Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Khóa luận: Khái quát chung về khu du lịch Quảng Ngãi hay nhất năm 2022 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm khóa luận thì với đề tài Khóa luận: Tiềm năng phát triển du lịch văn hóa tại khu du lịch Đặng Thùy Tâm tại Quảng Ngãi dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
2.1 Khái quát chung về Quảng Ngãi
2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển Khóa luận: Khái quát chung về khu du lịch Quảng Ngãi
Theo các nhà Sử học cũ thì vị trí miền Ấn – Trà ngày nay, xưa kia đời vua Thuỷ Hoàng nhà Tần, thuộc đất Tượng quận, đời Hán vua Võ Đế năm thứ 111 thuộc quận Nhật Nam. Cuối đời Đông Hán năm 192, viên Công Tào huyện Tượng Lâm là Khu Liên, nhân trong xứ có loạn, giết quan huyện lệnh, tự lập làm vua, dựng nước Lâm Ấn. Đời Tuỳ, vua Tùy Dương đế Đại nghiệp năm đầu, bình định quân Lâm Ấn, chia làm 3 châu Quảng Châu, Xung Châu, Nông Châu sau đổi quận Hải Âm; đời Đường đổi thuộc Sơn Châu; đời Tống (960 – 1278) thuộc Cổ Lũy động của Chiêm Thành.
Năm 1400, Hồ Quý Ly sai Hành Khiển Đỗ Mãn làm thuỷ quân Đô tướng đem 15 vạn quân đi đánh Chiêm Thành, gặp mùa nước lũ các cánh quân không liên lạc được, hết lương thực, năm 1401 phải rút quân về.Tháng 3 năm 1402, Hồ Hán Thương lên ngôi, tháng 7 lại phong Đỗ Mãn làm Đỗ tướng, Nguyễn Vị làm Chiêu dụ sứ đem đại binh đánh Chiêm Thành.Vua Chiêm – Ba Đích Lại sai tướng Chế Sất Nan cầm quân chống cự bị thua, sai cậu là Bố Điền dâng một con voi trắng, một voi đen và phẩm vật xin dâng Chiêm động (phần phía nam Quảng Nam ngày nay).Vua nhà Hồ ép sứ giả phải đổi tờ biểu, buộc Chiêm Thành nạp cả động Cổ Luỹ nữa (phần phía bắc Quảng Ngãi ngày nay).
Năm 1406 quân Minh sang xâm lược và thống trị nước ta: Hồ Hán Thương thua chạy. Nhân cơ hội này, Chiêm Thành đem quân chiếm lại Chiêm động và Cổ Lũy động. Đời Minh thuộc (1407-1427) dưới quyền cai trị của Trương Phụ và Mộc Thanh, phủ Thăng Hoa tuy có đặt quan nhưng Chiêm Thành vẫn còn Trưởng lộ, nhà Minh chỉ ghi tên không mà thôi.
Đầu nhà Lê (1428) 2 châu Tư và Nghĩa tuy thuộc nhà vua nhưng chỉ trên danh nghĩa, không bị trực tiếp cai trị, vẫn ở ngoài vòng pháp chế. Để ngăn chận những vụ cướp phá của người Chiêm, triều Lê phải nghĩ đến việc đem đại binh chinh phạt. Tháng giêng năm 1446, vua Nhân Tông sai Đô đốc Lê Thọ, Tổng quản Lê Khả, Thiếu phó Lê Khắc Phục đem hơn 60 vạn quân đi đánh Chiêm Thành. Quân nhà Lê thừa thắng kéo đến Thị Nại. Tháng 4, quân Nhà Thọ đánh Khóa luận: Khái quát chung về khu du lịch Quảng Ngãi
Trà Bàn thắng lớn, bắt vua Chiêm là Bí Cai, phi tần, bộ thuộc, ngựa voi, võ khí và hàng tướng đem về. Cháu của vua Bố Đề là Ma Ha Qui Lai đã hàng, sai bề tôi dâng biểu xưng thần nên được lập làm vua (1446-1449).
Năm 1467, vua Chiêm Trà Toàn đem quân quấy nhiễu Hoá Châu. Tháng 8 năm 1470tiếp tục đem hơn 10 vạn quân thuỷ bộ, voi, ngựa, ra đánh Hoá Châu lần thứ hai. Kinh lược sứ Thuận Hoá là Phạm Văn Hiển chống cự không nổi phải cấp báo triều đình. Vua Lê Thánh Tông quyết định thân chinh, trưng 26 vạn tinh binh, ban 24 điều lệnh, sai Thái sứ Định Liệt Thái bảo Lê Niệm làm Chánh lỗ tướng quân lãnh thuỷ quân đi trước. Ngày Tân Tỵ, vua cáo Thái miếu, thân xuất đại quân đi theo, đến miền Thiết Sơn (Nghệ An) gặp nhau. Năm 1471 vua đóng quân ở Thuận Hóa.Đại quân đến cửa biển Tân Ấp (hiện Đại Ấp Tam kỳ). Ngày 5 tháng 2 vua Chiêm Trà Toàn sai em đem 6 viên tướng và 5.000 quân, voi lẻn đến bức dinh trại. Vua Lê mật sai Tả du kích tướng quân Lê Hy Cát, Hoàng Nhân Thiểm và Tiền phong tướng quân Lê Thế, Trịnh Văn Sái đem hơn chiến thuyền, 3 vạn tinh binh ban đêm vượt biển vào cửa Sa Kỳ (thuộc Bình Sơn Quảng Ngãi) lập đồn lũy để chận đường về của quân Chiêm. Ngày hôm sau, vua đem hơn 1.000 chiến thuyền và 7 vạn tinh binh ra biển gióng cờ, đánh trống hò reo tiến tới, mặt khác tướng quân bộ binh Nguyễn Đức Trung đã đem quân chiếm các đường ven núi. Quân Chiêm liệu chống cự không nổi giày xéo nhau, tan vỡ bỏ chạy về Trà Bàn, đến núi Mộ Nộ ở phía tây cửa Sa Kỳ gặp quân Lê Hy Cát, quân Chiêm hoảng hốt chạy ngang lên núi cao, bỏ lại người, ngựa, lương thực đầy đống. Bấy giờ vua Lê Thánh Tông đến Thể Cần (cửa Sơn Trà hiện nay, đông bắc quận Bình Sơn) cho binh tiến đánh, chém hơn 300 đầu, bắt sống hơn 60 người. Được tin em thua, Trà Toàn sai một người trong hoàng gia đến xin hàng. Vua Lê cũng sai sứ giao thiệp nhưng vẫn tiến binh. Ngày 27, vua thân xuất đại quân đánh Thị Nại, chém hơn 100 người. Ngày 28, vua tiến binh đến Trà Bàn, ngày 29 đến dưới thành, vây mấy vòng, sai quân làm thang leo lên. Ngày Mồng 1 tháng 3 hãm thành Trà Bàn, sai quân leo thang vào phía cửa Đông chém hơn 4 vạn, bắt Trà Toàn và hơn 3 vạn người, ngày mùng 2,ban sư.
Năm Hồng Đức thứ 2 (1471), tháng 6, vua Thánh Tông lấy đất Chiêm Thành vừa chiếm lại đặt đạo Thừa tuyên Quảng Nam. Đạo Thừa tuyên nầy là 1 trong số 13 đạo thừa tuyên trong nước, thống lãnh 3 phủ, 9 huyện trong đó có phủ Tư Nghĩa gồm 3 huyện: Bình Dương (sau đổi thành Bình Sơn), Mộ Hoa, (đời Thiệu Trị đổi Mộ Đức) và Nghĩa Giang (năm Thành Thái chia đất Nghĩa Giang nhập vào huyện Nghĩa Hành và phủ Tư Nghĩa).
Năm Hồng Đức thứ 21 (1490) vua Thánh Tông cải chia nước làm 13 xứ, đổi Thừa Tuyên làm xứ, mỗi xứ đặt sở Thủ ngữ Kinh lược sứ.Xứ Quảng Nam lãnh 3 phủ, 9 huyện trong đó có phủ Tư Nghĩa gồm có 3 huyện: Nghĩa Giang 12 tổng, 93 xã; Bình Sơn 6 tổng, 70 xã; Mộ Hoa 6 tổng, 5 xã. Tháng 10 năm Mậu Ngọ 1558 đời vua Anh Tông, Đoạn quận công Nguyễn Hoàng vào trấn phủ Thuận Hoá, năm 1570 kiêm lãnh trấn Quảng Nam.
Năm Hoằng Định thứ 5 (1604) cải đặt và đổi tên các khu vực hành chánh Thuận Quảng, đổi phủ Tư Nghĩa thành Quảng Nghĩa phủ đặt chức tuần vũ, khám lý nhưng cũng thuộc Quảng Nam dinh.
Đời Nguyễn Tây Sơn (1788-1802) cải đặt và đổi tên các khu vực hành chánh Thuận Quảng, đổi phủ Tư Nghĩa thành Hoà Nghĩa phủ Năm 1802, vua Gia Long khôi phục Hoà Nghĩa phủ đặt tên là Quảng Nghĩa dinh, các chức quan cai trị gọi là Lưu thủ, Cai bộ, Ký lục.
Năm Minh Mạng thứ 13 (1832) chia đặt tỉnh hạt, đổi trấn làm tỉnh. Trấn Quảng Nghĩa đổi thành tỉnh Quảng Nghĩa và đặt 2 ty Bố án (Bố chánh và Án sát) thống thuộc với Quảng Nam. Năm 1834 lại gọi là Nam trực tỉnh.
Năm Thành Thái thứ 2 (1890) ngoài 3 huyện Bình Sơn, Chương Nghĩa và Mộ Đức thuộc phủ Tư Nghĩa thời Nguyễn, thực dân Pháp đặt thêm 3 châu: Sơn Tịnh, Nghĩa Hành, Đức Phổ thuộc Nghĩa Định Sơn Phòng. Năm 1900 triệt bãi Sơn Phòng, đổi 3 châu ấy làm 3 huyện do tỉnh kiêm quản đặt chức Tuần vũ, bổ chức Bố chánh, cai trị 1 phủ : phủ Tư Nghĩa, Bình Sơn, Mộ Đức, Nghĩa Hành, Sơn Tịnh, Đức Phổ gồm tất cả 24 tổng, 426 xã, thôn ấp, trại.
Từ 1909 đến cuối của triều Nguyễn (1945) miền Trung châu Quảng Ngãi được chia thành 4 phủ : Bình Sơn, Sơn Tịnh, Tư Nghĩa, Mộ Đức : 2 huyện Nghĩa
Hành, Đức Phổ gồm 21 tổng, 403 làng. Miền thượng được chia thành 4 nha : Trà Bồng, Sơn Hà, Minh Long, Ba Tơ với 27 tổng, 199 “nóc”; miền Trung duyên hải có nha Lý Sơn 2 làng. Khóa luận: Khái quát chung về khu du lịch Quảng Ngãi
Từ ngày 9-3-1945 đến 19-8-1945 tổ chức hành chánh không đổi mấy, chỉ thay đổi trên danh từ: Tuần vũ gọi là tỉnh trưởng, ở huyện gọi là huyện trưởng, chức Chánh, Phó sứ thời Pháp do một cơ quan hiến binh Nhật đảm trách.
Từ ngày 19-8-1945 đến ngày 1-11-1954 (ngày hội nghị trung giả quyết định chuyển giao quyền cai trị trong khuôn khổ hiệp định chuyển giao quyền cai trị trong khuôn khổ hiệp định Genève (ngày 20-7-1954)
Thời kỳ đầu của cuộc tổng khởi nghĩa toàn dân năm 1945, tỉnh Quảng Ngãi được đổi tên là tỉnh Lê Trung Đình, phủ Tư Nghĩa đổi thành phủ Nguyễn Thụy(Sụy), xã Chánh Lộ lấy tên xã Nguyễn Viện v.v… Về tổ chức, lập liên xã, bỏ các làng cũ. Nhưng, sau một thời gian thay danh hiệu tỉnh, huyện, tổng, xã đều lấy lại tên cũ. Các phủ, huyện, nha trong tỉnh đều gọi tên thống nhất là huyện, gồm tất cả 10 huyện, tổng, 124 liên xã. Đảo Lý Sơn nhập vào huyện Bình Sơn nhưng năm 1952 bị quân Pháp chiếm đóng sát nhập hải đảo vào thị xã Đà Nẵng.
Năm 1947, uỷ ban hành chánh các cấp đổi tên là uỷ ban kháng chiến hành chánh có thêm hai uỷ viên chỉ định ngang, tất cả 7 người. Ngoài ra ở cấp tỉnh có các cơ quan chuyên môn và quân sự:
Từ 1 tháng 11 năm 1954 đến nay (1971) Tỉnh Quảng Ngãi được chia thành 10 quận: Bình Sơn, Sơn Tịnh, Tư Nghĩa, Nghĩa Hành, Mộ Đức, Đức Phổ (quận trung châu); Trà Bồng, Sơn Hà, Minh Long, Ba Tơ (quận thượng). Số xã trong toàn tỉnh có thay đổi, năm 1968 có 158 xã; năm 1970 theo sự sát nhập của Bộ Nội Vụ 122 xã, 319 ấp. Hai xã ở hải đảo Lý Sơn sát nhập quận Bình Sơn lấy tên Bình Vĩnh, Bình Yến. Xã Cẩm Thành nằm giữa tỉnh lỵ, trước kia thuộc quận Tư Nghĩa hiện đã tách rời, trực thuộc Toà Hành Chánh tỉnh. Ranh giới Quảng Ngãi lúc còn là phủ Tư Nghĩa dưới đời vua Lê Thánh Tông, từ năm Hồng Đức thứ 2 (1471) giáp phủ Hà Đông (Tam Kỳ) phái nam sông Bến Ván tới đèo Bình Đê.
Hiện nay ranh giới Quảng Ngãi chạy từ phía Nam dốc Sỏi, xã Bình Thắng (Bình Sơn) đến giữa đèo Bình Đê thuộc xã Phổ Châu (Đức Phổ).
Trải qua nhiều thế kỷ, dân tộc Chiêm từng lấy miền đất nầy làm thành lũy ngăn chận cuộc Nam tiến của dân tộc Việt.Hiện nay tại địa phương còn vài di tích lịch sử, thỉnh thoảng đồng bào vẫn còn đào được nhiều tượng đá với nét khắc tuyệt mỹ, tiêu biểu cho nền văn minh Chiêm Thành.
Đến Quảng Ngãi, du khách vẫn còn nghe một số tên địa phương chỉ tên sông như: Trà Khúc, Trà Bồng, chỉ cửa biển: Sơn Trà. Những tên nầy có giọng Chiêm vì tiếng Trà do chữ Phạn Jaya, một dòng họ vua Chiêm trong 4 họ chính thống On, Ma, Trà, Chế. Hiện ở xã Tư Hòa, quận Tư Nghĩa còn nhiều gia đình mang dòng họ Chế với ngôi mộ tiền hiền của họ. Nhà thờ họ Chế ở thôn Đông Mỹ (ấp Mỹ Viên) còn giữ được sắc phong của Triều Nguyễn (Bảo Đại).
Phong trào di dân vào Quảng bắt đầu từ nữa thế kỷ 15 khi Hồ Quý Ly ra lệnh cho dân có của mà không có ruộng ở Nghệ An đem vợ con vào ở để khai khẩn, lại mộ người có trâu đem nạp, cấp cho phẩm tước để lấy trâu cấp cho dân cày. Đời Lê Thánh Tông, sau khi thắng Chiêm về cũng có xuống chiếu mộ dân và đã có những người dân ở vùng Nghệ vượt biển di cư vào Quảng.Ngoài những phần tử tình nguyện trên còn có hạng bị bắt buộc phải di cư vào đất Quảng. Ấy là những tù nhân bị kết án lưu đày, tù xử tội lưu đi cận châu thì sung vệ quân ở Thăng Long, đi ngoài châu thì sung vệ quân ở Tư Nghĩa.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
2.1.2 Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên Khóa luận: Khái quát chung về khu du lịch Quảng Ngãi
Vị trí địa lý
Diện tích: 5.135,2 km2
Dân số: 1.231.697 người (tính đến 01/04/2019)
Tỉnh lỵ: Thành phố Quảng Ngãi
Các đơn vị hành chính: 01 thành phố; 13 huyện. Trong đó có 01 huyện đảo (Lý Sơn), 06 huyện đồng bằng (Bình Sơn, Sơn Tịnh, Tư Nghĩa, Nghĩa Hành, Mộ Đức, Đức Phổ), 06 huyện miền núi ( Ba Tơ, Trà Bồng, Tây Trà, Sơn Tây, Sơn Hà, Minh Long); 180 xã phường, thị trấn (8 phường, 10 thị trấn và 162 xã). Dân tộc: Kinh, Hrê, Cor, Ca-Dong.
Nhiệt độ trung bình năm : 25,5°C – 26,3°C, nhiệt độ cao nhất lên đến 41°C và thấp nhất là 12°C
Tỉnh Quảng Ngãi nằm ở vùng duyên hải miền Trung, tựa vào dãy Trường Sơn, hướng ra biển Đông (với chiều dài bờ biển 144 Km), phía Bắc giáp Quảng Nam (với chiều dài đường địa giới 98 Km), phía Nam giáp Bình Định (với chiều dài đường địa giới 83 Km), phía Tây Nam giáp Kon Tum (với chiều dài đường địa giới 79 Km). Quảng Ngãi có quốc lộ 1A chạy qua tỉnh, cách Hà Nội 883km về phía Nam, cách thành phố Hồ Chí Minh 838 km về phía Bắc; quốc lộ 24A nối Quảng Ngãi với Tây Nguyên, Lào và vùng Đông Bắc Thái Lan. Bờ biển với nhiều bãi tắm và phong cảnh đẹp.
Tỉnh Quảng Ngãi nằm ở toạ độ địa lý:
Từ 14°31’50” đến 15°25’30” vĩ độ Bắc.
Từ 108°14’05” đến 109°05’00” kinh độ Đông.
Điều kiện tự nhiên
Sông ngòi
Quảng Ngãi có 04 con sông chính:
Sông Trà Bồng: dài 55 km, phát nguyên từ nguồn Thanh Bồng (Trà Bồng), chảy xuyên qua huyện Trà Bồng và huyện Bình Sơn, đến thôn Giao Thuỷ (xã Bình Dương) lại chảy về hướng Đông Bắc, đổ ra cửa Sa Cần. Sông Trà Bồng có các phụ lưu như: Sa Thin, Trà Pốt, Trà San, Bán Điền. Nước sông cạn, về mùa nắng thuyền bè từ 3 đến 5 tấn không đi lại được.
Sông Trà Khúc: dài 120 km, phát nguyên từ núi Đac Tơrôn với đỉnh cao 2.350m do hợp nước của 4 con sông lớn là sông Rhe, sông Xà Lò, sông Rinh, sông Tang, chảy xuống hướng Đông qua ranh giới các huyện Sơn Hà, Sơn Tịnh, Tư Nghĩa, thành phố Quảng Ngãi và đổ ra cửa biển Cổ Luỹ (cửa Đại). Sông Trà Khúc còn có các phụ lưu như Đac Lang, Nước Lác, Đăc Sêlơ, Tam Dinh, Xã Điệu, Tầm Rao, sông Giang, sông Phước…
Sông Vệ: dài khoảng 80km, phát nguyên từ vùng rừng núi phía Bắc huyện Ba Tơ, thượng nguồn là sông Liên chảy theo hướng Tây Nam – Đông Bắc, xuyên qua các huyện Ba Tơ, Nghĩa Hành, Mộ Đức, Tư Nghĩa và đổ ra cửa Lở (An
Chuẩn, Đức Lợi, Mộ Đức) và cửa Cổ Luỹ. Sông vệ có các phụ lưu: Trà Nu, sông Lã, sông La Châu… Chi lưu của sông Vệ là sông Thoa chảy theo hướng Đông Bắc – Tây Nam tưới cho đại bộ phận đồng lúa Mộ Đức.
Sông Trà Câu: dài 40 km, phát nguyên từ vùng Hồng Thuyền, Vực Liêm (phía Nam đèo Đá Chát) chảy xuyên qua huyện Đức Phổ để ra cửa biển Mỹ Á.
Ngoài 04 con sông chính trên, Quảng Ngãi còn có các sông nhỏ như Trà Ích (Trà bồng), sông Cái (Tư Nghĩa), sông Phước Giang (Nghĩa Hành), sông La Vân (Đức Phổ).
Về mùa nắng, một phần do lượng mưa ít, nước sông lại rút nhanh, sông cạn, hạn chế việc đi lại bằng đường thuỷ. Do vậy, thường nước chỉ đủ tưới khoảng 70% đến 80% diện tích vụ Đông Xuân và 50% diện tích vụ mùa. Công trình thuỷ lợi Thạch Nham được xây dựng nhằm giải quyết tình trạng thiếu nước này.
Biển và bờ biển
Bờ biển Quảng Ngãi dài hơn 130 km chia thành 3 đoạn:
Đoạn 1 từ mũi Nam Trân đến mũi Ba Làng An (còn gọi là Ba Tân Gân).
Đoạn 2 từ mũi Ba Làng An đến mũi Sa Huỳnh.
Đoạn 3 từ mũi Sa Huỳnh đến mũi Kim Bồng.
Đoạn 1 và đoạn 3 của bờ biển Quảng Ngãi lồi lõm, gấp khúc, nhiều mũi đá cứng nhô ra biển, chia cắt bờ thành những vũng, vịnh lớn nhỏ như vũng Dung Quất (Bình Sơn). Đoạn 2 tương đối phẳng và thẳng dần về phía Nam.
Bờ biển Quảng Ngãi có những cửa biển thuận lợi cho việc tàu thuyền cập bến: Cửa Sa Cần (còn có tên gọi là Thái Cần, Thể Cần, Sơn Trà) ở phía Đông Bắc huyện Bình Sơn. Phía Bắc có vũng Dung Quất. Khóa luận: Khái quát chung về khu du lịch Quảng Ngãi
Cửa Sa Kỳ nằm lọt giữa phía Đông Nam huyện Bình Sơn và phía Đông – Đông Bắc huyện Sơn Tịnh, giữa hai xã: Bình Châu và Tịnh Kỳ, có lạch ngầm sâu dài khoảng hơn 1 km được xây dựng thành một cảng biển của tỉnh.
Cửa Cổ Lũy (còn có tên gọi là cửa Đại) nằm giữa các xã: Nghĩa Phú, Nghĩa An (Tư Nghĩa) và xã Tịnh Khê (Sơn Tịnh), nơi hai con sông lớn Trà Khúc và sông Vệ đổ về. Cửa biển hẹp nhưng có vũng sâu, tàu từ 50 tấn đến 70 tấn có thể ra vào được.Thời Pháp thuộc, đây là cửa biển chính của tỉnh.
Cửa Lở nằm giữa hai xã Nghĩa An (Tư Nghĩa) và Đức Lợi (Mộ Đức). Cửa biển hẹp và cạn.
Của Mỹ Á: ở phía Đông Bắc huyện Đức Phổ. Cửa biển hẹp, tàu thuyền khó đậu.
Cửa Sa Huỳnh: ở phía Đông Nam huyện Đức Phổ, cửa biển hẹp.
Vùng biển Quảng Ngãi là nơi tiếp giáp hai dòng hải lưu nóng và lạnh, có lượng phù du – thức ăn của cá – tương đối phong phú nên có nhiều loại cá và hải sản như cá chuồn, cá ngừ, cá thu, cá nục, cá trích, cá cơm, mực, tôm hùm, cua, hải sâm, rau câu… Các loại cá nổi, cá đáy thường tập trung cách bờ biển từ 130 đến 150 km, nhưng khu vực khai thác không tập trung. Tiềm năng hải sản ở Quảng Ngãi cho phép khai thác hàng năm từ 30.000 đến 32.000 tấn.
Vùng nước triều thuộc địa bàn các huyện ven biển đều có điều kiện nuôi trồng hải sản, trồng rừng nước mặn (sú, vẹt) để bảo vệ bờ biển, bảo vệ môi trường, nuôi tôm, đáp ứng chất đốt và giải quyết việc làm cho dân ven biển. Vùng ven biển còn có nhiều đầm, phá nước ngọt có khả năng nuôi tôm và cá nước ngọt.
Vùng ven biển Quảng Ngãi có một số cánh đồng muối với diện tích khoảng 348 ha.Nổi tiếng là các cánh đồng muối Sa Huỳnh (Đức Phổ), Tịnh Kỳ (Sơn Tịnh), Bình Châu (Bình Sơn).
Cách bờ biển 25 km có đảo Lý Sơn. Đảo có chiều dài 5,5 km, chiều ngang chỗ rộng nhất là 2,5 km, diện tích của đảo khoảng 15 km2. Dân số trên đảo có hơn 20 ngàn người, chủ yếu làm nghề đánh bắt cá, trồng hành tỏi, khai thác san hô trắng để làm vôi, san hô đỏ để xuất khẩu.
Đảo Lý Sơn, mũi Ba Tân Gân, bãi biển Mỹ Khê, bãi biển Sa Huỳnh… có điều kiện để khai thác
Địa hình
Quảng Ngãi nằm ở miền Trung Trung bộ, có nhiều núi đồi cao, gò, thung lũng có những cánh đồng lúa, mía và biển cả chia làm các miền riêng biệt:
Miền núi : Rộng gần bằng 2/3 diện tích toàn tỉnh. Miền nầy thuộc loại đất núi có nhiều đá, khả năng khai thác kém.Núi cao hiểm trở, rừng rậm bao la nơi có lâm sản dồi dào, đặc biệt có quế Trà Bồng, một lâm sản quý. Quảng Ngãi có nhiều núi cao như núi Cà Đam tục gọi “Hòn Ông, Hòn Bà” cao độ 1.600m ngăn cách Sơn Hà và Trà Bồng; về phía tây bắc có núi Đá Vách (Thạch Bích) cao độ 1.500m ngăn cách Sơn Hà và Minh Long, núi U Bò cao độ 1.200m. Núi cao trung bình 700m như núi Cao Môn ở ngoài Trường Luỹ phía tây Huyện Đức Phổ.
Các núi ở Quảng Ngãi có một số liệt vào hạng danh sơn, được vịnh làm thắng cảnh như : Thiên Ấn, Thiên Bút, Thạch Bích, Vân Phong …
Núi Thiên Ấn được ghi vào từ điển, hình núi được chạm vào di đỉnh, hiện trên núi còn di tích cửa Tam Quan của ngôi Tổ Đình.Núi Thiên Bút còn dấu tích nền ngôi chùa cổ, núi Thạch Bích (tục danh núi Đá Vách) được vịnh là Thạch Bích Tà Dương.
Miền đồng bằng: đất đai phần lớn là phù sa do các sông bồi lên thành phần cát khá cao của đất với sự xói mòn huỷ phá do thời tiết mưa nắng đặc biệt ở Quảng Ngãi, người ta thấy rằng chất đất ở đây tương đối nghèo, sự thoát thuỷ lại khá nhanh, thêm vào đó sự khô hạn kéo dài chứng tỏ một sự thiếu nước trong nhiều tháng của năm, một mầu sắc nhạt ở bề mặt đất cho biết sự thiếu chất bùn. Tuy nhiên, Quảng Ngãi còn có nhiều vùng ruộng rộng, thích hợp cho việc cày cấy, nhờ thế nước của các sông lớn phát nguồn từ dãy Trường Sơn chảy xuyên qua đồng bằng rồi ra biển. Khóa luận: Khái quát chung về khu du lịch Quảng Ngãi
Lưu lượng của các dòng sông biến đổi theo mùa. Về mùa nắng, lòng sông khô cạn, trái lại mùa mưa, những cơn mưa dầm nặng hạt trên dãy Trường Sơn làm cho nước đổ xuống các dòng sông khiến mực nước dâng cao, đột ngột lan tràn vào các vùng đất xung quanh.
Hải đảo Lý Sơn :
Về phía Đông Bắc Quảng Ngãi, cách đất liền 24 km, vĩ độ bắc 15’40 và kinh độ 19′ có hải đảo Lý Sơn tục gọi là Cù Lao Ré vì trước kia có nhiều cây Ré dùng làm dây rất dai và bền.
Hải đảo hình đa giác không đều cạnh, chiều dài lớn nhất 7 km, chiều ngang 3 km, diện tích ước chừng 19 km2, hình ảnh nổi bật của hải đảo này là con đường dài 2 bên có những hàng rào bông bụt đổ nhô lên giữa lá xanh, những khoảnh đất bồi nhưng được phủ cát trắng, trên máy bay trông nhưng rộng muối; màu xanh bãi biển hòa với màu xanh của rừng chuối bao la dưới chân 5 quả núi gọi là Ngũ Linh : Hòn Tai, Hòn Tiên, Hòn Vung, Hòn Sỏi, núi Thái Lới cao hơn hết ước 100m, đêm đêm có ánh đèn pha của hải đăng rọi thành chữ X sáng cả vùng chân núi.
Núi chiếm 1/4 diện tích của đảo, bốn phái cao, ở giữa trũng thấp, có đồi rẫy nằm vào khoảng giữa núi.
Khí hậu và thủy văn
Quảng Ngãi có khí hậu nhiệt đới và gió mùa. Nhiệt độ trung bình 25° đến 26,9°C, thượng tuần tháng 7 và tháng 8 nóng không quá 34°C, thượng tuần tháng giêng lạnh nhất không dưới 18°C.
Thời tiết Quảng Ngãi được chia làm 2 mùa: mưa, nắng rõ rệt.
Mùa nắng: Từ hạ tuần tháng giêng âm lịch đến thượng tuần tháng 8 âm lịch.
Mùa mưa: Từ hạ tuần tháng giêng âm lịch đến thượng tuần tháng giêng âm lịch.
Gió mùa: Từ hạ tuần tháng giêng âm lịch đến tháng 8 âm lịch, gió thổi từ Đông Nam qua Tây Bắc, hết sức mát mẻ dễ chịu gọi là gió Nồm.
Khí hậu Quảng Ngãi có nhiều gió Đông Nam ít gió Đông Bắc vì địa hình địa thế phía nam, hơn nữa do thế núi địa phương tạo ra.
Quảng Ngãi có mưa đặc biệt.vũ lượng trung bình hằng năm 2.198 mm nhưng chỉ quy tụ vào 4 tháng cuối năm còn các tháng khác thì khô hạn.
Trung bình hằng năm mưa 129 ngày, nhiều nhất vào các tháng 9, 10, 11, 12. Sự phân phối vũ lượng không đều cũng như sự kéo dài mùa khô hạn rất có hại cho cây cối, đất đai và gây khó khăn cho việc dẫn thoát thuỷ. Đặc biệt ở Quảng Ngãi các trận bão chỉ thể xảy ra trong khoảng thời gian từ tháng 9 đến tháng 12 dương lịch nhất là hai tháng 10 và 11.
2.1.3 Điều kiện kinh tế xã hội, tài nguyên du lịch
2.1.3.1 Điều kiện kinh tế xã hội Khóa luận: Khái quát chung về khu du lịch Quảng Ngãi
Năm 2019 được tỉnh Quảng Ngãi xác định là năm tăng tốc với mục tiêu hoàn thành các nhiệm vụ, chỉ tiêu đề ra của Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX và Nghị quyết của HĐND về kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội (KT- XH) 5 năm 2016- 2020. Tỉnh đã tập trung xây dựng và tổ chức thực hiện Nghị quyết số 01 và chỉ đạo của Tỉnh ủy, HĐND tỉnh về kế hoạch phát triển KT- XH năm 2019. Nhờ vậy, hầu hết các chỉ tiêu KT- XH, quốc phòng an ninh trong 6 tháng đầu năm của Quảng Ngãi đều đạt và vượt so với kế hoạch đề ra.
Theo đó tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) ước đạt 26.082 tỷ đồng, tăng 4,4% so với cùng kỳ năm 2018. Trong đó, công nghiêp- xây dựng tăng 3,5%; dịch vụ tăng 6,5%; nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,6%.Môi trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện, thu hút đầu tư được duy trì, doanh nghiệp đăng ký thành lập mới tăng cao. Việc đối thoại giữa chính quyền vơi doanh nghiệp được tăng cường nên kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc tạo điều kiện để doanh nghiệp phát triển.
Trong 6 tháng đầu năm, Quảng Ngãi đã cấp mới 2 dự án FDI với tổng vốn đăng ký 28 triệu USD. Lũy kế đến ngày 10/6/2019, toàn tỉnh có 63 dự án FDI còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký gần 1,8 tỷ USD.Riêng đầu tư trong nước, tỉnh đã cấp quyết định chủ trương đầu tư 52 dự án với tổng vốn đăng ký 13.500 tỷ đồng. Lũy kế đến ngày 10/6/2019, có 562 dự án còn hiệu lực, với tổng vốn đăng ký 250.212 tỷ đồng.Cũng trong 6 tháng đầu năm, toàn tỉnh có 480 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, tăng 11,8% so với cùng kỳ năm 2018 với tổng vốn đăng ký 2.685 tỷ đồng.
Các hoạt động văn hóa, văn nghệ diễn ra sôi nổi, rộng khắp; công tác bảo tồn di tích được chú trọng. Hoạt động du lịch có bước chuyển biến tích cực, lượng khách đến tham quan tại tỉnh tăng mạnh: ước đạt khoảng 1 triệu lượt người, tăng 23% so với năm 2017; doanh thu ước đạt 950 tỷ đồng, tăng 33%.Từ sự khởi sắc trong phát triển KT-XH 6 tháng qua, trong thời gian còn lại của năm 2019, UBND tỉnh Quảng Ngãi tiếp tục khắc phục những hạn chế để nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác chỉ đạo, điều hành, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
2.1.3.2 Tài nguyên du lịch Khóa luận: Khái quát chung về khu du lịch Quảng Ngãi
Tài nguyên du lịch tự nhiên
Quảng Ngãi là sự hòa hợp của những dòng song xen lẫn núi đồi, ghềnh thác cùng nhiều di tích, kiến trúc cổ, di chỉ văn hóa Sa Huỳnh, chùa Thiên Ấn, thành cổ Châu Sa, chứng tích Mỹ Sơn,… và với nhiều danh lam thắng cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp và hữu tình như : Thiên Ấn niêm hà, Cổ Lũy Cô thôn…Quảng Ngãi còn được nhắc đến với các bãi biển sạch, đẹp và giá trị để phát triển thành khu du lịch nghỉ dưỡng hấp dẫn như Mỹ Khê (Sơn Tịnh), Sa Huỳnh (Đức Phổ), Tân Định (Mộ Đức),…Với nguồn tài nguyên phong phú, đa dạng, tài nguyên du lịch Quảng Ngãi được chia theo 2 vùng sau :
Thứ nhất là tài nguyên du lịch vùng đồi núi và trung du, với diện tích vùng đồi núi và trung du khá lớn (chiếm 2/3 tổng diện tích toàn tỉnh)tài nguyên du lịch vùng đồi núi tỉnh Quảng Ngãi khá phong phú: khu bảo tồn tự nhiên khu vực Ba Tơ, hệ thống các thác nước như Thác Trắng, Thác nước Trịnh, các thắng cảnh như núi Thiên Ấn, núi Long Đầu.
Thứ hai là tài nguyên du lịch ở vùng biển và hải đảo, với đừng bờ biển dài gần 130km, tài nguyên du lịch biển và hải đảo của Quảng Ngãi khá phong phú và hấp dẫn với các bãi biển đẹp, các hòn đảo thanh bình và còn giữ nguyên vẻ hoang sơ, trong lành như: bờ biển Sa Huỳnh, bờ biển Mỹ Khê, đảo Lý Sơn.
Nhìn chung, tài nguyên du lịch thiên nhiên của Quảng Ngãi khá phong phú và đa dạng, nếu được đầu tư khai thác một cách hợp lý thì đây sẽ là nguồn tài nguyên mang lại lợi ích cho không chỉ nền kinh tế mà còn góp phần thỏa mãn nhu cầu du lịch của người dân tỉnh Quảng Ngãi nói riêng và cả nước nói chung.
Tài nguyên du lịch nhân văn
Tài nguyên du lịch nhân văn là cơ sở để phát triển loài hình du lịch văn hóa, một trong những loại hình du lịch phổ biến nhất trên thế giới. Để đóng góp vào sự phát triển thành công của một vùng thì sự kết hợp giữa hai loại tài nguyên: tự nhiên và nhân văn là hết sức quan trọng. Hơn nữa, nằm trong cùng một quần thể thì sự hỗ trợ bổ sung cho nhau của hai loại hình du lịch: sinh thái và văn hóa là thực sự cần thiết, tạo nên sức hấp dẫn và sự đa dạng cho sản phẩm du lịch của một vùng. Khóa luận: Khái quát chung về khu du lịch Quảng Ngãi
Các di tích khảo cổ học
Tiêu biểu là nhóm di tích văn hóa Sa Huỳnh, nhóm di tích này phân bố tại các địa phương Long Thạnh, thuộc huyện Đức Phổ, Bình Châu và Sa Huỳnh. Đây là nền văn hóa khá đặc sắc đã cho thấy vào buổi đầu công nguyên chủ nhân của nền văn hóa Sa Huỳnh đã đạt đến trình độ phát triển cao trong khu vực. Đặc biệt là đồ gốm Sa Huỳnh với những hoa văn song nước rẩ độc đáo và tinh tế có giá trị cao không những đối với khoa học, mà còn thu hút sự quan tâm của du khách.
Các di tích lịch sử
Khu di tích về cuộc khởi nghĩa Ba Tơ, khu di tích núi Cà Đam thuộc huyện Trà Bồng, di tích địa đạo Đám Toái (huyện Bình Sơn, bán đảo Ba Làng An),…Đặc biệt, khu chứng tích Sơn Mỹ (thuộc xã Tịnh Khuê), là nơi 504 đồng bào ta bị giặc Mỹ sát hại ngày 16/03/1968 – một vụ thảm sát đãm máu gây chấn động cả thế giới ở miền Nam Việt Nam trong thời kỳ quân Mỹ chiếm đóng miền Nam Việt Nam. Khu chứng tích Sơn Mỹ đã được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận và là di tích lịch sử cách mạng quốc gia. Hiện nay tại đây có một tượng đài và một nhà chứng tích trưng bày một số hiện vật và hình ảnh về những tội ác của giặc Mỹ đối với đồng bào ta ở đây trong ngày 16/03/1986.
Các di tích kiến trúc
Di tích kiến trúc phải kể đến là chùa Thiên Ấn và chùa Ông. Chùa Thiên Ấn lúc đầu mới chỉ là một am nhỏ, chùa được xây dựng trên đỉnh núi Thiên Ấn (Sơn Tịnh), trước mặt là song Trà Khúc, dưới chân núi phía tây là dãy Long Đầu, xung quanh chùa có nhiều cây xanh, khung cảnh đẹp, đặc biệt chùa có 2 di vật giá trị là chuông đồng cao 2m được gọi là “Chuông Thần” và giếng nước sâu 15m được gọi là “giếng Phật”.
Lễ hội
Quảng Ngãi có một số lễ hội tiêu biểu là lễ hội Cầu Ngư hay còn gọi là lễ hội Nghinh Ông được tổ chức trong 2 ngày mùng 9 và mùng 10 âm lịch với nhiều nghi lễ dân gian, thể hiện niềm tin và lòng tôn kính của những ngư dân với thần Nam Hải, cùng ước vọng cho một mùa biển mới bội thu.Lễ hội đua thuyền tứ linh rất đặc sắc và đông đảo nhân dân tham gia kéo dài từ ngày mồng 4 đến mồng 8 tết âm lịch để tri ân,tưởng nhớ các bậc tiền nhân đã có công khai khẩn, mở mang bờ cõi, cầu mong các vị thần linh phù hộ cho dân làng được bình an, mùa màng tươi tốt.
2.2 Khái quát chung về khu du lịch Đặng Thùy Trâm
2.2.1 Nhân vật lịch sử bác sỹ Đặng Thùy Trâm và hai cuốn nhật kí Khóa luận: Khái quát chung về khu du lịch Quảng Ngãi
Đặng Thùy Trâm là bác sĩ, liệt sĩ thời chiến tranh Việt Nam, được Nhà nước CHXHCN Việt Nam trao tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân năm 2006.
Đặng Thuỳ Trâm sinh ngày 26 tháng 11 năm 1942 trong một gia đình trí thức Hà Nội. Bố là bác sĩ ngoại khoa, mẹ là dược sĩ, giảng viên trường Đại học Dược Hà Nội.
Tốt nghiệp trường Đại học Y khoa Hà Nội năm 1966, Thùy Trâm tham gia Quân đội Nhân dân Việt Nam với tư cách là một bác sĩ quân y và được điều vào công tác ở Đức Phổ, chiến trường Quảng Ngãi trong chiến tranh Việt Nam. Vào Đảng Cộng Sản Việt Nam ngày 27 tháng 9 năm 1968.
Ngày 22 tháng 6 năm 1970, bệnh xá Đức Phổ bị lực lượng Hoa Kỳ tập kích, Đặng Thùy Trâm hi sinh. Hài cốt chị được mai táng tại nơi hi sinh, sau thống nhất được đưa về nghĩa trang liệt sĩ xã Phổ Cường. Năm 1990,được gia đình đưa về nghĩa trang Liệt sĩ Xuân Phương,Từ Liêm,Hà Nội. Khóa luận: Khái quát chung về khu du lịch Quảng Ngãi
Trong thời gian làm việc tại Đức Phổ, anh hung liệt sỹ Đặng Thùy Trâm đã viết cuốn nhật kỳ từ ngày 8 tháng 4 năm 1968, khi tác giả phụ trách bệnh xá Đức Phổ, cho đến ngày 20 tháng 6 năm 1970, 2 ngày trước khi hi sinh. Đặng Thùy Trâm không phải nhà văn song hai tập nhật ký của chị là những tác phẩm miêu tả một cách chân thực nhất những suy nghĩ, những cảm xúc của một con người trong thời kỳ chiến tranh từ cái ác liệt cũng như những tác động mọi mặt của cuộc chiến tranh cho đến những ước mơ cháy bỏng về hòa bình, về tình yêu của một con người… đã gây ra nhiều xúc cảm cho người đọc về những giá trị nhân văn cao quý khiến cả những người đứng bên kia chiến tuyến phải thốt lên “có lửa bên trong”.
Bản thân sự xuất hiện của hai cuốn Nhật ký ở Việt Nam đã là một điều kỳ diệu, có thể coi đó như là một cuộc hành trình của định mệnh. Cuốn Nhật ký thứ nhất bị lưu lạc trong một trận càn và được Frederic Whitehurst, lúc đó là sĩ quan quân báo Hoa Kỳ giữ lại mà không đốt do được một thông dịch viên – Thượng sỹ quân đội Việt Nam Cộng Hòa, Nguyễn Trung Hiếu can ngăn “Fred, đừng đốt cuốn sổ này, bản thân trong nó đã có lửa”. Sau khi, bác sỹ Đặng Thùy Trâm hi sinh vào tháng 6 năm 1970, Frederic Whitehurst lại tìm được quyển thứ hai và ông coi như là định mệnh do đó đã lưu giữ nó đến ngày trả lại cho gia đình tác giả vào cuối tháng 4 năm 2005.
Nhân dịp kỉ niệm ngày Thương binh liệt sĩ (27 tháng 7) năm 2005, tác phẩm Nhật ký Đặng Thùy Trâm đã được xuất bản và chỉ sau 1 năm nó đã bán được hơn 400.000 bản – được xem là một hiện tượng văn học của Việt Nam.
Chính những giá trị nghệ thuật, nhân văn của cuốn Nhật ký đã đưa nó trở thành một tác phẩm nghệ thuật nên cơn sốt trong giới trẻ Việt Nam, qua tác phẩm này giới trẻ Việt Nam đã nhận thức được những giá trị quý báu và to lớn mà nhiều thế hệ cha anh chúng ta đã hi sinh xương máu để vươn đến. Cũng như qua đó, giới trẻ sẽ có những đánh giá suy nghĩ khách quan và đúng đắn hơn về hình tượng người chiến sỹ cách mạng trong thời kỳ chiến tranh – một hình tượng anh hùng với những gì chân thực nhất xứng đáng làm tấm gương cho giới trẻ noi theo. Đến nay, tác phẩm Nhật ký Đặng Thùy Trâm đã được chuyển thể thành tác phẩm điện ảnh Đừng đốt và gây tiếng vang lớn trong đời sống nghệ thuật Việt Nam cũng như đoạt nhiều giải thưởng trong nước và quốc tế.
2.2.2 Lịch sử hình thành và phát triển
Khu di tích lịch sử Đặng Thùy Trâm nằm trên địa bàn 2 huyện Ba Tơ và Đức Phổ tỉnh Quảng Ngãi bao gồm một quần thể các điểm di tích liên quan đến cuộc đời của anh hùng liệt sỹ – bác sỹ Đặng Thùy Trâm đã được đưa vào cuốn Nhật ký Đặng Thùy Trâm bao gồm:
2.2.2.1 Di tích trạm tiền phẫu Hang Bọng Dầu Khóa luận: Khái quát chung về khu du lịch Quảng Ngãi
Vị trí:
Nằm ở sườn núi Dâu, thuộc xã Phổ Khánh (huyện Đức Phổ).
Băng qua những dãy đá chồng chất ngổn ngang là một trạm cấp cứu tiền phương nằm trên sườn ngọn núi Dâu. Trên lưng chừng núi Dâu là trạm tiền phẩu, là nơi bác sỹ Đặng Thùy Trâm công tác đầu tiên khi vào chiến trường miền Nam từ đầu tháng 3 đến cuối tháng 3 năm 1967. Hiện tại điểm di tích đã được cắm biển di tích.
Nơi đây có những hang đá tự nhiên, bí mật và có sức chứa đến hàng trăm thương bệnh binh. Trong ánh nắng vàng buổi chiều, đứng ở núi Dâu nhìn về những thôn xóm xa xa dưới chân núi, khung cảnh này chắc hẳn sẽ làm níu chân nhiều du khách.
Chức năng: là điểm di tích phục vụ tham quan
Quy mô: diện tích hiện tại 1,00 ha, mở rộng thành 3,00 ha, khoanh vùng bảo vệ di tích, làm đường vào để phục vụ hoạt động tham quan và bảo vệ di tích.
Bao gồm các khu vực chính 1.Điểm di tích trạm tiền phẫu
Bãi đỗ xe
Các công trình phục vụ tham quan
2.2.2.2 Di tích hầm trú ẩn
Vị trí: tại thôn Nga Mân xã Phổ Cường (huyện Đức Phổ).Cách bệnh xá Đặng Thùy Trâm 500m về hướng Nam, Nga Mân là thôn trung tâm của xã Phổ Cường (Đức Phổ), có đường sắt Bắc-Nam và Quốc lộ 1A chạy qua. Toàn thôn có 532 hộ, với hơn 2.530 nhân khẩu, chủ yếu sống bằng nông nghiệp và buôn bán nhỏ.
Trong hai cuộc chiến tranh vệ quốc của dân tộc, nhân dân Nga Mân đã đóng góp nhiều sức người, sức của cho cách mạng. Toàn thôn có 125 liệt sĩ, 77 thương bệnh binh, 8 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 47 tù yêu nước.
Ngày nay,nhờ sự hưởng ứng của các tầng lớp nhân dân, thôn Nga Mân đã khởi sắc và biến chuyển rõ rệt; đời sống kinh tế của nhân dân thay đổi hẳn. Thôn Nga
Mân đã xóa được hộ đói, đến năm 2008 hộ nghèo giảm xuống 5% (những hộ này hầu hết là hộ neo đơn, già yếu, bị bệnh tật); 100% hộ có nhà xây lợp ngói, không còn nhà tạm bợ; 100% hộ gia đình có điện thắp sáng, 85% hộ gia đình có xe gắn máy, một số hộ mua sắm xe ô tô du lịch, 95% hộ có phương tiện nghe nhìn, gần 50% hộ dùng điện thoại, có 2/3 đường nông thôn được bê tông hoá.
Hầm trú ẩn được đặt tại nhà chị Tạ Thị Ninh – một người được nhắc đến nhiều trong tác phẩm Nhật ký Đặng Thùy Trâm. Chị Tạ Thị Ninh, nguyên y tá chiến đấu và là em kết nghĩa của chị Đặng Thùy Trâm. Hồi chiến tranh,ngôi nhà nhỏ của chị Tạ Thị Ninh bị lợp đi lợp lại cả chục lần do Mỹ đốt. Đây là điểm dừng chân của chị Đặng Thùy Trâm mỗi lần xuống núi, từng ghi sâu biết bao kỷ niệm. b, Chức năng: là điểm di tích phục vụ tham quan
Quy mô: diện tích hiện tại 0,02 ha, mở rộng thành 0,52 ha, khoanh vùng bảo vệ di tích để phục vụ hoạt động tham quan và bảo vệ di tích. Bao gồm các khu vực chính
Di tích hầm trú ẩn được phục dựng
Các công trình phục vụ tham quan
2.2.2.3 Di tích bệnh xá Đức Phổ ( bệnh xá Bác Mười) Khóa luận: Khái quát chung về khu du lịch Quảng Ngãi
Vị trí: Nằm ở sườn núi Hoang Hỏa, thuộc xã Ba Trang (huyện Ba Tơ). Đây là nơi anh hùng liệt sỹ – bác sỹ Đặng Thùy Trâm phụ trách và cũng là nơi làm việc cuối cùng của chị trước khi hi sinh.
Khi ấy, trạm xá Bác Mười nằm ở núi Cây Muối, huyện Ba Tơ, giáp ranh với Bình Định. Đây là trạm xá chị Trâm ghé vào đầu tiên khi từ Hà Nội vào Quảng Ngãi. Tại đây chị Trâm đã từ bỏ hình ảnh của cô gái Hà Nội, mỏng manh mà trở thành 1 nữ quân y dũng cảm gan dạ cùng người dân Đức phổ cứu sống biết bao nhiêu thương binh trong cuộc chiến khốc liệt.
Chức năng: là điểm di tích phục vụ tham quan và tổ chức các hoạt động mô phỏng sinh hoạt thời chiến
Quy mô: diện tích hiện tại 0,50 ha, mở rộng thành 1,01 ha, khoanh vùng bảo vệ di tích để phục vụ hoạt động tham quan và bảo vệ di tích. Bao gồm các khu vực chính
Các công trình phục dựng di tích
Các công trình phục vụ tham quan
2.2.2.4 Di tích nơi hy sinh của anh hùng liệt sĩ – bác sỹ Đặng Thùy Trâm
Vị trí: Nằm ở sườn núi Hoang Hỏa, thuộc xã Ba Trang (huyện Ba Tơ). Đây là nơi anh hùng liệt sỹ – bác sỹ Đặng Thùy Trâm bị phục kích và hi sinh trên đường đi công tác ngày 22/6/1970. Khóa luận: Khái quát chung về khu du lịch Quảng Ngãi
Việc tìm ra nơi hy sinh của chị Trâm cũng khá thuận lợi. Sau bốn tiếng đồng hồ, với hơn chục cây số đường rừng, các cơ quan chức năng đã tìm được đúng nơi hy sinh của chị Trâm ghi trong báo cáo tình báo quân sự của quân đội Mỹ. Ngày ấy, theo đồng bào H”re, do chúng phục lại đến 7 ngày đêm nên sau đó đồng bào đã phải đắp nổi nấm mộ “y tá Trâm” ngay tại chỗ đúng với tư thế đang nằm sau khi viên đạn Mỹ xuyên vào trán chị.
Chị Tạ Thị Ninh, một trong những người đã có mặt trong lúc chôn cất chị Trâm kể, ngày đó, các đồng chí phải lấy một tấm tôn để viết tên và ngày mất của chị Trâm. Và dùng còn mấy cục đá to mang từ nơi khác đến để làm mộ chí.Hiện nay gia đình chị Trâm từ Hà Nội đã vào đây để bốc mộ của chị về chôn cất tại quê hương.Tuy bây giờ tại di tích chỉ còn một hố đất nhỏ nhưng đối với những người hành hương đến đây để viếng thăm nơi hy sinh của chị thì nó vẫn rất thiêng liêng.
Chức năng: là điểm di tích phục vụ tham quan
Quy mô: diện tích hiện tại 0,30 ha, mở rộng thành 0,50 ha khoanh vùng bảo vệ di tích để phục vụ hoạt động tham quan và bảo vệ di tích. Bao gồm các khu vực chính:
Điểm di tích nơi hy sinh và Nhà bia tưởng niệm anh hùng liệt sỹ – bác sỹ Đặng Thùy Trâm
Các công trình phục vụ tham quan
Ngoài các điểm di tích trên, khu vực du lịch Đặng Thùy Trâm còn có các khu chức năng:
Khu dịch vụ đón tiếp
Vị trí: nằm ở bãi đỗ xe hiện tại cuối tuyến đường vào khu di tích Đặng Thùy Trâm từ quốc lộ 1A giáp hồ Liệt Sơn xã Phổ Hòa (huyện Đức Phổ).
Chức năng: là khu dịch vụ đón tiếp và điều hành chung của khu du lịch, đồng thời là điểm dừng chân trước khi tham quan các khu vực theo tuyến hành trình theo dòng Nhật ký Đặng Thùy Trâm.
Quy mô: diện tích hiện tại 0,1 ha, mở rộng thành 1,04 ha để phục vụ hoạt động đón tiếp và điều hành chung.
Các phân khu chính
Bãi đỗ xe: phục vụ nhu cầu đỗ phương tiện của khách đến tham quan, du lịch. Nhà điều hành và dịch vụ tổng hợp: là khu vực làm việc của ban quản lý và các bộ phận khác phục vụ hoạt động của khu du lịch đồng thời cung cấp các dịch vụ cho khách tham quan, du lịch như dịch vụ ẩm thực, bán hàng lưu niệm, hướng dẫn viên, cho thuê phương tiện…
Khu du lịch sinh thái Đặng Thùy Trâm
Khu du lịch sinh thái Đặng Thùy Trâm là khu du lịch sinh thái tổng hợp kết hợp khai thác các giá trị tự nhiên với hoạt động tưởng niệm anh hùng liệt sỹ – bác sỹ Đặng Thùy Trâm và cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ở Quảng Ngãi. Hai bên hồ Liệt Sơn có quy mô 100,58 ha bao gồm 2 khu vực chính
Phía đông hồ Liệt Sơn
Vị trí: Nằm ở sườn tây núi Trung Tràm giáp với hồ Liệt Sơn
Chức năng: là khu du lịch sinh thái hướng đến đối tượng khách du lịch nghỉ cuối tuần, khách du lịch thời gian du lịch ngắn. c, Quy mô: quy mô 33,91 ha Khóa luận: Khái quát chung về khu du lịch Quảng Ngãi
Bao gồm các khu vực chính
Khu bến thuyền: phục vụ giao thông thủy trên hồ Liệt Sơn
Khu ẩm thực: phục vụ nhu cầu ẩm thực của khách tham quan, du lịch.
Khu câu cá sinh thái: phục vụ nhu cầu câu cá của khách tham quan, du lịch.
Đất cây xanh cảnh quan kết hợp cắm trại: là khu cây xanh kết hợp các bãi cắm trại được thiết kế theo mô hình các căn cứ dã chiến với hầm chữ A, chòi nghỉ… giống với căn cứ quân sự của du kích và quân giải phóng trong chiến tranh chống Mỹ phục vụ nhu cầu cắm trại và hoạt động ngoài trời của du khách.
Phía tây hồ Liệt Sơn
Vị trí: Nằm ở sườn núi phía tây hồ Liệt Sơn
Chức năng: là khu du lịch sinh thái hướng đến đối tượng khách du lịch cao cấp như khách nghỉ dưỡng, khách du lịch có thời gian du lịch dài. c, Quy mô: quy mô 66,67ha.
Bao gồm các khu vực chính
Khu đón tiếp: là khu phục vụ hoạt động đón tiếp, quản lý… của khu du lịch
Khu thể thao nước: là khu tổ chức các hoạt động thể thao trên mặt nước phục vụ nhu cầu của khách du lịch như đi thuyền, câu cá, lướt ván…
Khu nghỉ dưỡng: phục vụ khách du lịch nghỉ dưỡng để tận dụng lợi thế về khí hậu, mặt nước. Khu nghỉ dưỡng được quy hoạch thiết kế lấy cảm hứng từ Nhật ký Đặng Thùy Trâm và cuộc kháng chiến chống Mỹ với hệ thống các công trình nghỉ dưỡng được xây dựng, bố trí theo mô hình các khu căn cứ của quân giải phóng như khu trại du kích, khu trại quân giải phóng, khu trại giao liên… Dự kiến quy mô khu nghỉ dưỡng khoảng 300 giường.
Khu công viên Đặng Thùy Trâm là khu công viên sinh thái lấy tên Đặng Thùy Trâm để ghi công và tưởng nhớ anh hùng liệt sỹ, bác sỹ Đặng Thùy Trâm với các hạng mục chính như vườn tượng miêu tả lại các sự kiện nổi bật về trong tác phẩm Nhật ký Đặng Thùy Trâm cũng như trong cuộc đời của chị, khu vườn trồng cây thuốc, cây cảnh quý, vườn cây lưu niệm Đặng Thùy Trâm, tượng đài tôn vinh Đặng Thùy Trâm và những liệt sỹ hi sinh trong kháng chiến chống Mỹ…
Khu bến thuyền: phục vụ giao thông thủy trên hồ Liệt Sơn.
Đất cây xanh cảnh quan kết hợp cắm trại: là khu cây xanh kết hợp các bãi cắm trại phục vụ nhu cầu cắm trại và hoạt động ngoài trời của du khách.
Khu du lịch sắc tộc bản H’rê – xóm Đồng Lớn
Vị trí: nằm ở xóm Đồng Lớn thuộc xã Ba Trang (huyện Ba Tơ) trên tuyến đường lên Điểm di tích Bệnh xá Đức Phổ.
Chức năng: là Khu du lịch sắc tộc khai thác các giá trị văn hóa dân tộc thiểu số H’rê để tổ chức các loại hình du lịch văn hóa, sinh thái theo mô hình các khu du lịch cộng đồng do cộng đồng tổ chức và hoạt động. Quy mô: 35,82 ha
Bao gồm các khu vực chính
Khu dịch vụ: là khu phục vụ hoạt động đón tiếp, quản lý… của khu du lịch với các hạng mục chính như nhà điều hành đón tiếp, nhà dịch vụ ẩm thực…
Khu dân cư: là khu dân cư hiện tại được quy hoạch mở rộng nhằm mục đích tạo môi trường sống đảm bảo chất lượng cuộc sống cho người dân H’rê khắc phục tình trạng du canh du cư của người H’rê đồng thời thu hút thêm người dân H’rê ở các nơi khác đến tái định cư. Trong khu dân cư được quy hoạch xây dựng hệ thống các công trình phục vụ cộng đồng như trạm y tế, lớp học, nhà văn hóa, sân thể thao, trạm biến áp, trạm xử lý nước sạch…. Ngoài ra nhà ở của người H’rê còn được khai thác phục vụ nhu cầu lưu trú của khách du lịch theo mô hình homestay . Dự kiến khu dân cư đáp ứng nhu cầu khoảng 500 người
Khu sản xuất nông nghiệp : là các khu đất được quy hoạch phục vụ hoạt động sản xuất nông nghiệp và thủ công nghiệp của người H’rê với các hạng mục chính bao gồm khu đất trồng trọt, khu xưởng thủ công… Bao gồm các khu vực chính Khu trồng trọt lương thực phục vụ nhu cầu và sản xuất
Khu trồng dược liệu: trồng các loại dược liệu quý, cung cấp cho hoạt động của khu du lịch Đặng Thùy Trâm và là sản phẩm hàng hóa bán cho khách du lịch và các nhu cầu khác.
Khu cảnh quan cây xanh: là khu cây xanh cảnh quan đồng thời phục vụ nhu cầu cắm trại và hoạt động ngoài trời của du khách. Khu du lịch sinh thái Thác Trời
Vị trí: Nằm ở khu vực Thác Trời chân núi Chư Ông Khen
Chức năng: là điểm du lịch sinh thái khai thác tiềm năng du lịch sinh thái của
Thác Trời đồng thời điểm du lịch góp phần đa dạng hóa các sản phẩm du lịch trên tuyến du lịch Đặng Thùy Trâm.
Quy mô: diện tích 20,17 ha Khóa luận: Khái quát chung về khu du lịch Quảng Ngãi
Khu dịch vụ: là khu đón tiếp và cung cấp các dịch vụ phục vụ khách du lịch như dịch vụ ăn uống, bán hàng lưu niệm, giải khát…
Suối nước và thác trời: là điểm cảnh quan phục vụ nhu cầu ngắm cảnh, tắm suối, thác… của khách du lịch
Đất cây xanh: là khu cây xanh cảnh quan đồng thời phục vụ nhu cầu cắm trại và hoạt động ngoài trời của du khách
Khu tưởng niệm Đặng Thùy Trâm
Vị trí: nằm giáp quốc lộ 1A ở thôn Nga Mân, xã Phổ Cường (huyện Đức Phổ) được phát triển trên cơ sở mở rộng Khu bệnh xá Đặng Thùy Trâm về phía nam. Chức năng: là không gian tưởng niệm anh hùng liệt sỹ – bác sỹ Đặng Thùy Trâm đồng thời là không gian tổ chức các sự kiện văn hóa, chính trị của địa phương. Quy mô: 2,17 ha
Khu quảng trường Đặng Thùy Trâm: là khu quảng trường được đặt tên Đặng Thùy Trâm nhằm tôn vinh anh hùng liệt sỹ Đặng Thùy Trâm đồng thời là không gian tổ chức các sự kiện văn hóa, chính trị của địa phương.
Nhà bảo tàng Đặng Thùy Trâm: được xây dựng mới theo mô hình các bảo tàng danh nhân trên thế giới là nơi trưng bày các kỷ vật về Đặng Thùy Trâm, những bài viết, những tác phẩm nghệ thuật về Đặng Thùy Trâm.
Khu vườn cây lưu niệm: là nơi dành để trồng cây lưu niệm.
Sân thể dục thể thao: cải tạo từ sân vận động hiện tại đạt tiêu chuẩn sân thể thao phục vụ cộng đồng dân cư.
Khu nhà quản lý: là nhà quản lý và điều hành khu tưởng niệm.
Khu hạ tầng kỹ thuật: là khu đất xây dựng các công trình kỹ thuật như trạm biến áp, máy bơm nước…
Khu bệnh xá Đặng Thùy Trâm giữ nguyên diện tích hiện trạng, chỉ tu bổ tôn tạo cảnh quan
Các công trình phục vụ tham quan: chòi dừng chân, bia giới thiệu di tích.
2.3 Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên
2.3.1 Vị trí và mối liên hệ vùng
Khu vực nằm trên địa giới hai huyện Đức Phổ và Ba Tơ bao gồm các khu vực
Khu vực huyện Đức Phổ – Khu vực phía ngoài: bao gồm 2 xã là xã Phổ Khánh và xã Phổ Cường với các khu vực chính bao gồm:
Khu vực di tích Trạm tiền phẫu Hang Bọng Dầu tại Núi Dâu, thôn Quy Thiện, xã Phổ Khánh.
Khu vực di tích hầm trú ẩn tại thôn Nga Mân, xã Phổ Cường..
Khu vực bệnh xá Đặng Thùy Trâm do bạn đọc báo tuổi trẻ quyên tặng nằm ở thôn Nga Mân, xã Phổ Cường.
Khu vực huyện Ba Tơ – Khu vực phía trong: thuộc xã Ba Trang với các khu vực chính bao gồm:
Khu vực di tích nơi hy sinh của anh hùng liệt sỹ – bác sỹ Đặng Thùy Trâm tại núi Hoang Hỏa xã Ba Trang.
Khu vực di tích bệnh xá huyện Đức Phổ (bệnh xá Bác Mười) tại sườn núi Hoang Hỏa xã Ba Trang.
Khu vực hồ Liệt Sơn nằm trên địa bàn xã Phổ Hòa (huyện Đức Phổ) và xã Ba Trang (huyện Ba Tơ).
Khu vực bản người dân tộc H’rê xóm Đồng Lớn tại xã Ba Trang.
Khu vực Thác Trời: nằm ở chân núi Chư Ông Khem, thuộc xã Ba Trang.
Khu vực gần trên trục giao thông phát triển kinh tế xã hội của tỉnh – Quốc lộ 1A có khả năng liên kết chặt chẽ với hệ thống các khu điểm du lịch ven biển của Quảng Ngãi như Sa Huỳnh, Mỹ Khê… hay các khu vực phát triển kinh tế đô thị của tỉnh như TP Quảng Ngãi, Khu kinh tế mở Dung Quất…. và xa hơn như Quy
Nhơn (Bình Định), Nha Trang (Khánh Hòa)…
2.3.2 Điều kiện tự nhiên Khóa luận: Khái quát chung về khu du lịch Quảng Ngãi
Địa hình
Khu vực có địa nằm trong khu vực dãy Trường Sơn chạy ra tới tận biển do đó địa hình phức tạp, bị chia cắt, đồng bằng xen kẽ với địa hình núi. Khu vực nghiên cứu lập quy hoạch có thể phân thành 2 khu vực địa hình với các đặc điểm địa hình chính
Khu vực địa hình đồi núi: bao gồm Khu vực di tích nơi hy sinh của anh hùng liệt sỹ – bác sỹ Đặng Thùy Trâm; Khu vực di tích bệnh xá huyện Đức Phổ; Khu vực
Liệt Sơn; Khu vực bản người dân tộc H’rê; Khu vực Thác Trời nằm trong dãy Chư Ông Khem có đặc điểm địa hình đồi núi, độ dốc tương đối lớn, cảnh quan đa dạng bao gồm cảnh quan đối núi, suối nước và thung lũng…
Khu vực địa hình đồng bằng: bao gồm Khu vực di tích Trạm tiền phẫu Hang Bọng Dầu; Khu vực bệnh xá Đặng Thùy Trâm; Khu vực di tích hầm trú ẩn nằm trong khu vực lòng chảo được tạo ra do các nhánh núi của dãy Trường Sơn chạy sát đến biển, địa hình bằng phẳng, độ dốc thấp.
Khí hậu:
Khu vực mang đặc trưng khí hậu nhiệt đới gió mùa vùng duyên hải Nam trung bộ đồng thời nằm ở phía đông dãy Trường Sơn nên chịu ảnh hưởng bởi địa hình núi cao tạo thành kiểu khí hậu với các đặc trưng chính là nóng ẩm, nhiệt độ cao, ánh sáng nhiều, lượng mưa tương đối lớn.
Nhiệt độ trung bình hàng năm là 25,8°C, tháng lạnh nhất trong năm trung bình 21,5°C, đặc biệt nhiệt độ trung bình tối thấp dưới 20°C.
Lượng mưa trung bình hàng năm là 1915 mm và phân bố không đồng đều.Mùa mưa kéo dài từ tháng 9 đến tháng 12, chiếm hơn 80% tổng lượng mưa. Tháng 10, tháng 11 là hai tháng tập trung các trận mưa lớn chiếm tới 50% tổng lượng mưa. Mùa khô kéo dài từ tháng 1 đến tháng 8, chỉ chiếm khoảng 20% tổng lượng mưa. Do địa hình tương đối dốc nên trong mùa khô các sông suối thường bị cạn kiệt nước.
Độ ẩm không khí: do ảnh hưởng từ biển, độ ẩm không khí tương đối lớn, bình quân đạt từ 80 – hơn 90%. Tuy nhiên vào mùa khô dưới ảnh hưởng của gió Tây từ phía lục địa thổi sang độ ẩm chi đạt trung bình dưới 60%.
Gió mùa: khu vực chịu ảnh hưởng của hai loại gió chính: gió mùa mùa đông và gió mùa mùa hè .
Cảnh quan tự nhiên
Các khu vực có cảnh quan đẹp bao gồm:
Sườn đồi bờ phía đông hồ Liệt Sơn có địa thế cao, thoáng đãng thích hợp với việc phát triển các công trình dịch vụ, nghỉ dưỡng…Khu vực thác trời có cảnh quan sinh thái đẹp dọc theo bờ suối và thác nước Khóa luận: Khái quát chung về khu du lịch Quảng Ngãi
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY
===>>> Khóa luận: Tổng quan về văn hóa của khu di tích Đặng Thùy Trâm
Dịch Vụ Viết Luận Văn Ngành Luật 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://vietluanvanluat.com/ – Hoặc Gmail: vietluanvanluat@gmail.com