

Trong chương 2 người viết đã giới thiệu một số công trình kiến trúc Công giáo tiêu biểu có thể đưa vào khai thác phát triển du lịch ở Nam Định và Ninh Bình. Đồng thời cố gắng tìm hiểu thực trạng du lịch ở trong tỉnh Ninh Bình, Nam Định cùng với các nhà thờ đặc sắc vừa kể trên và tiến tới đánh giá, phân tích những mặt được và chưa được. Từ thực trạng, lợi thế và khó khăn vừa trình bày sẽ là cơ sở để người viết đề xuất các phương hướng giải quyết và biện pháp khai thác phát triển du lịch ở chương 3. Khóa luận: Thực trạng phát triển du các kiến trúc tại Ninh Bình

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY

===>>> Khóa luận: Giải pháp nâng cao công trình kiến trúc Nam Định

One thought on “Khóa luận: Thực trạng phát triển du các kiến trúc tại Ninh Bình

  1. Pingback: Khóa luận: Các công trình kiến trúc liên quan đến Công giáo

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Contact Me on Zalo
0906865464